Nguyn Th L Liu

T́m Li Mt Thi Thơ Yêu

tản mạn

 

Cuối cùng rồi th́ cũng xong. Tôi nhấn nút send, gửi đi bài thơ cuối của trang Thơ T́nh Nam 1975 đến chị chủ bút của trang mạng Gió-o. Có cái ǵ đó trong tôi, vừa lâng lâng thoải mái, vừa tiêng tiếc bồi hồi, như thời tiết đang giao mùa ở ngoài kia.

Bây giờ là tháng Giêng, hàng cây khô rụng lá đứng trơ trọi trong bầu trời xám âm u quơ nhánh khẳng khiu chờ tia nắng ấm. Mùa hè đă qua, mùa thu đă chết, mùa đông cũng sẽ bỏ lại sau lưng. Tôi cũng sẽ bỏ lại sau lưng, những giờ phút t́m ṭi, những buổi tối thức khuya, những buổi sáng dậy sớm. Nhưng những bài thơ t́nh óng ả nồng nàn, của nền thi ca miền nam Việt Nam trước 1975, sẽ măi măi ở lại, trong ḷng những người yêu thơ.

Tôi không bao giờ hỏi, v́ sao chủ biên của Gió O lại nhờ tôi phụ trách mục thơ t́nh này. Tôi không phải thi sĩ có tên tuổi, trước cũng như sau 1975. Cũng chẳng phải là người thích xuất hiện trên những diễn đàn thơ văn mạng. Chồng tôi nhắc nhở khi biết tôi nhận lời phụ trách mục Thơ T́nh Nam 1975, em không cùng “gu” với chị Huệ, chọn bài không đúng ư chị ấy th́ sao. Tôi không hỏi tại sao. Chị nhờ và tôi nhận lời. Thế thôi. Chị “biết” tôi. Chị vẫn thường phàn nàn, L. bảo thủ quá, phải thay đổi đi, chịu chơi lên . Bảo thủ hay không, tôi chỉ là một người yêu thơ, trước 75 tôi là con nhỏ lờ khờ thích đọc thơ, chẳng biết ǵ. Nếu có người thắc mắc, tại sao lại để con nhỏ không biết ǵ đi chọn thơ. Chẳng sai chút nào. “Con nhỏ (người đàn bà)  không biết ǵ” muốn góp một tay vào việc t́m giữ thơ cũ của những nhà thơ miền Nam, đă bị tịch thu, tiêu hủy, chôn dấu, sau ngày Việt Nam Cọng Ḥa bị sụp đổ. Chúng tôi thâu lượm nhặt nhạnh những đồ vật c̣n sót lại sau khi căn nhà đă bị tàn phá, và trưng bày vào một căn pḥng nhỏ của viện bảo tàng thời gian.

Tháng Giêng năm 2010, nghe theo lời chỉ dẫn của Lê Thị Huệ, tôi bắt đầu hăng hái bước vào mạng, và hoa mắt v́ những sợi mạng nhện chằng chịt. Không phải như con bướm nhỏ tung tăng từ vườn hoa này sang vườn hoa khác, tôi như con chuột mơm dài possum mỗi đêm vẫn lọ mọ vào trong vườn sau nhà, rù ŕ đi từ trang thơ này sang trang thơ kia, nhức đầu mà vẫn không t́m được thứ ḿnh như ư. Thơ th́ hằng hà sa số nhưng không ghi năm tháng, tôi nào biết có phải thơ làm trước 75 hay không, hay các thi sĩ đó có thuộc về miền nam Việt Nam hay không. Tôi email về nhờ vài người bạn c̣n ở lại Việt Nam, hy vọng họ có thể, bằng cách nào đó, t́m được những sách báo cũ. Tôi nhận được trả lời với 98 cái tên, kèm theo vài địa chỉ website. Thất vọng, tôi bắt đầu bằng đi t́m những người bạn cố tri, nằm ngay ngắn trên các kệ sách trong nhà, lục lọi, được một số tập thơ và tạp chí. Tôi lang thang vào các tiệm sách trong khu phố Việt Nam. Nhưng những tiệm sách ngày nay không c̣n thuần là tiệm sách, là tiệm bán băng nhạc kèm theo sách báo th́ đúng hơn. Không mua được quyển nào ngoại trừ tập “Thơ Giữa Đời Thường” của nhà thơ Vương Đức Lệ, tôi mang về nhà v́ không nỡ nh́n thấy tập thơ có thủ bút của tác giả (đă qua đời, đề “tặng Thúy Diệm và phu quân”) bị bỏ ra rao bán. Sau ngày 30 tháng 4 năm 75, chính quyền cọng sản ra lệnh tịch thu sách báo, băng nhạc “Ngụy”. Gia đ́nh chồng tôi vốn yêu quí sách, liều mạng gom hết tất cả sách đi giấu. Mớ sách báo này đă bầu bạn với người em trai chồng tôi trong thời gian giam ḿnh, trốn đi “nghĩa vụ” (ở lứa tuổi bị bắt đi lính đánh Campuchia). Ngày mẹ và các chị em chồng tôi đi đoàn tụ gia đ́nh với chúng tôi, năm người bà già, con gái đă khệ nệ khiêng theo hầu hết các sách báo này, những quyển c̣n lành lặn, bỏ lại một số lớn đă bị mối đục khoét. Tôi mang xe qua nhà em chồng tôi, chở về được một thùng báo BÁCH KHOA, vài số báo VĂN HỌC và VĂN HÓA NGÀY NAY. “Con đường t́nh tôi đi” đă có màu hồng hồng.

Bấy giờ tôi lại như “chuột sa hủ nếp”. Mỗi đêm, tôi quây quần với đống sách báo, thức khuya hơn một chút, đọc, đánh dấu và ghi chú. Thỉnh thoảng, tôi cũng bị “trật đường rầy”, đang đi t́m thơ th́ lại lạc vào các truyện ngắn, biên khảo, tùy bút. Cứ xem như ḿnh tự thưởng cho ḿnh vậy.  Nhờ thế, tôi t́m được bài của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn viết về nữ sĩ LL Lan, tác giả bài “Năn Nỉ” (Tôi đang mơ giấc mộng dài, đừng lay tôi nhé cuộc đời chung quanh..), bài “Tưởng Nhớ Nguyễn Nho Nhượn” của Lê Đ́nh Phạm Phú, bài “Tưởng Niệm Phan Phụng Thạch” của ṭa soạn tạp chí Bách Khoa. Song song với việc t́m đọc báo giấy, tôi vẫn phải trở lại mạng. Dẫu sao, in-tờ-nét vẫn là nơi cung cấp tin tức bài vở phong phú. Chỉ tội cho cái lưng của tôi, ngồi ngày không đủ, (đi làm về) tranh thủ ngồi đêm. Sau vài tháng truy t́m, danh sách 98 người đă tăng lên gấp đôi (và gần gấp bốn khi tôi chấm dứt).  

Khởi đầu chị Lê thị Huệ đă dặn tôi, mỗi thi sĩ một bài thơ, chỉ một bài thôi, cùng với năm sinh và tử (nếu đă qua đời). Đây là một điều khó v́ có thi sĩ có nhiều bài thơ hay, ngang nhau khó chọn. Thường, tôi hay chọn bài ít phổ thông, mong góp thêm phần phong phú cho gia tài thơ văn cũ c̣n sót lại. Theo tôi, nếu những đứa con tinh thần này đă được các nhà thơ chọn để in thành sách, hoặc gửi đến đăng báo, đương nhiên phải là những bài thơ tác giả ưng ư. Chả lẽ các thi sĩ lại coi thường đọc giả mà chọn những bài thơ tầm tầm để xuất bản hay sao. Tôi cũng thích chọn những bài thơ đă được phổ nhạc v́ một lư do đơn giản, người nghe nhạc chỉ biết có nhạc sĩ thôi; họ thuộc ḷng bản nhạc nhưng không hề biết tác giả của những lời ca trữ t́nh kia là ai. Một nhà thơ, vài bút hiệu, chúng tôi cố gắng chỉ chọn một. Tuy nhiên vẫn không thiếu sự sơ xuất như trường hợp nhà thơ Nguyễn Đức Nhân/Thạch Điền. Một hiện tượng khác khá đặc biệt, một số bài thơ, dưới những bút hiệu ẻo lả, thật sự lại là của các đấng mày râu như Hoàng thị Bích Ni/ Nguyễn Phú Long, Lê thị Tư/ Nguyễn Bạch Dương, Châu thị Ngọc Lê/ Luân Hoán, Nguyễn thị Liên Phượng/ Nguyễn Nho Sa Mạc, Nguyễn thị Thùy Mỵ/ Đặng Ḥa, Tôn Nữ Hoài My/ Vơ Tấn Khanh, Nguyễn thị Thu Vân/ Vũ Trọng Quang... Trong trường hợp này, chúng tôi chọn bài thơ dưới bút hiệu “mày râu” nếu có thể. Cũng có khi, tôi t́m đỏ mắt chỉ có được một bài. Không đường lựa chọn! Thích nhất là khi được các nhà thơ hợp tác, gửi về vài bài thơ t́nh cũ, tôi không phải đi t́m, cũng không sợ làm thất vọng tác giả.

Nơi đây, tôi xin trân trọng cám ơn các văn thi sĩ đă gửi về những bài tản mạn, thơ t́nh cũ, nhạc  phổ từ thơ, hay những lời nhắc nhở, bổ túc: Cao Thoại Châu, Chu Ngạn Thư, Diên Nghị, (hiền thê thi sĩ Dương Kiền) Trương Kim Anh, Đặng Phùng Quân, Hà Nguyên Du, Hà Nguyên Dũng, Hoàng Hải Thủy, Hoàng Lộc, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Chí Bửu, Hồ Đ́nh Nghiêm, Lê Vĩnh Phúc, Lê Vĩnh Thọ, Lữ Quỳnh, Mạc Phương Đ́nh, Ngu Yên, Nguyễn Hàn Chung, Nguyễn Miên Thảo, Nguyễn Miên Thượng, Nguyễn thị Vinh, Nguyễn Xuân Thiệp, Phan Ni Tấn, Phan Xuân Sinh, Song Nhị, Thi Vũ, Trang Y Hạ, Trần Huiền Ân, Trần Phù Thế, Triều Hoa Đại, Viêm Tịnh, và Vơ Chân Cửu. Tôi cũng xin mượn bài viết này để gửi lời cám ơn đến hai nhà thơ Luân Hoán và Trần Hoài Thư. Mỗi khi có khó khăn, tôi phải nhờ đến hai nhà thơ này bằng cách vào http://luanhoan.net hay mở ra tập Thơ T́nh Miền Nam (Thư Ấn Quán xuất bản) dày cộm. Các diễn đàn thơ văn, các web blog, tôi đi từ trang này sang trang kia, đă cung cấp cho chúng tôi thật nhiều dữ  kiện (nhưng một vài lần cũng gây ra “tai nạn nhức đầu”). Tôi thật cám ơn. Các bạn Nguyễn Kim Anh, Đàm Kim Liên, các anh chị Ngọc Phụng, Nguyên Hạ Lê Nguyễn, Bảo Khanh, Lư Ngọc Sơn, Nguyễn Phương Sơn, Nguyễn Lương, Hải Lưu, Cao Lưu, Trần Đại Vỹ Dạ đă đóng góp cho trang Thơ T́nh Nam 1975, là những khích lệ giúp cho tôi thêm can đảm vào lúc khởi đầu tôi không thể quên. Cám ơn các anh chị. Và cuối cùng, tôi phải đặc biệt cám ơn Bạch Trúc (người bạn mới quen), nhà thơ Nguyễn Thanh Châu, đă bỏ rất nhiều thời giờ ngồi gơ lại những bài thơ cũ từng đăng trong các báo VĂN, BÁCH KHOA, KHỞI HÀNH, Ư THỨC, SÁNG TẠO, VẤN ĐỀ, TUỔI NGỌC, VĂN NGHỆ TIỀN PHONG...và nhà thơ Chu Ngạn Thư đă chụp lại và gửi cho, nhiều bài thơ t́nh trên các báo cũ khiến trang Thơ T́nh Nam 1975 thêm phong phú. Tiếc thay, chúng tôi đă không đủ sức, đủ phương tiện nên trang Thơ T́nh Nam 1975 vẫn c̣n nhiều thiếu sót. Hy vọng một ngày nào, sẽ có người bổ túc cho những thiếu sót đó.

Trang Thơ T́nh Nam 1975 sẽ không có mặt nếu chị chủ biên Lê thị Huệ không khởi xướng. Cám ơn chị đă tin cậy và dành cho tôi quyền tự do lựa chọn, không cằn nhằn khi tôi gửi bài đến chị vào phút chót. Thoạt đầu, chị đề nghị bỏ ba hoặc bốn bài thơ vào chung một trang cho mỗi tuần, Và trên mỗi file, nếu Liễu cho một tấm ảnh của Mạnh hay Liễu th́ Oh My God, Perfect!!!, chị viết.


Nhưng khi bắt đầu gơ lọc cọc vào bàn máy vi tính trang thơ thứ nhất của Bùi Giáng, tôi đổi ư. Tôi trân quư các bài thơ và tôn trọng các thi sĩ, mỗi bài thơ riêng rẽ một trang mang lại cho tôi cảm giác trang trọng hơn. Và như thế, tôi tự làm khó ḿnh, mỗi bài thơ có một tấm h́nh phụ bản riêng. Đôi khi, lợi dụng lúc đang bận việc nhà, tôi nhờ chồng tôi bỏ hộ, dĩ nhiên là bỏ h́nh của anh (anh chụp nhiều h́nh hơn tôi). Điều này trở thành “hiểu ngầm” khi tôi chuyển thơ tới chị Huệ và “CC” tới anh.

Thơ T́nh Nam 1975, dành cho những thi sĩ Miền Nam trong giai đoạn 1954-1975, đă sinh sống hoặc được nuôi dưỡng bởi Việt Nam Cọng Ḥa không phân biệt lư tưởng, chính kiến. Những bài thơ t́nh được in báo, được xuất bản mà không cần phải có h́nh ảnh xe máy cày hoặc súng pḥng không bắn tàu bay Mỹ . Đây là điểm dị biệt giữa một nửa nước Việt Nam tự do và một nửa nước Việt Nam cọng sản. V́ thế, sau nhiều lần bàn luận, trao đổi ư kiến, chúng tôi đă đồng ư tuyển đăng tất cả những bài thơ t́nh có thể t́m được, những bài thơ t́nh của tất cả các thi sĩ từng sinh sống trong cái nôi miền nam, nơi mà tư tưởng không bị xiềng xích và kéo lê về một hướng.

Chiến tranh Bắc-Nam kéo dài  hơn hai mươi năm 1954-1975.  Không ít th́ nhiều, h́nh ảnh chiến tranh, thân phận con người, tâm tư và t́nh cảm của những người  bị vây khốn trong cuộc chiến không khỏi bàng bạc qua các bài thơ, dẫu là thơ t́nh, lúc ẩn lúc hiện. Tôi đọc, đọc, và đọc. Càng đọc tôi càng thấy gần gũi hơn với các nhà thơ không quen biết, càng thấy ḿnh trở về với không gian và thời gian tưởng đă xa xôi, đă đánh mất. Tôi thấy tôi đang đi trên con đường làng quê thơm mùi bông lúa. Tôi thấy tôi trên chiếc ghe bầu lướt trên con lạch nhỏ. Tôi thấy tôi đang nằm lắng nghe tiếng mưa rớt lộp bộp trên mái hiên Tôi thấy tôi đang ngồi trong hầm trú ẩn nghe tiếng đạn nổ lung bung. Tôi thấy tôi trơ trọi trên chiếc cḥi canh giữa tiền đồn heo hút. Tôi thấy tôi tan trường về cặp ôm trong tay áo bay trong gió. Tôi thấy, tôi thấy...Ôi kỳ diệu thay những bài thơ cũ! Đă mang lại cho tôi một thoáng hương xưa.

Dải lụa thơ t́nh mong manh mà các thi sĩ miền Nam đă dệt vẫn hoài bay trong gió. Xin cám ơn các nhà thơ.

 

L-Liu

01/2012

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiLeLieu.html

 

http://www.gio-o.com/ThoTinhNam1975.html

 

 

 

© gio-o.com 2012