THI VŨ
 

gọi đ̣ một tiếng lạnh hư không

Đề huề đầu bạc ḷng son
Trăm năm dẫu hét vẫn c̣n Ngh́n Thu

                                                       Q.T.

 

 

Liên tiếp nhiều đêm không ngủ v́ chuông điện thoại. T́nh h́nh cuối năm sôi động nơi tôi làm việc. Máy nói vọng từ các châu. Vọng từ Việt Nam. Bốn giờ sáng ngày 24.12.1992 chuông lại reo. Tôi xuưt không trả lời, v́ vừa qua một cuộc điện đàm dài lúc 2 giờ rưởi. Nhưng rồi lúc nào cũng vậy, linh thức quán âm luôn gọi ḿnh tỉnh thức.

Bốn giờ sáng ngày 24.12.1992, tiếng nói lảnh lót người con gái thi hào Quách Tấn tự đầu giây xa xăm bên kia buông ra tám chữ : “Ba cháu mất hôm 21 tháng 12 rồi !”. Tôi lặng người. Thi sĩ cuối cùng của một thời đại thi ca đă mất. Người tri kỷ cuối cùng của đời tôi không c̣n. Bốn ngày trước đây, lần đầu tiên tôi mơ thấy về Nha trang thăm anh Tấn. Mặt anh ốm o và buồn. Anh vừa nói vừa dẫn tôi ra khỏi nhà : Chú ra ngoài nói chuyện tiện hơn. Sáng dậy không nói ra, tôi có phần lo khi kể cho Ỷ Lan nghe. Linh cảm chuyện không hay. Song ḷng tự thắng lướt với lư luận, sắp Tết ḿnh nghĩ tới anh mà nằm thấy đó thôi. Đâu ngờ ngày ấy anh sắp đi.

Tôi gọi giây nói qua tổng đài Paris nhờ đánh điện tín về Nha trang cho Quách Giao, người con trai anh : “Vô cùng đau đớn được tin Ba mất. Ngôi sao Bắc đẩu thi ca vừa rụng. Tất cả nhân loại mồ côi. Chia buồn và cầu nguyện cùng gia đ́nh”. Dưới kư tên Quách Vũ như một cử chỉ thọ tang. Sau đấy viết lời khấp báo gửi các đài phát thanh BBC, VOA, RFI và các báo Việt ngữ ở Hoa kỳ và Úc.

Qua thư từ, tôi làm quen với thi hào Quách Tấn đúng 33 năm. Nhưng chưa từng được gặp. Thoạt đầu là người bạn vong niên tôn kính. Sau thành người anh kết nghĩa. Tuy măi măi là một người thầy về thơ, về nghĩa khí sống trong đời.

Thời ấy, tôi bỉnh bút cho tạp chí Liên Hoa ở Huế do hai Thầy Đôn Hậu và Đức Tâm làm chủ nhiệm và chủ bút. Một người nay đă mất, và bây giờ phải gọi là Đại lăo Ḥa thượng Đôn Hậu và Ḥa thượng Đức Tâm mới đúng. Nhưng thời tôi ở Huế chỉ có hai danh xưng độc nhất để gọi các Tăng sĩ đă thụ giới Tỳ kheo là Thầy hoặc Ôn. Ôn dành cho chư vị lớn tuổi thuộc hàng trưởng lăo. Tiếng Thầy vừa tôn kính, trang nghiêm, cao cả, vừa b́nh dị, thân gần, thương mến. Cấp vị đạo đức rất b́nh-đẳng-pháp ấy, ngày nay ít người ưa v́ ư thích danh vị cao sang.

Nhân đọc tạp chí Liên Hoa số tháng 5.1959, tôi gặp một bài thơ kư tên Quách Tấn :

Mặt mắt muôn xưa lớp bụi mờ

Sao mai đă mọc vẫn nằm mơ

Chờn-vờn nẻo bướm canh canh mộng

Quằn-quại ḷng dâu kiếp kiếp tơ

Biển thức lênh-đênh thuyền viễn-vọng

Ḷng trần quanh-quẩn bước vong-cơ

Phước duyên được thấy hoa Đàm nở

Ḷng Đạo nguyền dâng trọn ư thơ.

Bài thơ làm hôm 15.5.59 (mồng 8 tháng 4 âm lịch) nhân ngày thi hào Quách Tấn quy y theo đạo Phật.

Đọc bài thơ Quách Tấn nơi phương Tây xa lạ, nhưng trí tưởng tôi dựng lên dăy trường thành cổ kính Cố Đô. Sáng lên bao đóa sen hồng chúm chít giữa những ṿng lá lục trên mặt hồ dưới chân Cửa Đông Ba. Nhớ những trưa hè oi ả, nằm trên căn gác với Trần Mạnh Ḥa ở phố Gia Long ngó xuống hồ sen. Ḥa có giọng ngâm thơ trầm ấm, luyến ḷng. Những câu thơ theo tôi không dứt :

Gió rủ cành đi ngàn liễu khóc

Sông đừa lạnh tới bóng trăng run

Thuyền ai tiếng hát bên khuya vẳng

Ghé lại cho nhau gửi chút buồn

Đó là khoảng cuối 48 đầu 1949, một ít lâu trước ngày tôi bị bắt vào tù v́ tham gia phong trào học sinh kháng chiến. Từ đó xa măi hồ sen, xa măi giọng ngâm thơ tuyệt vời Trần Mạnh Ḥa, xa măi thơ Quách Tấn...

Măi tới năm 1959 nhân đọc thơ tôi liền biên thư thăm thi hào Quách Tấn qua ṭa soạn báo Liên Hoa. T́nh bạn nẩy sinh từ đó.

Bây giờ giấc mộng gặp nhau nơi vườn mận ở đầm Xương Huân Nha trang đă tan thành mây khói. Nơi một thời tấp nập giới thi nhân Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Yến Lan...

Bây giờ tôi sẽ phải đi một ḿnh tới cuối cuộc đời này với mọi rủi ro, bội bạc, đơn côi. Tuy không sợ hăi, than van. Bây giờ tôi mới lọn hết tâm sự Bá Nha đối với Tử kỳ.

Bây giờ, sau khi làm những việc khấp báo cần thiết, tôi ngồi đọc lại mấy tập thơ Quách Tấn gửi sang năm ngoái : Áo Đắp Tâm Tư, Giàn Hoa Lư, Trăng Hoàng Hôn, Tràng Hạt Ngũ Ngôn.

Một đời thơ tài hoa như thế sao lại hẩm hiu ? Được Tản Đà tán thưởng. Cụ Phan Bội Châu khen tặng. Nhà b́nh thơ nổi tiếng Hoài Thanh gọi Quách Tấn là “sứ giả đời Đường”. Chế Lan Viên, vào năm 1941, hết lời ca tụng :

“Qụách Tấn đă đi gần cái thể đọng của thơ thuần túy... Tưởng là khô khan của Cao-đạo, nhưng thật ra trong-suổt của Tượng Trưng... Tập Mùa Cổ Điển bé bỏng nhưng quá đầy đủ, trước hết, đă giải cho ta một mối lầm ác-nghiệt là phân chia bờ-cơi Thơ bằng hai chữ MỚI, CŨ chẳng có ư-nghĩa ǵ. Và cũng không thể gọi là sau hết, cái việc nó đem lại — ngoài những ư hay, tứ mới, ngoài những cảnh đẹp, t́nh sâu — một cái quư-báu nhất là HỒN THƠ, mà chưa một ai định nghĩa cho rành mạch”.

Năm mươi hai năm sau Chế Lan Viên, giở tuyển tập “Áo đắp tâm tư”[1] sáng tác từ 1955-1990, tôi gặp ngay bài Rụng tiếng vàng :

Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng

Sầu vương lau lách lạnh thành hoang

Tro tàn thư viện duyên ngao ngán

Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng

Gầy gọ gió sương tùng Thế Miếu

Bẽ bàng trăng nước trúc Hương Giang

Trông vời Thiên Mụ mây man mác

Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng

Huế, 1957

Tôi chợt hiểu bởi đâu Tản Đà đă không ngần ngại đặt Quách Tấn bên Yên Đỗ, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan...

Khí thơ hàm súc và diệu xứ trên đây không riêng khi thả t́nh vào cảnh, là sở trường của thơ Đường, Tống, mà ngay lúc đề cập tới thời sự, là điều thơ tối kỵ, bản lĩnh thơ Quách Tấn vẫn không nghiêng chao :

Nắm giềng mối nước nhóm con lai

Chẳng tựa ḷng dân tựa nước ngoài

V́ lợi v́ danh da xáo thịt

Sẵn quyền sẵn thế ngựa là nai

Máu xương để lạnh trời biên tái

Son phấn riêng trau gót vũ đài

Thanh kiếm diệt thù tay chữa vững

Ḷng thơ nửa khép cánh thư trai

Ḷng thơ nửa khép

Để Quách Tấn cạnh Yên Đỗ, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, hẳn vị trích tiên Tản Đà muốn đề cao chất thơ rặc Việt của những nhà thơ này. Dù họ sử dụng thể Đường luật.

Rặc Việt là ngôn ngữ thơ Quách Tấn. Chỉ mới hai tập thơ đầu “Một Tấm Ḷng” (1939) và “Mùa cổ Điển” (1941) nhà b́nh thơ thâm hậu Hoài Thanh đă nhận ra một phần sắc thái ấy trong cuốn “Thi Nhân Việt Nam” : “Quách Tấn đă t́m được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đă thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ”.

Càng về sau, với những tập “Đọng Bóng Chiều” (1966), “Mộng Ngân Sơn” (1967), “Giọt Trăng” (1973), ngôn ngữ Việt của Quách Tấn càng định h́nh cho một nền thơ không lai căn.

Đưa vào thơ những chữ b́nh dị địa phương như hường, rựng, đàng, xuưt, đậm lợt, rặc, lục ĺa... mà vẫn trợ thủ tài t́nh cho thơ thành thơ, là đặc sắc của Quách Tấn :

Mặt trắng đêm nao bút điểm hường

Tóc hoa rày đă nở đầy gưong

Mái tóc hoa

Xuống thềm đứng đợi sao hôm rựng

Ríu rít từng đôi én liệng quanh

Tinh thu

Tai ách khi không mắc giữa đàng

Vườn xưa mai mận xuưt thành hoang

Vườn xưa mai mận

Biết bao đậm lợt màu dâu bể

Mây trắng ngh́n thu vẫn trắng ngần

Ất sửu thu hoài

Quên tính trăng thu mấy độ tṛn

Mùi quê quen thú lợt mà ngon

Mùa thu quen thú

Buồn nhúm cỏ hoang tàn lại mọc

Nhớ theo triều biển rặc liền dâng

Dạ quế gừng

Trách ai chẳng biết ai mà trách

Lồng lộng trời xanh biển lục ĺa

Lắt lẽo cầu tre

Trách ai chẳng biết ai mà trách, là tuyên ngôn của người thi sĩ trên mặt đất và trước bạo chế cường quyền. Giới thi sĩ đă thoát ly được sự lừa gạt chính trị, đem thơ làm tṛ bưng bốc, xỉ vả, hay tuyên truyền. Ngay những lúc bị chà đạp, khủng bố, loại triệt, tiếng thơ họ vẫn hiên ngang, tuy gạt bỏ từ thâm căn, bản năng thù oán hay vạch mặt gọi tên kẻ hăm hại ḿnh. Họ đứng cao, đứng xa, đứng trên đầu kẻ thù ác, đỡ thơ lên cao xanh. Họ thừa biết việc vạch mặt chỉ tên là tự hạ ḿnh đứng ngang hàng với kẻ bất xứng. Những thi sĩ như thế, gần đây tôi thấy có Tô Thùy Yên, có Thanh Tâm Tuyền... Nhưng đă từ lâu trước, có Quách Tấn.

Trách ai chẳng biết ai mà trách. Một đời khổ hạnh, nát tan, nhưng vẫn buông được lời nhàn hạ, kiêu hănh, đại lượng như thế với kẻ thù. Chín năm Việt Minh kháng chiến chống Pháp, Quách Tấn bị nghi ngờ, bị quản thúc, bị cấm dạy học, phải thắt gióng đi bán rong. Người thi sĩ ấy, năm 1946 đă cùng với Chế Lan Viên ra Huế gặp Tố Hữu ở Tổng bộ Việt Minh “xin” đem thơ và thân phụng vụ quê hương. Nhưng Tố Hữu chê thơ Quách Tấn, chê luôn trái tim và con người[2].

Mười bảy năm sau ngày “giải phóng” và “thống nhất” đất nước, thân phận Quách Tấn vẫn bị chà đạp, khủng bố, tiếng thơ Quách Tấn vẫn bị bóp siết. Thế nhưng thi nhân xem thường :

Ta chẳng thù ai chẳng chống ai

Ích chi nuôi ư hại ta hoài

Khúc hát đưa bôi

Chưa đội đá vá trời, th́ chiếc bàn con cũng đủ cho thi nhân khép mở mười phương :

Thơ lỗi thời, văn chẳng thích thời

Ngày ngày cặm cụi viết văn thôi

Chi hèm trước ngơ đời chung chợ [3]

Một chiếc bàn con một góc trời

Viết văn

Viết ǵ ? Hẳn không viết truyền đơn, dù là truyền đơn bằng thơ. Quách Tấn nối tiếp nguồn thơ thiên cổ, thi tả nỗi ḷng ḿnh và người trước những biến thiên :

Tưởng chừng ai nấy vẫn nằm mơ

Bánh vẽ thay cơm cứ phỉnh phờ

Mặc ư theo hùa khen diệu kế

Nỡ ḷng ngồi cạnh ngắm nguy cơ

Ḥ rập nhịp

Lẽ đâu việc nước dám làm ngơ

Thấp trí khôn mong gỡ thế cờ

Đành phải treo gươm cầm lấy bút

May ra thiếu mật những c̣n tơ

Thế cờ

Dù đôi lúc tâm hồn thi nhân hết dồn nén :

Dân chủ vừa thành dân chửi khắp

Chửi hoài không xuể phải tung đao

Dấu xe qua

Ấy cũng bởi thi nhân với toàn dân bị đẩy măi vào thế bí :

Tiếng quyên mùa phượng chưa khô huyết

Trận lá rừng ve đă rụng thu

Làm người xưa khó nay thêm khó

Khó học tài khôn khó giả ngu

Ḷng thơ ngập bóng

Đành đoạn cá cua chung một giỏ

Sụt sùi cốt nhục cách đôi phưong

Đ́u hiu

Lời ngay là tội người không thế

Lẽ phải trong tay kẻ có quyền

Buổi tàn niên

Thời Việt Minh bị đưa đi an trí, thời Xă hội Chủ nghĩa bị tịch thu sách đem đổt, bị lùa đi kinh tế mới, bị bắt bỏ tù. Chỉ v́ Quách Tấn không biết làm thơ ca tụng chế độ, ca tụng “ḥa dởm dân tộc”, ca tụng chiếc lồng son văn nghệ đang “hồ hởi” giết chết thi ca. Nỗi trầm thống này chỉ phớt nhẹ qua thơ :

Dù chẳng phải chiên dù chẳng ghẻ

Biết ai là ngụy biết ai chân

Đường về bến cũ thân cô nhạn

Mây kéo chiều hôm bóng cổ nhân

Tránh khách

Cảnh tù tội nhét gọn vào vài ba điển cố :

Đời những xót xa câu nhất nhật

Ngày càng thấm thía nghĩa tam đa

Đ́u hiu nắng hạ ve Tây Lục

Trăn trở mây ngàn đá Nữ Oa

Qua ṿng khổ lụy

Câu nhất nhật là câu truyền ngữ, ví một ngày trong tù bằng ngh́n năm ngoài tự do. Ngày Tết, ta thường chúc ba chữ tam đa (nhiều phúc, nhiều lộc, nhiều thọ), nhưng với tù nhân, tam đa lại là đa ưu, đa cụ, đa nhục. C̣n tiếng ve rền qua song ngục làm thi nhân nhớ Lạc Tân Vương đời Đường thuở bị giam ở Tây Lục, ông làm bài thơ nổi tiếng vịnh ve sầu lúc thu sang (Tại ngục vịnh thiền). C̣n Nữ Oa ai cũng biết là người nữ kiệt đội đá vá trời.

Những lúc đau thương, khổ ách mới biết chẳng c̣n ai là bạn, kể cả những kẻ có học hành, biết suy xét phán đoán[4] :

Có việc chớ mong nhờ kẻ trí

Sa cơ đành chịu gánh phần ngu

Bóng trung du

Bạn bè c̣n chăng, là đôi cuốn sách, một tiếng đàn hờ, giọng sáo thổi lúc chiều lênh, hay chim hót buổi tàn xuân :

Giải buồn mở đọc ḷng thiên cổ

Từng trận hoa thơm rụng bóng mành

Rụng bóng mành

Đàn ai chợt thoáng qua song lạnh

Ḷng chẳng quen nhau vẫn ngậm ngùi

Mưa gió đầu thu

Giải buồn vịn đá lên am vắng

Lạnh thấu hư không địch bến chài

Nỗi ḷng sâu cạn

Đâu nơi chẳng tục để t́m thanh

Không học Cuồng Dư[5] học Quảng Thành5

Ngh́n dặm gió thu đùa tóc bạc

Xuân c̣n rơi rớt tiếng chim oanh

Xuân c̣n rơi rớt

“Áo đắp tâm tư” gồm 164 bài thất luật (thể thơ Đường gồm tám câu bảy chữ), đi từ thơ tâm sự tới thế sự. Tâm và thời nhất quán ḥa nhau trong thơ. Thơ không bị lôi kéo vào mối uẩn ức nhất thời, hay khí dụng cho những âm mưu. Thơ đẩy lên thành tư tưởng như một sinh thức. Thơ hiển hiện Người.

Nỗi thao thức Kẻ thừa (de trop, en trop) trong triết học Hiện sinh Pháp đă được sinh thức bất nhị của Quách Tấn giải mă :

Có c̣n thơ nữa không c̣n nữa

Không cũng không sao có chẳng thừa

Xuân không thơ

Biện chứng tả khuynh Tây phương lập tổng thể (synthèse) từ phủ định của phủ định (via Negativa), chắc chắn sẽ viết câu thơ trên thành “Không cũng không sao, có cũng thừa”. Nhưng tính chất nhị nguyên của triết học hư vô tây phương (nihilisme) đă bị đánh đổ bởi chữ chẳng của thi ca Việt : “Không cũng không sao, có chẳng thừa”. Diễn dịch tư tưởng ấy xuống thấp vào thực tiễn của một bộ môn, như bộ môn chính trị chẳng hạn, ta mới thấy câu viết chơi chơi này mang sinh thái cực kỳ ḥa hiệp và xây dựng : anh không khứng vào đảng tôi cũng chả sao, sự kiện anh hiện hữu đă là quư, đă không thừa cho dân và nước rồi. Hóa ra thơ là tư tưởng, là sinh thức, giúp ta nh́n thấy rơ cuộc đời vàng thau :

Ngại thiếu thay thừa, thừa vẫn thiếu

Lấy chân làm giả, giả thành chân

Ất Sửu thu hoài

Bạn thiết không gần, gần chẳng thiết

Tuổi già

Thiết chi sự giả tạo và đồng lơa, khi chưa gặp tri kỷ, khi chân lư đă nắm giữa ḷng tay, trong cách sống, ở hiện th́ :

Rằng chân rằng giả tâm vô ngại

Ngh́n trước ngh́n sau phút vĩnh trường

Sạch bụi phố phường

Nghĩ lại sá ǵ thân hạt thóc

Mà đem h́nh dịch bận tâm linh

Hé cánh dư sinh

Từ năm 1988 tới bốn năm cuối đời, Quách Tấn bị mù. Không c̣n tự đọc và viết như trước. Bên ḿnh không ai giúp đỡ. Một ḿnh ṿ vơ trong căn pḥng trống lạnh, ẩm ướt. Mái dột không tiền sửa. Trên sàn gạch la liệt thau, lon hứng nước giọt. Có đêm Quách Tấn một ḿnh chống dù ngồi viết, “viết ṃ theo thói quen, chữ được chữ mất, hàng xuống hàng lên”, nhưng thư cho bạn, thi nhân vẫn lạc quan nói “may là tinh thần vẫn sáng suốt”. Những vần thơ giai đoạn này khá năo nùng, bộc lộ nỗi khổ đau nghèo khốn và bệnh tật.

B́nh minh bỗng chốc ngập hoàng hôn

Cảnh tối tăm may tỉnh táo dần

Tiếng địch cô thôn

Gió bụi đi về xe ngựa đó

Sắt son chờ đợi giống ṇi đâu

Qua Hưng Thạnh

Từng cơn gió bấc thổi mưa dầm

Xa tối tăm gần cũng tối tăm

Đêm mưa bấc

Chợ đông3 thêm thấm ḷng hiu quạnh

Nhà dột riêng thương nghĩa cũ càng

Tiết thu sang

Tấm thân bảy chín giữ không tṛn

Hai mắt nay c̣n được nửa con

Một tiếng chim chiều kêu trước giậu

Mai già nở lạnh bóng trăng non

Mai già nở lạnh

Chuyện xưa lắm chuyện đă xa lơ

Chẳng nhớ khi không nhớ bất ngờ

Muốn chép mắt mù không thể chép

Làm lơ nghĩ tiếc chẳng đành lơ

Nhờ được chút nhờ

Tuổi tác già nua mắt lại đau

Nhờ con nhờ rể hết ḷng nuôi

Cũng may mũi, óc, tai c̣n nhạy

Ổi chín bên song gió thoảng mùi

Dư sinh

Có đui mới biết đui là khổ

Không lẫn là may lẫn mới phiền

Ước ao có kẻ vui ḷng dắt

Lên núi t́m thăm bạn cửa chiền

Buổi tàn niên

Bốn bể tri âm t́nh tản mát

Sáu mươi tác phẩm phận mồ côi

Lệ không ngăn nổi thường rơi lệ

Ngươi có c̣n đâu sợ hổ ngươi

An sở ngộ

Đui nhưng cũng từ đây Quách Tấn nh́n bằng tai, bằng cảm xúc. Nh́n bằng trí và nh́n bằng tâm. Người yêu thơ chỉ buồn cho sự kiện Quách Tấn ở quá lâu trong hiu quạnh và bội bạc. Dễ bốn mươi năm có thừa. Bội bạc v́ đôi lớp thi sĩ trẻ hănh tiến. Bội bạc v́ những chính thể phi dân tộc. Hay chỉ v́ vận số của những thiên tài bị bỏ quên giữa đời sổng ô tạp hôm nay hay đă từ bao nơi dương thế ?

Ẩn thân mà vẫn khó an thân

Bắt nhốt rồi tha đă mấy lần

Chẳng khứng theo hùa cam chịu khổ

Để cho sống sót cũng là ân

Vợ con ḷng cứ lo âu măi

Bè bạn ngày thêm thỏn mỏn dần

Bầy trẻ dại khờ c̣n bắt chước

Rằng thơ Quách Tấn chẳng bằng phân

Cam chịu

Phân hay không phân ? Người có văn hóa đâu đem uế khí nói chuyện văn chương bao giờ ! Ta cứ nhàn nhă đọc thơ, những lúc không bon chen mộng công hầu, chính khách, những lúc không lượt là siêu thị. Để thơ thăm viếng trái tim đang lăo hóa, như h́nh bóng một t́nh xưa thoáng tới. Biết đâu ta không khám phá một nguồn thơ đă khuất sau giọng lưỡi líu lo ngoại ngữ. Biết đâu ta không giàu lên nhờ thân cận với một tâm hồn khiêm tốn như thỏi ngọc dưới bao tầng đá :

Danh dù tro trấu bôi lem lọ

Tánh chẳng phô ra giấu vụng về

Bạn gần chưa thấu xa chưa tỏ

Chớ vội vàng khen chớ vội chê

Âm thầm

Tự đảnh giá ḿnh, Quách Tấn viết giới thiệu 164 bài trong “Áo đắp tâm tư”, cho rằng “sau khi cho tái bản «Mùa Cổ Điển» (1960) th́ thơ mỗi ngày mỗi xuống dốc, đáng lẽ phải dừng bước, nhưng ngựa quen đường cũ nên tôi cứ buông cưong”. Quách Tấn tự ví ḿnh như Giang Lang[6] :

Giang Lang tuổi đă về già

Bút đâu c̣n sức cho hoa thắm màu

Tôi không nghĩ vậy. Ai lại không thương đứa con đầu ḷng hơn hết, song mỗi đứa con về sau đều mang sắc thái khác với tính khí riêng. Với những tập “Mùa Cổ Điển”, “Mộng Ngân Sơn”, “Đọng Bóng Chiều”... thơ Quách Tấn đạt tới diệu mỹ. Qua “Giọt Trăng”, “Áo đắp tâm tư” v.v... thơ Quách Tấn đi từ diệu mỹ qua diệu chân. Cái Đẹp (Beau) đi vào Chân lư (Vrai) bằng sự Hồn hậu (Einfach) của Thơ.

Thơ Quách Tấn giải thoát ta khỏi những ràng buộc, hệ lụy, xích nối tâm thân ta vào cột mốc những ngày thường đơn điệu. Thơ man mác. Gọi ta lên đường, chuyển vận lại cuộc hành tŕnh vũ trụ. Thơ mênh mông. Trả lại ta không gian ngun ngút, vừa man dại vừa hùng vĩ, làm đổ sụp những pḥng ốc hộp chật, những phố phường chui rúc, những đụng chạm chán chường. Tại sao cứ ḥm im cuộc đời dịch chuyển nồng say hôm nay ? Thơ là múa và bay, cao măi với thinh không. Hẳn là thơ ấy gợi buồn. Nhưng không buồn, làm sao rứt áo ra đi ? Rứt áo ra đi, mới biết có tự do, biết ḿnh là CÁI ǵ chưa bị xay thành bột. Thi sĩ là kẻ lên đường...

Đời nửa khói mây ch́m bóng mộng

Gọi đ̣ một tiếng lạnh hư không

Tĩnh mịch

Ư thức hệ và triết học đă chết ở Tây phương, tiếc thay cái đà vọng ngoại nhị nguyên vẫn c̣n quay tít ở Việt Nam ! Khiến người thơ lâm lụy :

Nước chia đôi nhà cũng chia đôi

Anh nam em bắc bạn phương trời

Sụt sùi ḍng thu

Nước loạn đă không tài cứu nước

Thân già chưa sẵn chước an thân

Bờ chia thế hệ thêm heo hút

Ruột rút văn chương lắm ngại ngần

Bên sách

Khiến hồn thơ quạnh quẽ :

Thôi đừng thắp nến chi thêm lệ

Giếng ngậm trời khuya trăng chứa chan

Tiểu hàn

Giọt nến như lệ chảy dưới ánh sáng bập bùng. Trăng chứa chan trời, song ḷng giếng thẳm đành ngậm mối cảm thông trong âm u. Như Quách Tấn giữa quê quách hoang vu :

Mưa tạnh non cao đọng bóng chiều

Tiếng chuông chùa cổ vọng cô liêu

Đá hẹn : mùa rêu xanh nấn ná

Ḷng quê : dặm bấc thẳm đ́u hiu

Sau mưa

Sống tải vào mối chờ mong. Dù nỗi chờ mong tối hậu Quách Tấn đă đạt : ḷng ḿnh, áo ḿnh không nhàu bẩn trước cuồng phong :

Những mong vận hạn khi qua khỏi

Áo đắp tâm tư nếp chẳng nhàu

Vô đơn chí

“Thi sĩ là người đứng măi trên núi cao, bên sông nước gọi đ̣. Thi sĩ làm gạch nối cho sinh diệt chuyền hơi hiện hữu. Người thi sĩ đứng đó, dưới hố bom, bên làng cháy, giữa cuộc t́nh duyên hay chết chóc, để thiên đàng và địa ngục khỏi nghiêng lệch. Để thiên đàng và địa ngục chỉ là ư niệm. V́ sự sống mới là hơi thở tồn sinh. Tồn sinh thơ”.

Mấy ḍng trên tôi viết trong bài giới thiệu Quách Tấn đăng ở tạp chí Văn số đặc biệt về Quách Tấn phát hành tháng 9.1970 tại Saigon. Nay xin chép lại làm mộ chí nơi tâm tưởng cho thi hào Quách Tấn, cùng mọi thi sĩ đă vượt thoát chốn trần gian.

 

THI VŨ


Paris, 4.1.1993


(trích “Gọi Thầm Giữa Paris” sắp tái bản)

 



[1] Khởi đầu tác giả đặt tên “Sau Mùa cổ Điển”. Nhân đọc bài Vô Đơn Chí tôi rút ba chữ “Áo đắp tâm tư” xem như hợp với hồn thơ Quách Tấn, viết thư đề nghị và đă được Quách Tấn đồng ư qua thư ngày 22.5.92.

[2] Thảo nào, đàn em văn nghệ của Tố Hữu nằm trong đài Việt ngữ RFI Pháp nhận được tin Quách Tấn qua đời, vẫn không loan tin, dù dư giờ ra rả chuyện “ḥa hợp ḥa dởm dân tộc”, chuyện văn học hợp lưu, dù vẫn ra rả chuyện các nhà văn Hà Nội.

[3] Trước nhà thi sĩ ở Nha trang ngày xưa có đầm nước gọi đầm Xương Huân, sau này thị xă lấp đất xây chợ.

[4] Chế Lan Viên có thể là một trong những kẻ trí này. Chuyện sau đây có thực. Chế Lan Viên là bạn tâm giao, là em kết nghĩa của Quách Tấn. Hai người xem nhau như ruột thịt. Thế mà sau 1975, khi Chế Lan Viên đến Nha Trang diễn thuyết. Được tin, dù không được mời Quách Tấn vẫn đi nghe, đứng chờ ngoài cửa đón thăm. Nhưng Chế Lan Viên lướt qua thấy Quách Tắn, chỉ nói hai chữ Pháp : “C’est toi!” (Bạn đó à!) rồi đi thẳng, không hỏi han thăm viếng.

Vào những năm 1968, Chế Lan Viên đi công tác tuyên truyền sang Paris. Tôi v́ mối t́nh với Quách Tấn ngỡ họ là anh em, nên bắn tiếng qua ông ông Trần Văn Khê xin gặp thăm riêng Chế Lan Viên. Chế từ chối, dặn rằng muốn gặp th́ đến hội trường Maubert nơi ông diễn thuyết cho Hà Nội. Tôi không đến, tuy nhờ ông Khê trao tặng Chế hai tập « Mộng Ngân Sơn » và « Đọng Bóng Chiều » của Quách Tấn. Cũng qua ông Khê, Chế nhờ nhắn với Quách Tấn là : « Vẫn nhớ thương nhau như xưa. Hồi qua Trung quốc có hái 3 lá liễu ở Hàng Châu chờ ngày đoàn tụ trao nhau ». Thuở ấy tôi xúc đụng chân t́nh và nhân đạo của một thi sĩ dù đă theo Cộng sản. Sau 75, tôi hỏi Quách Tấn, th́ anh chưa bao giờ thấy mặt 3 lá liễu !

Một Phật tử đi nghe Chế Lan Viên về khen hết lời với tôi v́ câu nói của Chế : « Trên chiến hào, dưới trận bom, tôi luôn mang trong người cuốn kinh Lăng Nghiêm ». Số là thời ấy phong trào Phật giáo tại miền Nam là lực lượng lớn cộng sản cần ve văn. Tôi nhớ làm phiền ḷng người Phật tử khi phản ứng : « Coi chừng mưu mô Việt Cộng ! ». Hoá ra mưu mô thật. Với người Cộng sản duy vật và duy lợi, th́ lá liễu, thi ca, t́nh nghĩa… tất đều như món hàng trao đổi, hầu thu vét cho đấng Chí Tôn là Đảng.

[5] Tiếp Dư người nước Sở, giả cuồng để được sống yên ổn, đời gọi là Sở Cuồng. Quảng Thành là một cao nhân đời Đường, sống an nhàn trong xă hội, nhiều khi ra ngồi giữa chợ xem bói xem tướng hầu t́m người tài đức.

[6] Tên là Giang Yêm, lúc trẻ nằm mộng thấy hoa nở nơi đầu ngọn bút. Từ ấy văn chương ngày càng rực rỡ. Lúc tuổi già, mộng thấy một bà lăo đến đ̣i hoa đă cho mượn. Từ đó văn chương suy sút dần.

 

 

http://www.gio-o.com/ThiVu.html

 

 

© gio-o.com2015