đọc
trong mùa Tết
PHAN TẤN UẨN
TRONG TRÍ NHỚ
tạp ghi
Nguyên Đán là một con tàu chở nhiều kỷ niệm nhất của người Việt Nam. Ngày ấu thơ níu bâu áo mẹ hí hững đi mừng tuổi khắp làng, mủi ta hĩnh cao và mặt ta bừng ấm niềm vui rộn rang. Trừ tịch. Xông đất. Cây nêu…
Dĩa mức gừng, đòn bánh tét, ta không nghe ý vị trong các buổi thường nhật, nhưng vắng chúng những ngày tết nhứt, ta nghe một nổi nhớ rất đổi bâng khuâng. Ta nhớ mỗi 29 Tết, bọn nít ta thật đông quay quần bên nồi bánh tét, thay nhau đốt rơm “chụm” lửa nấu bánh suốt đêm ở một góc sân nhà ngoại, mỗi đứa má ửng đỏ vui sướng ngơ nghếch như vầng trăng non, lửa lên cao, nhóm sáng một bình minh rạng rỡ giữa đêm.
Ta không nhận ra Nguyên đán nếu như ta biết chắc không còn cách nào ta có thể hôn hít lên những xóm quê thân yêu của ta ngày cũ vào buổi sáng mồng một Tết, nếu như ta không tự tay xòe 5 thẻ bài O Bồng, con Đấu, Ngủ Trưa, Trường Ba, Lá Liễu…đánh một ván bài ghế để nghe tiếng rao bài lanh lãnh, rung cao của ông Bộ Trân, ông Viên Dĩnh, chú Bưởi Thí, bác Diêu Cam…Cuộc vui “bài ghế” nô nức trên mặt đường làng áo xanh áo đỏ dòm xuống con hói nước lờ đờ trong xanh trông rõ những bóng cá nhởn nhơ bơi dưới chân lũ bèo mắc cạn thỉnh thoãng phóng đầu lên “móng” , khiến cả trăm vòng tròn tỏa song lăn tăn thanh bình cuộc sống…
Những ngày Tết Mậu Thân (1968), ta co rúm nằm bẹp xuống nền nhà của một người quen ở Phú Thọ, nghe đạn mửa thét loạn cuồng ngay trên Trường Đua. Đúng ra, khoảng những ngày đó, bọn “tân binh” ta chỉ được phép quanh quẩn “trong phạm vi quân trấn Vũng Tàu”. Thế nhưng cả bọn “tò te lính mới” ta hơn bốn mươi đứa rủ nhau “dù” về Sài Gòn ăn Tết. Sáu cái đầu lặn lội về trình diện sớm nhất lại bị cạo “trọc lóc bình vôi” mặc dù không có luật cạo trọc dành phạt cho Sinh Viên Sĩ Quan. Ba mươi lăm đứa về sau, mỗi đứa lảnh ít nhất mười củ, nhiều nhất ba chục, trừ lương theo số ngày bị lãnh củ,hóa cho nên có đứa đến kỳ lương đó không them ra ban tài chánh lóng ngóng chực chờ. Riêng sáu cái đầu bất hạnh kia được tha bổng và mau mắn ưu tiên sung vào Tiểu Đoàn Trần Nguyên Hãn lên đường “giải phóng thủ đô”. Về Trường, nhiều đứa vồ ngay ngay được mấy cái “Ban Thưởng Tưởng Lục” oai ra rít. Ta gọi bọn hắn là những “chiến sĩ cứu nước” đầy triển vọng. Một đứa bạn ta khi mãn khóa, đáo nhậm đơn vị mới, lập hồ sơ cá nhân, hắn ghi thành tích : Tưởng Lục Cấp Sư Đoàn làm người sĩ quan trưởng ban một trố mắt : “Cái chi lại vừa ra trường lại tưởng lục ? Tôi đây nè, hồi lên Thiếu úy cả mười hai tháng mới có một cái. “ Đứa bạn ta nói: tôi về đánh cứu Sài Gòn, trung úy. Hắn chìa miếng giấy tưởng lục làm người sĩ quan chuyên nghiệp thán phục gật đầu…
Giải cứu thủ đô xong, bọn ta ứng chiến lu bù. Giờ học tập mỗi ngày được thâu gọn : bảy rưỡi sang đến bốn rưỡi chiều, còn bao nhiêu : ứng chiến. Đêm nằm kích ở Chợ Bến Đình rình mò từng cái bóng mờ hiện qua. Đêm nằm khơi ngoài hiên một trại gà, heo, nghe gió biển bần bật thổi tung poncho mùng mền, cát dụi đầy chân tóc, thân thể khúm lạnh run rẩy. Kín đầy trong gió, mùi c. heo , c. gà chun cứng vô mũi suốt đêm không cần bôi dầu thơm dầu gió cũng quen hơi.
Nói ra cho đầy them những trang kỷ niệm riêng tư đáng nhớ, không phải như một kể lể gian lao khốn khó, bởi cùng lúc đó ta sung sướng biết tin người mẹ ở Đà Nẵng vẫn bình an, người em gái ngoài Huế vẫn còn sống sót. Ta còn biết cơn đại nạn đã nhai nghiền Huế tiêu tan, đớn đau khổ nhục hơn ta vạn lần. Ta cũng biết hể còn một ngày ta sống đây là một ngày may mắn mang hồng phúc đời trước…
Những mùa Tết tha phương cầu thực và “tầm đạo” trong Sài Gòn, ta không về được xóm làng, cái màu đen kín đặc biệt của đêm ba mươi Tết, ta không tìm đâu ra. Cùng với một người bạn, ta long ngông kéo chân trên Bonard nhìn bọn trẻ vô thừa nhận ăn Tết trên hè phố. Ta ngồi xuống bậc cấp của một cửa hiệu đóng cửa, hút thuốc và buồn ứa nước mắt, nghĩ quanh co đến số kiếp những thằng lang bạt thiếu quê hương và ta lầm bầm : “Phải ôm cứng nơi chôn nhau cắt rún của mình trong những ngày Nguyên Đán đầu xuân để thấy được cái đậm đà của tình quê máu mủ và hình bóng cha ông một đời không phụ bạc tổ tông…”
Gần cả chục năm nay ta không được ăn Tết quê nhà cũng là cả chục lần ta không thấy Nguyên Đán đổi thay ra sao. Lâu lâu nhận được tin một ông trùm, một ông bộ, một ông hương …già yếu qua đời, những êm đềm khao khát của tuổi nhỏ trổi dậy, ta bùi ngùi nhớ thương hình bóng họ đã một thời dán sít vào những Nguyên Đán ấu thơ ta. Ta nhắm mắt mơ màng, ao ước…
(Ý Thức số 19 - 1970)
PHAN TẤN UẨN
gio-o.com 2019