Sống Để Viết

 

nhà văn Trần Hoài Thư

phỏng vấn kỳ 2

Nguyễn Thị Hải Hà

thực hiện

 

 

                         ( bấm vào đây đọc phỏng vấn kỳ 1)

 

Nguyễn Thị Hải Hà: Có lần anh nói trong một bài phỏng vấn trước đây trên Thư Quán Bản Thảo anh nói bộ Thông Tin ở Sài G̣n kiểm duyệt cắt bỏ truyện của anh rất nhiều. Họ kiểm duyệt về điều ǵ? Nội dung như thế nào th́ không được in?

Trần Hoài Thư: Trong một nước có chiến tranh, kiểm duyện dĩ nhiên là một việc làm cần thiết. Ví dụ những bản tin tiết lộ bí mật quốc pḥng chẳng hạn. Bởi vậy, chính quyền mới lập ra một Sở chuyên môn kiểm duyệt sách báo. Nhưng thực tế không phải vậy. Các vị “sát thủ đại hiệp” này, có khi  lạm dụng quyền hành  một cách đến ngu xuẩn.

Phần lớn các truyện của tôi, chiến tranh là đề tài chính. Mà chiến tranh là đồng nghĩa với bom đạn. Nhưng khi viết bom đạn, th́ chữ bom bị  đục, chỉ c̣n lại từ đạn chơ vơ.

Một ví dụ khác  ở trang truyện “Những cơn mơ cuối năm”. câu văn gốc như thế này:

…:... khi tiếng c̣i báo động máy bay Mỹ xuất hiện trên bầu trời thành phố, 

 

Th́  bị kiểm duyệt đục ba chữ: máy bay Mỹ:

... khi tiếng c̣i báo động………… xuất hiện trên bầu trời thành phố,

 

Việc Mỹ oanh tạc miền Bắc là một việc đường chánh chánh, là chính sách của quốc gia, hằng ngày những tin oanh tạc, những chiếc phản lực xé toang cả bầu trời, rành rành ra đó, mà sát thủ nhà ta lại không biết, lại đục mấy chữ máy bay Mỹ ra khỏi câu, chỉ để lại những chữ xuất hiện trên bầu trời… Vậy th́ đục làm ǵ chứ. Chẳng lẽ chim chóc xuất hiện hay sao?

Một ví dụ khác là trong một truyện ngắn của tôi trên Bách Khoa, khi  viết về một buổi chiều phục kích tại một b́a làng, tôi có cho nhân vật ông Tướng – người trung đội phó gốc Nùng (tên thật là Lương văn Tướng) vào trong truyện.  Chẳng hạn “này ông Tướng, hôm nay tổ nào trực”. Tôi viết chữ Tướng với T hoa. Vậy mà  ngài sát thủ lại kết tội tôi chơi xỏ một ông tướng nào dó,  bôi tất cả những chữ Tướng trong bài văn !…

Kể ra như thế để các bạn  hiểu về kiến thức tŕnh độ của các ngài cán bộ thông tin Bộ Cắt Đục (dân sự)  cũng như về nỗi khó khăn của người lính viết văn chúng tôi. Chúng tôi đă chiến đấu thật sự để bảo vệ họ được ung dung ở Saigon. Và họ nhân danh sự dốt nát, để chém  đâm những đứa con tinh thần của chúng tôi hết chỗ nói.

Nhưng mà không sao. Chúng tôi  có cách để thoát khỏi lưỡi dao cái kéo của họ.

Đó là gởi những bài mà ḿnh cảm thấy bị làm khó khăn cho  tờ Khởi Hành – tuần báo của Hội Văn Nghệ Sĩ quân đội.

Vâng chỉ có tờ KH tôi mới có thể viết bom đạn, hay ra lệnh ông Tướng trung đội phó của tôi mà không bị bôi đen. Chỉ có tờ Khởi Hành mới dám đăng những truyện mà các báo khác không dám.

Nếu không có tờ Khởi Hành, chắc tôi sẽ không bao giờ có được truyện Bên Kia Cầu để mà in thành sách, và được trích ra một đoạn cho bài tản mạn này( Sau khi báo Bách Khoa trả lại bản thảo v́ không dám đăng):

Ḷng tôi bây giờ ảm đạm như bầu trời mùa đông. Phải chi hai bên đánh nhau tơi bời, để một bên thắng, một bên thua, phân minh, rơ rệt. Nhưng ở đây chỉ là nước mắt, khi những người đáng tuổi nội ngoại hay mẹ cha tôi lại lạy tôi như mưa bấc. Thắng ǵ khi hai đứa con của đơn vị đă bị giết một cách vô lư mà chúng tôi vẫn không thể trả thù. Muốn trút cơn phẫn nộ lên đầu đám dân, muốn đốt hết nhà, đốt hết kho, muốn để lính bắt hết gà, hết vịt để trả thù, nhưng lương tâm không ổn. Trời ơi, trận chiến ǵ mà kỳ cục vậy. Dù có đại danh tướng như Napoleon cũng phải bó tay mà thôi.

Cuối cùng chúng tôi được lệnh rút quân. Chúng tôi trở lại cầu. Chúng tôi trở lại nơi hai thằng con bị kiến cắn. Mấy đứa con của trung đội Một bỗng nhiên chỉa súng lên trời bắn chỉ thiên loạn xạ. Không thể trách họ được. Họ tức giận điên cuồng bởi v́ họ không thể trả thù cho bạn họ. Và họ chỉ biết trút hết nỗi phẫn uất này lên trời. Chỉ tội nghiệp đám dân lại một phen chạy t́m nơi trú ẩn.

 

Có thể nói,  Khởi Hành cũng là tuần báo duy nhất dám đăng  những bài  văn/thơ mà các báo khác không dám. Ví dụ điển h́nh là những bài thơ chống chiến tranh hạng nặng  của Nguyễn Bắc Sơn.

 

Nguyễn Thị Hải Hà: Trong công việc sưu tập, anh có gặp khó khăn ǵ không?

Trần Hoài Thư: Có.  Nhiều khi bắt ḿnh trở thành một thám tử văn học. Ḿnh không thể biết nguồn nào là đúng nguồn nào là sai. Lấy một ví dụ về trường hợp Phùng Thăng và Phạm Thiên Thư. Cả hai đều có pháp danh và bút danh là  Tuệ Không.  Khi thực hiện chủ đề về nữ dịch gỉa Phùng Thăng, tôi được ông Trần Xuân Kiêm nguyên là phu quân của Phùng Thăng cung cấp những bài vở do Phùng Thăng viết hay nghiên cứu. Trong đó có bài Vang bóng Nguyễn Du. Tạp chí Tư Tưởng, Viện Đại Vạn Hạnh, số 8 tháng 12-1970, số Chuyên đề về Nguyễn Du, tt.19-21. Nhưng bút danh này lại trùng hợp với pháp danh và cũng là bút danh của thi sĩ Phạm Thiên Thư. Sự trùng hợp này khiến những bài viết của Phùng Thăng kư dưới  bút hiệu Tuệ Không cho đến nay vẫn bị nhầm là của Tuệ Không Phạm Thiên Thư!

 

Và mới đây, tôi vừa t́m ra bài thơ rất quen thuộc do Phạm Duy phổ nhạc, mà ai ai cũng biết là thơ Phạm Thiên Thư. Đó là bài Pháp Thân trong 10 bài Đạo Ca:

Xưa em là kiếp chim, chết mục trên đường nhỏ 
Anh làm cội băng mai, để tang em, chờ mấy thuở 
Xưa em làm kiếp lá, rụng xuống ḷng suối thu ...

 

Nhưng trên tuần báo Khởi Hành số 24 ra ngày 9-10-1969, bài thơ này lại được kư bằng bút hiệu Phạm văn B́nh. Chắc ai ai cũng biết nhà thơ Phạm văn B́nh có những bài thơ rất nổi tiếng, được Phạm Duy phổ nhạc chẳng hạn Mười hai tháng quân đi (hay Hành tŕnh của anh TQLC) hợac bài “Lời T́nh Buồn” (trên NET tựa đề đổi thành Năm năm rồi không gặp)...

Mặc dù, theo ư kiến cá nhân, tác gỉa bài thơ này phải là Phạm Thiên Thư. Chỉ có thi sĩ Pham Thiên Thư mới mang đạo vào thơ, dù là thơ t́nh đi nữa.

Nếu quả thật ư kiến cá nhân của tôi là đúng, tôi không biết nhà thơ Viên Linh - người chăm sóc bài vở của Khởi Hành có đính chánh chưa.

 

 

 

 

Tôi mong nhà thơ Viên Linh - người chăm sóc bài vở của tuần báo Khởi Hành trước 1975, nhà thơ Phạm Thiên Thư, nhà thơ Phạm văn B́nh - cả ba đều c̣n sống - làm ơn giải tỏa dùm về sự trùng hợp này. Xin cám ơn trước.

 

Nguyễn Thị Hải Hà: Trong tất cả các tác phẩm anh đă in qua Thư Ấn Quán và Thư Quán Bản Thảo, nếu phải chọn 10 tác phẩm để đặc biệt giới thiệu, anh sẽ chọn tác phẩm nào, v́ sao?

Trần Hoài Thư: Nếu chọn, tôi sẽ chọn:

1. Cơi Đá Vàng của Nguyễn thị Thanh Sâm

2. Hoa Daffodil Thắt Bím của Nguyễn Âu Hồng. Đây là một tập truyện mỏng về t́nh yêu.  Đẹp, rất  đẹp chẳng những trong t́nh yêu mà c̣n ở chữ nghĩa. Có thể nói từ trước đến nay chưa có một tác phẩm nào viết về t́nh yêu dành cho mọi lứa tuổi. Từ tuổi 16 đến tuổi 80. Xin trích một đọan kể về phút “hồi xuân” của một bà lăo Mỹ 80 và một ông già người Việt :

Barbara cứ đứng một chỗ hết nh́n ông Tân lại nh́n ra khu rừng. Rồi bà nói nhỏ như th́ thầm:

- Gọi tên tôi một lần nữa đi Tân

- Barbara, bà có sao không?

- Xin gọi tên tôi…

- Barbara, tôi nghĩ chúng ta nên đi vào. Ở ngoài này lâu sẽ bị cảm lạnh mất.

- Xin gọi tên tôi, dù…

- Barbara…

- Tiếng anh gọi tên tôi nghe sao dịu ngọt như anh Jack yêu quí của tôi gọi tôi lúc chúng tôi c̣n tuổi trẻ.

Ông Tân tưởng Barbara bị mộng du nên đặt hai tay lên vai lay cho bà tỉnh. Barbara nói, giọng mơ màng:

- Tân ơi, anh ôm tôi đi. Xin vui ḷng cho tôi một ṿng tay ôm.
Ông Tân hơi ngập ngừng, nhưng giọng nói và ánh mắt của Barbara van nài tha thiết quá khiến ông không dừng được. Ông bước tới một bước, ṿng tay quanh người Barbara, một ṿng tay Á Đông nhưng nhờ thường xuyên tập tạ nên cũng không đến nỗi quá nhỏ bé so với thân h́nh to lớn của người đàn bà, rồi với tất cả sức mạnh của một người làm vườn chuyên nghiệp, anh siết thật mạnh và giữ chặt thật lâu. Đây chắc là một ṿng tay ôm nhớ đời. Họ đứng yên một chặp, có cảm giác như quả đất cũng đứng yên. Bỗng ông Tân đâm hoảng: tấm thân đồ sộ chắc nịch của Barbara trong ṿng tay ông như tan chảy, mềm dần rồi nhũn xuống như cọng bún. Ông xiểng liểng phải dựa vào một góc thông gần đó mới không bị ngă…  

3. Bộ Thơ Miền Nam gồm 5 cuốn.

4. Bộ Văn miền Nam gồm 4 cuốn

5. Chiến tranh VN Và Tôi (thơ Nguyễn bắc Sơn)

6. Vũ trụ Thơ của Đặng Tiến (tập 1 và 2)

7. Thơ Vũ Hữu Định Toàn Tập

8. Lẽo Đẽo Một Phương Qú thơ Từ Thế Mộng

9. Kỷ vật Cho Em thi phẩm của Linh Phương

10. Thư Quán Bản Thảo số 61: Hiện tượng nhà văn nữ

 

Nguyễn Thị Hải Hà: Vụ Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, anh nh́n thấy cái vẻ phù phiếm của những kẻ muốn duy tŕ nhăn quan chiến tranh theo khả năng tái chế của họ. Anh phải nói như thế nào về những người Mỹ đă bảo trợ để in tác phẩm này trong khi họ lại không bảo trợ in một tác giả lính Miền Nam.

Trần Hoài Thư:  Quyển Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh sở dĩ được đón nhận nồng nhiệt là v́ từ mấy mươi năm chiến tranh và chế độ CS ở miền Bắc, cửa khép kín. Nay cánh cửa ấy mở ra. C̣n miền Nam, nỗi buồn chiến tranh đă được nói quá nhiều, qua các bộ môn văn học nghệ thuật trong mấy mươi năm chiến tranh.... Nhiều đến độ nhàm chán....

Một lư do chính cho sự đón nhận này là, theo những nhà nhận định, phê b́nh, ví dụ ông Phạm Việt Cường, ngay trên lời bạt của tác phẩm mà tôi được đọc ở Mỹ  đại ư cho rằng Nỗi Buồn Chiến Tranh là tác phẩm trung thật nhất trong chiến tranh về Việt Nam từ trước tới nay.

Trung thật ở chỗ nào khi một toán thám báo bị bắt ngay ở trong mật khu chỉ có ba người, mà toán trưởng là một trung úy, dẫn mấy chị nuôi đi ra bờ sông rồi trấn nước sau khi thỏa mản thú tính khi vai tṛ thám báo là săn tin, là đột nhập mật khu địch để làm công tác t́nh báo, là bảo mật tối đa... Họ phải được huấn luyện thật kỹ về mưu sinh thoát hiểm.. Họ được trực thăng thả xuống địa điểm làm ăn, họ phải lội cả mấy cây số để xâm nhập mật khu. Nhiệm vụ họ là báo cáo về Bộ chỉ huy địch đông hay ít, hay kiểm chứng những nguồn tin t́nh báo có xác thật hay không. Nói tóm lại, là nhiệm vụ họ rất ư là nguy hiểm, chết sống trong đường tơ kẻ tóc.

Có thể là ông Phạm Việt Cường hay những nhà phê b́nh văn học nào đó không có kinh nghiệm về vai tṛ thám báo. Nhưng nếu không có kinh nghiệm th́ đừng bảo là trung thật. Hay trước khi phê phán xin vui ḷng t́m hiểu về vai tṛ thám báo (Tiếng Mỹ là highland scout hay ranger scout) trên Internet.

Đó là Bảo Ninh. C̣n Hồ Anh Thái th́ độc địa hơn, khi tả lại cảnh toán thám báo bắt một tù binh, mổ lấy trứng dái (tinh hoàn), nổi lửa giữa mật khu để cùng nhau nướng nhậu. Tả ǵ mà tả quá khủng khiếp ghê rợn. Bộ nổi lửa để "lạy ông tôi ở bụi này" à ?

Bây giờ lịch sử dần dần càng mở ra cánh cửa. Mà góp phần lớn là Internet và những Blog, Facebook, forum... Giới trẻ không c̣n bị bít bùng kiến thức và tầm nh́n như cha anh họ nữa.
Vấn đề chánh là ai nói lên sự thật này, cho dù cái câu "Của Caesar phải được trả lại Caesar" vẫn hằng xem là câu châm ngôn. Lấy ai để t́m cái "của" này ?

Đó là lư do tại sao tôi viết bài đối thoại với nhà văn Bảo Ninh. Không phải chỉ riêng nhắm vào ông ta mà c̣n cho những người xem Nỗi Buồn Chiến Tranh là trung thật. Tôi chỉ có thể làm trong khả năng của tôi, c̣n những chuyện lớn lao khác, những câu hỏi lớn lao khác mà Gio-O đặt ra cho tôi, tôi xin được miễn trả lời, v́ tôi không bao giờ nghĩ đến hay quá tầm mức hiểu biết của ḿnh.

 

 Nguyễn Thị Hải Hà: Người đọc nên đọc kỹ phần nào ở các sáng tác trong chiến tranh của Trần Ḥai Thư ? Những phần mà các nhà phê b́nh từ trước đến nay đă không nh́n thấy hay đă không công bằng với một tác giả lính của Miền Nam, ở đây anh có thể tiết lộ cho các độc giả Gió O như một trao đổi thân thiện ?

Trần Hoài Thư: Sau khi Sáng Tạo chết vào năm 1961, gịng văn học chiến tranh bắt đầu thành h́nh, mà tạp chí Văn số 8 năm 1964 với chủ đề “thơ văn có lửa” như một dự báo về môt nền văn học khác. Đó là văn học chiến tranh… Từ đó, măi đến 1975, có biết bao nhiêu bài vở sáng tác viết về chiến tranh được xuất hiện trên các tạp chí văn học thời danh bấy giờ. Văn chương miền Nam cũng di tản từ thành thị ra ngoài các tiền đồn, các thị trấn heo hút, các căn cứ trên miền cao, hay theo bước giày trận của những người viết trẻ. Lớp người viết cho Sáng Tạo không c̣n viết mạnh như xưa. Thanh Tâm Tuyền bị bế tắc, chính ông thú nhận trong tạp bút "Âm Bản" đăng trên tạp chí Khởi Hành: "Đă lâu lắm tôi không làm thơ. Có đến mười năm. Tập thơ cuối cùng đă làm hồi 59-60..." (tạp chí Khởi Hành số 51, năm 1970).

Sự xuất hiện của lớp nhà văn trẻ này thật rầm rộ, hầu như bút danh của họ tràn ngập chẳng những trên Khởi Hành, Văn, Bách Khoa, mà cả Tŕnh Bày, Văn Học, Nghiên Cứu Văn Học… Chính họ đă nuôi dưỡng những tạp chí văn  học ở Saigon. Người đọc không phải v́ Mai Thảo, Vơ Phiến, B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam…mà mua Văn hay Khởi Hành, mà v́ những tạp chí ấy đă đăng những bài vở rất gần gũi với họ.

Có điều là lớp nhà văn trẻ này ít có người có tác phẩm xuất bản để được các nhà phê b́nh để mắt đến. V́ sao? V́ họ, phần lớn là lính tráng, đâu có dịp để về Saigon như một số nhà văn nhà thơ ở Saigon. V́ họ, đâu có cơ hội ở Saigon như nhà văn Nhă Ca, Nguyễn thị Hoàng viết miệt viết mài. Mỗi năm ra đến 4, 5 tác phẩm. Nhưng mà, với 700 hội viên của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân đội, và trên hai trăm nhà thơ mà tôi sưu tầm cho Bộ Thơ Miền Nam thời chiến trên các báo thời danh bấy giờ, trong khi Sáng Tạo chỉ khoảng 15 người hay tối đa là 20 người.

Vậy mà có nhà phê b́nh nào viết về ḍng văn chương này?

Trong khi đám phê b́nh miền Bắc th́ luôn luôn xem văn học miền Nam là văn học đô thị, nô dịch, là âm mưu của đế quốc Mỹ, là chính sách thâm độc thực dân kiểu mới v.v… .

Họ chỉ nhắc đến Sáng Tạo, đến những cây bút nữ, đến những tác phẩm của các tác giả ở Saigon, nhưng có mấy ai nhắc đến sự đóng góp vô cùng to lớn của những người trẻ vừa cầm viết và cầm súng ở ngoài ṿng đai ?

Đó là lư do tôi kêu gọi sự công bằng.

 

Nguyễn Thị Hải Hà: Hẳn là anh nh́n thấy sự chiến thắng của Văn Học Miền Nam khi anh ra ngoài nước. Bây giờ người ta t́m đọc Văn Học Miền Nam như đọc những hải đăng hiếm và quư. Anh muốn nh́n thấy ǵ trong văn chương ở hải ngoại? Anh có lời nhắn gửi ǵ với những người viết bây giờ và mai sau không?

Trần Hoài Thư: Vâng, tôi đă thấy, ngày tiếp ngày tháng tiếp tháng, và năm tiếp năm. Suốt 14 năm nay qua việc thực hiện tạp chí Thư Quán Bản Thảo và việc truy tầm xuất bản hay tái bản các tác phẩm miền Nam trước 1975. Điều đáng kể nhất là mới đây, trên Blog VanViet, những người chủ trương văn đàn này đă công khai nói về sự nhầm lẫn của họ khi họ nghĩ văn chương miền Nam là văn chương đô thị. Đó là dấu hiệu bắt đầu cho một sự công nhận một cách công khai, và cũng là dấu hiệu để chúng ta có quyền nói với con cháu chúng ta trong cũng như ngoài nước về một nền văn chương của con người, v́ con người, tự do, nhân bản.

Nhưng mà t́m đâu ra những di sản này để mà phục hồi để con cháu chúng ta biết thế nào là một nền văn chương  đích thật. Vâng, rất giản dị. T́m ở thư viện đại học Hoa Kỳ. T́m ở các thư viện trong nước. Tôi nghĩ nếu ai c̣n tha thiết th́ xin ra tay. Chứ cứ nói không th́ biết đến khi nào.

Tôi: lăo già mắt mờ tay run, một đàng phải chăm sóc người bạn đời chẳng may bị khổ nạn nan y, một đàng phải lo tờ báo, ở một nơi heo hút, ít người Việt,  mà c̣n làm  được th́ những người mạnh khỏe dồi dào tiền bạc dồi dào phương tiện gấp trăm ngàn lần hơn tôi, lẽ nào không làm được hay sao?

Riêng câu hỏi về văn học hải ngoại tôi nghĩ là không c̣n cần thiết nữa. Khi một tác giả gởi cho Gio_O với địa chỉ Yahoo.com hay gmail.com  Gio_O có biết người gởi ở Việt Nam hay ở Mỹ ?

 

Nguyễn Thị Hải Hà

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiHaiHa.html

 

 

© gio-o.com 2014