NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

NGUYỄN LƯƠNG VỴ, NGƯỜI-THƠ HÁT ÂM

 

tản mạn

 

Tôi muốn nói về Nguyễn Lương Vỵ bằng thơ của Nguyễn Lương Vỵ,
Một Người-Thơ, hát âm giữa đôi bờ sinh tử.
Sao gọi là Hát Âm? Xin trích dẫn bài thơ Âm Nhạc của Nguyễn Lương Vỵ viết năm 1970 (đã đăng trên Tập San Văn Chương vào năm 1973, Sài Gòn, và đã in lại trong thi tập Âm Vang Và Sắc Màu), thay một câu trả lời:

Âm Nhạc

Âm nhập cốt

Âm binh phiêu hốt tiếng tru

Ta tru một kiếp cho mù mắt

Mù lệ đề thơ để nhớ đời

À ơi rượu đỏ hoàng hôn tắt

Ta dắt hồn ta túy lúy chơi

 

Âm nhập cốt

Âm vàng mấy gót hồ ly

Vạn kỷ cung thương còn réo rắt

Còn ru ta mãi quãng đời xanh

À ơi ai hát ngoài phương Bắc

Chờ nhau tinh đẩu sáng long lanh

 

Núi đá ngân nga chìm giếng lạnh

Sói đầu mây bạc áng thiên tinh

Ô hô quan tái đà xao xuyến

Giọt máu năm xưa bỗng tượng hình

 

Lâng lâng tinh khí xuất luân hồi

Nguyệt thở thơ bay rợp nắng đồi

Khuya khoắt ta nằm trong lá mới

Dìu nhau hoan lạc quỷ nương ơi

 

Quỷ nương cốt đá ta cốt mây

Ôm ấp nghìn thu sương chớp vây

Trống mái ướt dầm cung bậc chin

Reo suốt thinh không đợt sóng gầy

 

Thạch cầm vỡ

Nghìn năm thơ thẩn với âm vang

Ta ôm trời đất sầu vô hạn

Thương nhớ thanh xuân mộng úa tàn

À ơi dâu bể chưa khô cạn

Chưa dứt tâm tư vọng ngút ngàn…

 

Phải chăng, Thơ, chữ nghĩa của Thơ đã vận vào mệnh của Người-Thơ Nguyễn Lương Vỵ kể từ khi anh còn rất trẻ?
Một Người- Thơ, vẽ chân dung của mình:

“Vẽ chân dung mộng ảo mà chơi
 Mắt môi nắng quái cái luân hồi…

Chân dung ảo thơ rền thạch động
Nước khua rằm rụng xuống hai vai…

Vẽ chiêm bao chào cái chân dung…
(Chân Dung – Hòa Âm…tr.13.))

Một Người- Thơ, hầu như chỉ có một niềm tin duy nhất là Thơ, tận hiến trong cái cô độc của cảm xúc Thơ, cho dẫu chết, nếu có, vẫn thơ mộng quá, một con quỷ đọc thơ, một bóng ma nhặt bóng chiều tà:
 
Chết tươi làm con quỷ xướng thi
Chết héo làm con ma lầm lì
Quỷ xướng thi, kinh kỳ rụng xuống
Ma ta lầm lũi lượm tà huy…                                                                                                              

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài số 32, tr.74.)

Nếu con ma lầm lì, mỗi hoàng hôn được có trên tay một chút nắng tàn đem về vẽ chiêm bao để nhận diện mình, thì, tôi cũng muốn được cái lầm lì ấy của một bóng, ma.

Hoàng hôn muôn thế kỷ sau
Dứt khoát
Thơ
Còn
Đỏ
Au…
(Huyết Âm, bài 33, tr.49.)

Một Người- Thơ, tờ tợ hình ảnh một hiệp sĩ, hứng nghịch cảnh:

Này cái lạnh ta thề sẽ buốt
Suốt xương da để vẽ môi cười
Mắt vời vợi lời kia trong suốt
Để ta cuồng khóc hận khôn nguôi…

(Hòa Âm…,Chân Dung, tr.13.)

Kể ra, một chân dung như vậy, thật quá đậm, bóng lẫn hình.

Tôi đã đọc những thi phẩm: Âm Vang Và Sắc Mầu - Phương Ý- Hoà Âm Âm Âm Âm…- Huyết Âm – Tinh Âm của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ. Điều cảm nhận đầu tiên của tôi là cảm được cái khí mạch xuyên suốt các tập thơ, nối nhau như một dòng suối, nhưng ở mỗi thi phẩm lại thể hiện mỗi lực chảy khác nhau. Từ ý tưởng, ngôn từ, nhạc thơ, và trên hết, là cảm xúc thực của tác giả, như phát ra một lực mạnh mẽ truyền đến tâm can người đọc.

Và bây giờ, trong tay tôi, tập thơ mới nhất của anh, Bốn Câu Thất Huyền Âm.                         

Chỉ cái nhan đề của tập thơ, với một chữ huyền đã khiến tôi thấy u buồn, nghe như mình lọt vào không khí những tiếng đàn trầm. Nghe thôi, muốn tìm ở đâu đưa đến những âm thanh ấy thì hình như mình chạm vào một màn ảo mờ của khói, của sương. Và có phải, giữa vườn hoa chập chùng, tôi chỉ tìm được lối đi bằng tiếng rơi của những cánh hoa?
Đó là điều làm tôi muốn viết thêm về Nguyễn Lương Vỵ, bằng cách lồng vào bài viết cho Huyết Âm từ năm 2009 (đã post trên trang web Da Mầu.) Tôi muốn những ý nghĩ của tôi xuyên suốt một sợi chỉ cảm xúc, vì cảm nhận mà những thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ đã mang lại cho tôi, như những mắc xích nối nhau, không thể tách rời. Phải để nó phơi một mạch như thế này thì tôi mới diễn tả được hết những bổng trầm của cảm xúc. Nên tôi cũng xin lỗi những ai đã đọc bài tôi viết về Huyết Âm trước đây, bây giờ lại thấy khác đi, thì cũng vì điều tôi đã nói ở trên. , cũng vì Thất Huyền Âm trong ngôi vườn Bốn Câu mênh mông của nhà thơ.
Tiếng chuông gióng lên ở đầu non kia, gió đẩy đưa lay động đến từng ngọn cỏ – đó không phải là đồng thanh tương ứng của những tâm hồn đồng điệu đó sao?               
Viết về Huyết Âm, tôi chỉ nói đến cảm xúc của người đọc thơ, hôm nay, tôi lại muốn nói hơn một điều, không, hai điều, mà cũng không nói chắc được, vì, cho đến lúc này, ngoài cái đồng điệu văn chương ra, tôi còn nương tựa vào đó một nghĩa bạn hiền.

Hồi 17 tuổi, tôi đã chép vào cuốn sổ ghi chép của mình, những câu thơ từ một tạp chí, nó làm tôi quá thích, chẳng hiểu sao mà hình ảnh và những chuyển động trong 4 câu thơ hòa quyện vào cùng một không gian một cách nhịp nhàng đến thế:

Biển đắp một toà sương
Lạnh đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Núi gầm lên khóc nhớ…                                                                                                            

Giữa cái cô liêu của tịch dương và tiếng gầm vô thanh những hạt lệ núi giữa đôi bờ lạnh, nhỏ, khói sương kia có một nhịp tương giao rất đỗi quạnh hiu, và cũng quá thơ mộng.
Mãi đến 40 năm sau, tôi mới gặp được người viết, Nguyễn Lương Vỵ, anh viết bài thơ nầy vào năm 16 tuổi.                                                                                                          
Gặp được, là nhờ cái cười vô vi, cái vẫy gọi hý lộng cuộc đời của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan.

…Ba người ngồi đó, một mái hiên tây, tôi nghe Nguyễn Lương Vỵ dạ thưa chào hỏi, tôi nghe đôi mắt Nguyễn Tôn Nhan cười sau cặp kính trắng, tôi nghe tôi im lặng, chưa nguôi nỗi ngạc nhiên giữa nắng vàng Calif. lại đang vẽ một cách mong manh cái dáng mảnh khảnh, lãng đãng của Nguyễn Tôn Nhan. Tôi nhìn anh, và tôi vẫn thấy ở đó, cái điệu ơ hờ như là bất cứ thứ gì bám trên màu áo bụi bụi kia cũng đều bị hụt hẫng. Anh nói lẫn trong tiếng cười: “Khánh Minh đấy Vỵ, xem tôi nói có đúng không. Rồi ông sẽ thấy những gì tôi nói đều không sai.”  Giới thiệu hai bên như vậy.Tôi nghe họ cười, rất trẻ [thơ?] khiến một lúc tôi có cảm giác như mình là bà chị, của một người hơn tôi bốn tuổi, của một người thua tôi gần một tuổi. Nguyễn Tôn Nhan khuấy ly cà phê đá bằng những tiếng lanh canh thật to của cái muỗng dài, rồi hớp một hơi, đặt xuống bàn, kêu, dở muốn ói!                     

Không khí buổi gặp gỡ ấy hình như im lặng nhiều hơn. Và tôi thì thêm một nỗi xôn xao, trong buổi trưa ở phố Bolsa này, lại thấy lênh đênh dạt tới một vạt nắng ấm Sài Gòn ngày cũ. Ba người ngồi đó trong tiết xuân mát lạnh. Ca dao bảo: Ba cây chụm lại nên hòn núi cao; còn ba bóng cô đơn đang ngồi gần nhau thì làm nên cái gì đây? Nếu tôi đem câu này mà hỏi anh Nguyễn Tôn Nhan vào lúc đó thì chắc chắn tôi sẽ nghe một câu trả lời lẫn tiếng cười ha hả sảng khoái: Thành cái bếp chứ cái gì!!! (Mà hình như anh Nhan có nói thế thật, ở một lúc khác sau đó.)
Cái im, lặng đến nỗi tôi cảm thấy như chúng tôi đang lọt vào một cõi trời đất nào khác, mà Nguyễn Tôn Nhan thì muốn rống lên một tiếng: Lòng như trời trống mênh mông… rỗng rang chẳng một vọng âm (thơ Nguyễn Tôn Nhan), Nguyễn Lương Vỵ thì muốn thả một làn khói vào phổi mà “Tri ân tiếng nói giữa trần gian…” mà nghe “Trong mịt mùng của một trái tim đã khô/Những niềm trời vẫn còn long lanh giọt lệ…” (thơ Nguyễn Lương Vỵ), còn tôi thì mềm lòng: “Dạ thưa trời đất cùng ta cõi này, một vòng sinh tử đang quay…” (thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.)

Tôi cũng cảm nhận được cái không lời giữa họ, hai nhà thơ, đồng thời với tôi, mà tôi quý mến, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Lương Vỵ; một người thì xem mọi điều trong cõi đời nầy như trò bông đùa, hóa giải mọi nỗi thống thiết thành tiếng cười, mà khi nghe thì người ta cảm thấy cả tiếng vỡ của một hạt bụi. Một người thì tận thấu những nỗi đau của kiếp người bằng cái trầm thống của máu thịt tủy xương, mà khi nghe ta cảm ứng được âm vang lồng lộng tiếng rơi của từng hạt lệ. Tôi chợt hiểu ra, tận cùng, họ gặp nhau trong cái bóng của niềm cô độc riêng tây. Bởi vậy mà họ nói với nhau bằng nỗi tri kỷ im lặng, bằng nỗi long lanh của bọt bia trắng như mép một con sóng đang vỡ ra trên bờ cát im, trong đêm trăng sáng. Đó là Nguyễn Tôn Nhan và Nguyễn Lương Vỵ mà tôi thấy trong những ngày ngắn ngủi ở Little Saigon này, cộng thêm một tôi, một cái bóng của niềm thơ cô độc nữa.
Đó là buổi đầu tôi gặp Nguyễn Lương Vỵ,(còn thơ Nguyễn Lương Vỵ thì tôi đã gặp từ hồi tôi 17 tuổi rồi)

Mà phải tường tận điều này để đừng đớn đau:

Vừa mới hợp là vừa mới tan
Tuyệt bi âm. Sấm dậy tro than

                                                                                                               

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài số 4, tr.18)

                                                                                 

Biết thế, mà vẫn nghe quá đỗi bi thương của tiếng tro than sấm dậy ấy, khi gần hai năm sau, nghe tin Nguyễn Tôn Nhan đã: “Thiết tha anh đến mép viền vô vi/Thõng tay chẳng đem chút gì(Thơ Nguyễn Tôn Nhan) cho dẫu đối với anh, “Mai kia cõi ấy dịu dàng lặng câm...(thơ Nguyễn Tôn Nhan) nhưng, với tôi và Nguyễn Lương Vỵ ở lại, thì, bây giờ đúng là đang ngơ ngác lặng câm cõi này. Anh không đem theo chút gì, nên dường như anh đã để lại cho hai người bạn nơi mái hiên tây ngày nào một chỗ mênh mông lạnh. Anh có nghe Nguyễn Lương Vỵ Thất thanh gọi Nguyễn Tôn Nhan không trong một bài thơ Tám Câu Lục Huyền Âm? Và anh có nghe những giọt nước mắt giả vờ của tôi trước cái trước cái đùa ly biệt của anh?
(Trong cuộc điện đàm viễn liên, một tháng trước khi anh đột ngột ra đi, anh có nói sẽ viết tặng tôi một bài thơ, đã đăng ở báo Xuân Khởi Hành 2011, giờ đọc lại tôi thấy lời lẽ trong bài thơ ấy, y như là anh đã linh cảm được cái chết của mình vậy.)

Từ buổi Nguyễn Tôn Nhan  “Ba La Yết Đế tới rồi/Ngó lui còn một em ngồi bên kia…”, và không biết bao giờ thì anh “Vậy thì anh cũng xin về” ?, trong khi chờ đợi anh quyết định xin về thì, những lần ngồi nói chuyện với nhau, không thể nào mà hai chúng tôi không ít nhất là, rất nhiều lần, nhắc Nguyễn Tôn Nhan. Riêng Nguyễn Lương Vỵ thì vẫn đốt thuốc nhìn lên trời khuya nói chuyện với người bạn tri âm của mình. Một tối, Nguyễn Lương Vỵ gọi phone cho tôi,“Tui nhớ Nhan quá, nghe dùm tui câu thơ vừa viết cho Nhan…”  Nỗi nhớ cũng lây hay sao?! Tối đó tôi nằm mơ, thấy Nguyễn Tôn Nhan, anh chỉ cho tôi “ngôi nhà” của anh. Sau khi đi qua một con đường đất có tiếng xe ngựa chạy lóc cóc, tôi thấy nhà anh có ba (?) ngọn đèn sáng, anh nói anh ở gần nhà ba tôi, và ông Mai Xuân Thưởng (ba tôi mất trước anh Nhan 4 tháng)… Sáng dậy, tôi gọi phone cho Nguyễn Lương Vỵ, hỏi, “Ông Mai Xuân Thưởng là ai? Đêm qua, Khánh Minh nằm mơ thấy anh Nhan, có nhắc đến tên ông ta…” , Vỵ nói, “ Đừng nói tào lao nữ sĩ ơi! Có nhớ thì mần thơ đi!”  Buổi sáng hôm sau tôi tìm tài liệu đọc mới biết được Mai Xuân Thưởng là một nghĩa sĩ chống Pháp cùng thời gian ông hy sinh, lúc đó tôi mới biết về ông Mai Xuân Thưởng mà tôi đã nghe anh Nhan nói trong giấc mơ đêm qua.

Vỗ một bàn tay
Hát âm nhớ bạn
Nhan đi vô hạn
Nhan về vô biên…                                                                                                                           

(Hát Âm Nhớ Bạn - Nguyễn Lương Vỵ.)

Vô hạn vô biên… Người ơi! Dường như nằm trong âm vỗ một bàn tay, người bạn, đêm đêm nhớ nhau, không cúi đầu để nước mắt rơi xuống, mà lại trông lên trời để hát âm ngơ ngác một mình, từng giọt âm là từng giọt lệ mù khơi… Nghĩ mà thương người ở lại quá chừng chừng!. Còn tôi thì: “Tay tôi bé lệ tràn không đủ nắm…” Người ơi!

Trở lại chuyện gặp nhau của ba chúng tôi tại mái hiên Tây hôm đó, mà tôi đã gọi là một nhịp của số mệnh để tôi gặp được người thơ Nguyễn Lương Vỵ. Một tình bạn cho tôi một chỗ dựa tin cậy trong những chia sẻ đồng điệu của văn chương.                                                                                                 

Máu đá hòa với máu ta
Nở ra một đoá kỳ hoa
Tỉnh ra thấy mây đầu núi
Chó bay sủa trắng chiều tà…                                                                                                           

(Chiêm Bao Thấy Mình Đâm Đầu Vào Núi  – Âm Vang Và Sắc Màu, tr.29.)                                                           

Thời gian?! Đàn lỗi nhịp khôn kham
Không gian?! Mây trắng nhớ vân am
Còn một mình một thân một bóng
Con Ma Ta vừa mới hội đàm…
                                                                                                                

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 3, tr.16.)
 
Ma ta lầm lũi gom tiếng nói
Ngần sương dấu hỏi dấu than bay                                                                                               

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 34, tr. 83.)

Thương câu thơ tái sinh trong mộng
Chào nhau lồng lộng gió muôn xưa
Âm son lịch kiếp vừa rung động
Hạt máu long lanh. Nhạc cũng vừa…
                                                                                             

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 18, tr.46.)                                                                                          

Từ con Người-Ma chênh vênh giữa buổi tiệc-máu-xương trong Huyết Âm đến bóng ma lầm lũi gom nhặt nắng chiều, gom nhặt tiếng nói, về cùng người thưa thốt, có phải là băng qua giấc mộng tử sinh dằng dặc để có non xanh một quỷ xướng thi? Tôi không biết rõ nữa! Chỉ cái không khí mà tác giả mở cho ta thấy con ma ta vừa mới hội đàm, làm tôi ưng ức những nhịp đập bên ngực trái, và con Người-Ma đi ra từ nước mắt, hạt máu làm tôi thấy sợ cái màu trắng của núi xương…                                                                                                                          

Nếu cho là tôi chủ quan, cũng không hề gì, khi nói thơ Nguyễn Lương Vỵ, nhất là ở Huyết Âm, luôn gây ra cảm xúc đau lẫn sợ nơi tôi, bởi vì tôi cảm thấy được, dù là trong sầu bi hay đôi khi trong phẫn nộ, dù là với những lời thơ đẹp hay với những lời thơ thô xì tàn nhẫn bông đùa, thì Nguyễn Lương Vỵ cũng đã viết ra từ phản hồi âm vang của huyết lệ, và tôi cũng cho rằng, một người mà đã sống trọn vẹn, sống thực với cảm xúc của mình thì sẽ thấy được, nghe được âm vang và sắc màu của tâm linh, và sẽ phổ được vào hồn cốt của chữ nghĩa, một chữ nghĩa theo kiểu của Nguyễn Lương Vỵ:

Thơ biếc máu để nuôi hoài chút lửa

Vuốt mắt sắc tím hát
Nghe âm hoa trong veo
Nghe âm
đá cuốn theo…                                                                                                                

…Nghe hết cái không nghe
 
Gió vô sắc nhưng rằm kia quá mượt
Thơ u hồn đắp nấm gọi tinh âm                                                                                                       

…Xác chữ hồn âm ngân ánh lửa
…Âm ngún cháy xanh lời mở cửa…                                                                                                                                                                   

(Trích rải rác một số câu trong thi tập Hòa Âm Âm Âm Âm…)

Trong thi tập mới nhất
, Bốn Câu Thất Huyền Âm, 2011, tôi càng thấy rõ rằng tôi đã cảm nhận đúng ngay từ những câu mở đầu trong bài viết về thi phẩm Huyết Âm trước đây, vẫn khí thơ như thế:

Vậy nhé! Xé câu thơ đứt ruột
Vẫn chưa bưa cái buốt giang hà
Vẫn hận mãi một lời đã vuột
Vẫn trông vời hồn cốt trôi xa …                                                                                                

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài số 20, tr.50.)

Nếu Huyết Âm là âm vang vết roi bi thương của cảm xúc, thì Bốn Câu Thất Huyền Âm là nhịp búng từng tiếng trầm, như những tiếng đàn được gảy ra từ một khí thơ đầy nội lực, khi nghe, nếu không đủ sức thẩm âm thì sẽ khó mà nghe cho thấu, nhìn cho ra cái điệp trùng mênh mông của cõi miền hư không tịch mịch ấy. Mà khi đã nghe thấu, nhìn ra, thì, tất cả lại được ném vào cái phiêu bồng của nhớ quên…

Gió cứ đi và sấm cứ rền
Cho chiều câm bầm huyết gọi tên
Cho ta cắn nát màu ưu hận
Nhai nuốt ngon lành chuyện nhớ quên…                                                                                  

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 26, tr.62)

Tôi thấy mình đang đi một mình trên đường đầy gió, tiếng gió rau ráu chuyện buồn đau nhân sinh, và những sợi tóc nhỏ quay lại mơ hồ một tiếng gọi…                                                           

Thơ Nguyễn Lương Vỵ, luôn là như thế, ngoài hình gợi, nhạc gọi, ý lay, nó còn mở ra một không gian chập chùng muôn chiều, thổi tràn một khí lạnh, bắt người ta phải liên tưởng…

Khí lạnh ấy là âm vang của nỗi bi thương tự tại:                                                                           

Chân dung ảo thơ rền thạch động
Nước khua rằm rụng xuống hai vai…                                                                                         

(Hòa Âm, tr.13)                                                                                              

Những ảo, rền, khua, rụng, kéo người ta cảm thấy như hai vai của chính mình đang chạm vào từng hạt rằm của con trăng vắng bóng.

Khí lạnh ấy là âm thang cao nhất của cô độc:                                                                                        

Độc tấu với bóng mình
Ngực rêm rêm mộ địa…                                                                                                               

(Hòa Âm, tr. 31)                                                                                                                           

Hỏi ai đã từng cảm thấy nhịp đập con tim là tiếng rêm của huyệt mộ?

Mà cũng lạ, thức ngàn năm một hạt sương câm, thì Thơ mới bắt đầu chín tới, khi gỡ khỏi cái vòng Kim-Cô-Thiên-Địa ư?                                                                                                               

Giọt sương thức ngàn năm
Ta ngồi câm tuyệt đối
Khi thiên địa xa xăm
Thơ bắt đầu chín tới…                                                                                                                          

(Hòa Âm, tr.34)

Hú một mình vì khô nước mắt
Cô liêu. Trời đất ác vô cùng…                                                                                                          

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 15)                                                                                          

Ác hay là…? Ngẫm ra, Người-Thơ có được một đặc ân khi mang số phận cô độc để bước vào hành trình Thơ hun hút, thử hỏi nếu đầy tiếng xôn xao thì làm sao nghe được tiếng khô của hạt lệ?

Nếu coi hành trình đến với Thơ là một cuộc hành hương thì Người-Thơ dường như đã chứng ngộ được cái nguyên vẹn, tinh khôi, và mới mẻ được nuôi dưỡng từ những con chữ kỳ diệu ấy:

Năm mươi năm theo em
Từ khi trong mầm khí
Con trăng non rên rỉ
Con suối khát nguồn xưa…                                                                                                                              

(Hòa Âm, tr.27)

Ngàn câu thơ chết yểu
Xanh hết suối hồn ta…                                                                                                                                 

(Hòa Âm, tr.28)

Rất mát lạnh câu thơ chín tới
Nhịp bàn chân. Chuông ngân vời vợi
Vỗ bàn tay vũ trụ vần xoay
Lời vô ngôn mà sao mắt cay?!...                                                                                                      

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 28, tr.66)                                                                                              

Có phải một mình trong hang động im vắng của cõi Thơ, cái tịch mịch làm người ta nghe được mọi âm vang của cõi tồn sinh – như người xưa đã nói – mà Người-Thơ đã hoà âm được cảm xúc của mình với tiếng vang của thời gian, tiếng rền của một hạt bụi, tiếng chân bé nhỏ của đứa con gái bé nhỏ yểu mệnh về từ âm tuyết lạnh, để thấu được tuỷ chiều, để nghe trời ứa mật, đá khóc, nghe tiếng máu chảy mềm? Nếu thế, thì cái-một-mình quả là một hồn ai nghiêng xuống rất bầu bạn, trong đêm.

Rú máu sông đồng vọng bóng quê nhà…                                                                                                               

(Hòa Âm, tr.54)                                                                                                                                                       

Chờ con về trong âm huyệt tuyết
Nhai tiếng chuông rền trong xương ta
…Chờ con về trong âm huyệt tuyết
Lạnh trầm ngân
Búng huyết
Thơ Ca
…Con về chưa mà tuyết vẫn rơi
Ngàn bông lau
Huyệt tuyết
Hú dài…

(Hòa Âm Tuyết, Hòa Âm…tr.175)                                                                                                                

Nếu không hằn một nỗi đau nơi xương tuỷ, nỗi nhớ thương đứa con gái nhỏ đã mất, thì không thể viết được “Nhai tiếng chuông rền trong xương ta/Lạnh trầm ngân búng huyết thơ ca/ Ngàn bông lau/Huyệt tuyết/Hú dài…”  bi thương đến vậy.

Tôi cũng chưa được đọc ở đâu những lời thơ nói về niềm thương cảm người Mẹ như vầy:

Con về bên Mẹ nghe huyết âm
Nghe tuỷ xương réo rắt mưa dầm
… Chắp tay hứng trọn huyết âm Mẹ
Lô hoả thuần thanh âm huyết hoa                                                                                                             

(Huyết Âm, bài 38, tr.59)

Cũng hiểu được, khi biết Nguyễn Lương Vỵ đã rút từ đâu ra những con chữ để có được nỗi niềm thương và đau dữ dội thấm thía như thế:

Róc huyết âm
Đá khóc
Xanh                                                                                                                                            Tuyệt đối
…                                                                                                                                                  

(Huyết Âm, bài 1, tr.11)                                                                                                                         

Róc con âm, con chữ lạnh thấu tuỷ xương!!!

Vậy nhé xé câu thơ trắng tủy
Để còn nghe rền rĩ mưa âm
Âm đỏ ngực một bầy ngựa hí
Thây ma trôi.Thế kỷ tím bầm..
.                                                                                                                  

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 21, tr.52)
 
Hình ảnh nằm trong câu 4 của đoạn thơ trên là của thế kỷ chúng ta đó ư, nhà thơ? Tại sao chúng ta để nó hằn dấu bầm tím của vết thương vậy? Hỏi là trả lời rồi.

Mẹ huyền vi
Rung huyết
Đón tinh Cha                                                                                                                                                   

(Huyết Âm, bài 5, tr.16)                                                                                                                      

Rung huyết, hình ảnh rúng động một cách thiêng liêng trong giây phút sáng tạo. Để rồi đưa đến cái bất ngờ:,

A!
Gái huyền
Đẻ đái
Cái Người-Ma                                                                                                                                              

(Huyết Âm, bài 6, tr.17)                                                                                                                           

Làm tôi liên tưởng một cách rất buồn về thế giới chúng ta đang sống. Nơi người ta coi thường mạng sống của con người, coi nhẹ cái nghèo, cái đói, cái bất hạnh của người khác. Hình ảnh Người-Ma này theo hoài trong Huyết Âm như một ám ảnh, ở những trạng thái mà đôi khi không biết nghiêng về Ma hay Người…                                                                                                   

Nếu ở Hoà Âm, dòng suối lặng lẽ gửi những âm vang của sâu thẳm cảm xúc đằm thắm, thì đến Huyết Âm nó lại đột nhiên quyết liệt cuộn lên những dòng khinh bạc. Cái bóng của Người-Ma kia đeo đẳng như một cặp song sinh:                                                                                                          

Bóng Ta chìm bóng Ma
Bóng Ma chìm bóng Ta                                                                                                                             

Cười ngạo hay bất lực trước nó?

Trọn đời thống thiết Người-Ma
Bẻ đốt xương nghe cái rắc
Thơ sáng loá rồi vụt tắt
Mây đùn tuỷ óc phôi pha…                                                                                                             

(Huyết Âm, bài 13, tr.24)                                                                                                                        

Mồ-Ma-Người-Ngợm quá ể
Vỗ tay xương máu tiệc tùng                                                                                                                    

(Huyết Âm, bài 20, tr.32)                                                                                                                            

Đọc lên thành tiếng, thì mới thấy hết bi âm của máu và lệ rền vang - nơi chúng ta đang hít thở – nơi mà Ta-Người đối ẩm Ta-Ma, nơi mà nhân tính con người thúc thủ trước những cuộc tiệc-tùng-xương-máu. Thôi đành lui về “Chi bằng độc ẩm huyết âm…”, với máu lệ của chính mình, thấm nó vào trong thịt xương mình, để biết yêu quí và trân trọng máu lệ của chúng sinh. Cho nên, không phải tình cờ, cái bước lui về của nhà thơ là bước đánh động vào cuộc tiệc-tùng-xương-máu máu kia…

Từ “Độc tấu với bóng mình” ở Hoà Âm đến “Độc ẩm huyết âm nghe tinh âm” ở Huyết Âm, có phải là chặng đường dài của cốt tuỷ hòa thanh, đi qua “Mỗi chữ mỗi kiếp cháy sáng rực?”  

Vết thương ta ủ trong tiền kiếp
Mỗi chữ oan khiên hoá núi ngồi
… Vết thương ta loét trong vô trận
Những luống chiêm bao nở tiếng người…                                                                                                   

(Huyết Âm, bài 21, 22, tr. 34, 35)

Để mà khóc cười với ngàn kiếp thâm u có lẽ phải có nội lực của, chữ hoá núi.                                        

Nhất là khổ thơ bốn câu, nghe như là đồng dao:                                                                                       

Hồn âm cứ nhấn
Xác chữ cứ nhai
Sai cái không sai
Đúng cái không đúng
Sống không để bụng
Chết không mang theo
Huyết âm trong veo…                                                                                                                                            

(Huyết Âm, bài 62, tr.99)                                                                                                         

Như thể một anh mõ làng đi trong đêm vắng, trên những con đường xóm thôn đang ngủ mà rao những lời nhắc nhở, tối lửa tắt đèn…
 
Tôi tin với nội lực đã tấu lên được những âm vang bi thương nơi lòng người như thế sẽ lan ra, tỏa khắp, để cùng nhau chấm dứt cái cảnh núi xương, sông máu, biển lệ này.

Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ, cho dù chưa thể “lên thêm một tầng lầu nữa” để “tận cái nhìn nghìn dặm” như nhà thơ Lý Đợi đã trích 2 câu thơ của Vương Chi Hoán (Dục cùng thiên lý mục/Cánh thướng nhất tằng lâu…) trong bài bạt của Huyết Âm, nhưng cảm nhận bằng rung cảm của con tim, về phần mình, tôi cũng đã bắt được nhịp từ bản giao hưởng huyết lệ ấy. Làm sao mình biết hạt lệ mặn thế nào khi mình không-biết-khóc? Nói cho cùng thì chỉ có máu và lệ rung động được với nhau bằng máu và lệ. Bằng cách đó tôi đọc Huyết Âm. (Có thể rồi, tôi sẽ thấy được cái nghìn dặm của Huyết Âm, nhưng chắc gì vào lúc ấy, tôi có được cái cảm xúc như bây giờ?) Bằng cách đó, tôi cảm được, tôi chia sẻ được chuỗi ÂM thống thiết trong Thơ Nguyễn Lương Vỵ.
Tôi mong rằng, Nguyễn Lương Vỵ sẽ tiếp tục đi mãi trong cuộc hành trình rất riêng, rất độc sáng của mình, cho dù, Mần thơ/Quả thật/Đại tào lao như anh đã viết tinh nghịch, tếu táo như vậy, để tôi, và những người đồng điệu sẽ còn nghe được nữa cái “Tịch Mịch như Nguyên Thủy Nguyên Sơ” trong những bước trở về cùng Thi Ca như Người-Thơ đã giải bày.                                                                                                                                              

Và cũng bằng một tôi như thế, tôi đi đến Thất Huyền Âm hôm nay, với những nhịp tim theo dấu những tiếng trầm trầm từ Bốn Câu âm âm vô biên…

Một lời thêm cho người đã đi xa:

Ma ta lầm lũi xâu tiếng khóc
Cài lên tim hóa thành núi sông
Ngàn thâu lá thức trầm âm nhạc
Rưng rưng khúc bia ca mênh mông…                                                                                                       

(Bốn Câu Thất Huyền Âm, bài 33, tr.76)                                                                                     

Rưng rưng người ở lại  gửi người ra đi không mang chút gì kia, một xâu hạt lệ của ngàn thâu lá thức, mong rằng ở đâu đó trong cõi Rỗng Không kia, Nguyễn Tôn Nhan sẽ nghe được những hạt lệ tịch liêu của Thất Huyền Âm Nguyễn Lương Vỵ. Và tôi.
Cũng xin cám ơn Anh đã để lại cho tôi một người bạn thơ, một bạn hiền, Nguyễn Lương Vỵ.

Calif. Mùa Đông, 2011.

Bài này tôi viết trước hết để kỷ niệm năm giỗ đầu của Nhà Thơ Nguyễn Tôn Nhan, sau là để tạ tình bạn của ba chúng tôi, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Lương Vỵ và tôi, mà số phận, duyên may cho chúng tôi có được ở cuộc sống này, để chúng tôi cảm nhận được rằng, có một cõi văn chương…

1) Nhà Thơ NGUYỄN TÔN NHAN (1947-2010.) Quê quán: Hải Dương. Định cư tại Sài Gòn từ năm 1954 cho đến ngày từ trần. Ông cũng là nhà Hán Học uyên thâm, đã biên dịch và xuất bản trên 20 tác phẩm Hán Văn (triết học, thi ca, từ điển tại Sài Gòn.)Đã xuất bản các thi phẩm:

- Thánh Ca. NXB Con Đuông, Sài Gòn, 1968.
- Lục Bát Ba Câu. NXB Thư Ấn Quán. New Jersye,USA,  2003.

2) Nhà thơ NGUYỄN LƯƠNG VỴ. Sinh năm 1952. Quê quán: Quảng Nam. Làm thơ và đã có thơ đăng báo từ năm 1969, trên các tạp chí văn học nghệ thuật: Văn, Khởi Hành, Thời Tập, Tập San Văn Chương…tại Sài Gòn. Hiện định cư tại Nam California – Hoa Kỳ. Tác phẩm đã xuất bản:

- Âm Vang Và Sắc Màu. NXB Tuổi Trẻ, Sài Gòn, 1991.
- Phương Ý. NXB Thanh Niên, Sài Gòn, 2000.
- Hòa Âm Âm Âm Âm…NXB Thư Ấn Quán, New Jersye,USA, 2007
- Huyết Âm. Q&P Productions, Calif.,USA, 2008.
- Tinh Âm. Q&P Productions, Calif. USA, 2010.
- Bốn Câu Thất Huyền Âm, Four Lines Of Seven-String Sound, tập thơ song ngữ. Q&P Productions , Calif., USA2011.

 

Nguyễn Thị Khánh Minh

2012

 

© gio-o.com 2012