photo: http://www.unhcr.org/
Nguyễn Thị Hải Hà
MỘT LẦN KỂ LẠI
Một lần kể lại để rồi thôi
(Ta Về, Tô Thùy Yên)
tản mạn
Cái ảnh cậu bé con, Aylan Kurdi, nằm úp mặt trên bờ
biển, và cũng ảnh của cậu bé ấy khi cậu
được “múc” lên, nằm gọn trong cái lơm của
cánh tay người kiểm tra bờ biển, làm nao ḷng những
trái tim chính trị cứng rắn khô khan nhất. Đủ
mềm ḷng để họ tiếp nhận người tị
nạn. Cậu bé với cái quần màu xanh dương
đậm và áo màu đỏ làm tôi nghĩ đến
Pinochio, một trong những cậu bé đáng yêu nhất
trong cổ tích. Nghĩ đến Pinochio, v́ nhờ ḷng yêu
thương chân thành của ông thợ làm đồ
chơi, và của chính Pinochio cùng với phép mầu của
Thượng Đế, con búp bê bằng gỗ biến
thành người. Pinochio cũng bị ch́m thuyền, nhờ
là gỗ nên không chết đuối, vào bụng cá, cứu
được cha. Aylan bất hạnh, nhỏ bé và bất
động như một con búp bê bằng gỗ trôi giạt
vào bờ biển. Ḷng nhân của loài người đến
không kịp để cứu cậu bé, anh của cậu bốn
tuổi, mẹ của cậu và c̣n bao nhiêu người vô
danh nữa. Chúa đâu, Phật đâu. Phải chăng “Chúa
đă bỏ loài người. Phật đă bỏ loài
người?”
Bài báo đăng trên The New Yorker mở đầu bằng chuyến vượt biển của thuyền nhân người Việt. Tôi nghĩ thế giới đang chú ư đến số phận hẩm hiu của những người lánh nạn sang châu Âu, ḿnh không nên viết bài cái kiểu ăn theo sự chú ư này. Tuy nhiên tôi vẫn thấy xót xa đến độ muốn nhắc lại chuyện xưa. Hay là mượn câu thơ của thi sĩ Tô Thùy Yên, “Một lần kể lại để rồi thôi”.
Bài báo của Philip Gourevitch nói rằng ước tính có ba người đi th́ một người chết. Gia đ́nh tôi đi năm người, chia làm hai đợt, hai người mất tích. Tỉ lệ như thế là hai phần năm, lớn hơn một phần ba. Không phải đợt sóng nào cũng đưa người ch́m trong biển vào bờ. Hai người mất tích trong gia đ́nh tôi là cô cháu gái gọi tôi bằng d́ với đứa con gái của cô. Chồng cô đi trước cùng lúc với em trai của cô và tôi. Đáng lẽ cô đi cùng chuyến, nhưng chiếc xe đ̣ chở cô và đứa con gái, lúc ấy ba tuổi, bị bể bánh xe hai lần, và bể cả bốn bánh. Cô bị trễ xe nên lỡ chuyến đ̣. Cô đi chuyến sau, và vài lần sau nữa, cuối cùng, cô đi măi măi và không bao giờ đến. Nói th́ nghe vô duyên. Không may như Aylan chết vẫn t́m được xác. Gia đ́nh tôi nhiều năm cố t́m kiếm tông tích hai mẹ con cô cháu của tôi. Hằng năm lấy ngày ra đi làm ngày giỗ.
Bài báo nói chiếc ghe của người Việt vượt biên năm 1988 gặp rất nhiều tàu lớn nhưng họ không cứu. Ghe tôi đi năm 1980, sau ba ngày chạy ngon lành, gặp giàn khoan, họ cho thức ăn hộp, nước uống, và chỉ đường đi. Thẳng hướng này, chừng hai ngày hay một ngày rưỡi sẽ đến bờ Mă Lai, chỉ c̣n một trăm năm mươi hải lư nữa thôi. Chúng tôi không cần thức ăn nước uống v́ chẳng ai ăn uống được ǵ những ngày đầu, ói đến mật xanh mật vàng, và thức ăn nước uống mang theo vẫn c̣n đầy ăm ắp. Chúng tôi muốn được cứu, được chở vào đất liền bằng tàu lớn v́ đêm trước thuyền chúng tôi gặp băo tưởng ch́m. Nhưng đời không như là mơ.
Chạy được nửa ngày, hay một ngày, tôi không nhớ hay nói đúng hơn trong cơn say sóng vật vă, tôi không có khái niệm về thời gian, thuyền tôi bị thuyền hải tặc đuổi theo. Ghe nhỏ làm sao chạy thoát thuyền hải tặc vốn là tàu sắt, máy lớn, đánh cá ngoài khơi. Thuyền của hải tặc đâm thẳng vào ghe tôi cốt ư đâm lủng thuyền. Anh tài công của ghe tôi nhanh trí lách lệch chiếc ghe qua một bên. Tàu sắt lúc ấy đă tắt máy, chỉ cái trớn của nó cũng đủ đâm bể cái máy đuôi tôm. Sau khi cướp, bọn hải tặc lùa 22 người Việt đă bị cướp, bắt nhốt từ trước trên tàu của chúng, sang ghe chúng tôi đă có sẵn 79 người. Chiếc ghe loại buôn bán trên sông, dài cũng chỉ chừng 15 mét như chiếc ghe Gourevitch nhắc đến trên báo The New Yorker. Và trên chiếc ghe không máy, chúng tôi 101 người trôi giạt lênh đênh không nhớ là mấy ngày.
Không phải đợt sóng nào cũng đưa ghe hay người chết đuối vào bờ. Có khi thuyền tôi thấy đảo rất gần, tưởng chừng có thể lội nước biển đi bộ vào. Nhưng nh́n th́ biết là đảo hoang, vào có sống được không? Vào rồi làm sao ra? Nghĩ như vậy nhưng đâu phải muốn vào là có thể vào. Ghe chúng tôi lại bị cuốn ra ngoài biển khơi. “Ngó trông ra biển mù chong. Thấy người thiên hạ sao không thấy chàng.” Từ trong bờ ngó ra biển th́ không thấy chàng mà ḿnh mơ mộng. Ở ngay trên biển ngó chung quanh th́ chỉ thấy biển muôn trùng, sóng chập chùng, biển nối vào chân mây. Có lần thấy tàu to, loại tàu chở hàng thương mại to như mấy ṭa nhà lầu cao ngất đi ngang, tưởng chừng chỉ quăng cuộn dây là có thể kéo chúng tôi vào bờ nhưng không ai nh́n thấy chúng tôi. Thật ra không ai muốn nh́n thấy chúng tôi. Không phải một chiếc tàu to, mà nhiều chiếc. Hết chiếc này đến chiếc khác. Chúng tôi đi từ thất vọng này đến thất vọng khác. Chúng tôi như một đàn kiến loi nhoi giữa biển khơi trên một chiếc bao diêm. Đám đàn ông bắt đám đàn bà leo lên mui thuyền khóc la vái lạy, với hy vọng họ thấy đàn bà trẻ con họ sẽ cứu. Hừm, người đang cơn tuyệt vọng lúc nào cũng tưởng bở. Bây giờ th́ tôi hiểu v́ sao họ không cứu người tị nạn.
video: BBC News
Chuyện cậu bé Aylan, cùng với mẹ và anh trai đều chết đuối, khi theo bố lội nước vào bờ, không phải là chuyện mới. Người ta chết đuối khi vào gần đến bờ rất thường xảy ra. V́ sóng lớn, phụ nữ và trẻ em sức yếu bị nhận ch́m. Người đàn ông cần phải bảo vệ họ th́ không thể bảo vệ nổi. Có khi đang nắm tay con hay cơng con trên vai th́ té, vuột tay, sóng cuốn đi. Những cuộc đổ bộ thường vào lúc tối trời, đi chui mà, làm ǵ dám đổ bộ công khai vào lúc có ánh sáng. Không khéo lại bị tàu của người trong nước kéo ngược ra biển khơi như người Việt tị nạn trước kia.
Người đọc thường tự hỏi, tại sao họ, những người vượt biển không chuẩn bị, như đeo phao, làm thuyền cho thật chắc thật tốt, chẳng hạn. Tại v́ đây là những cuộc chạy trốn. Họ ra đi trong lúc giả vờ đi đâu đó, và nếu bị chận lại họ không thể chối căi nếu tang vật bị bắt gặp. Họ không thể xây cất thuyền, mua thuyền công khai. Họ không biết được chuyến đi ở đâu, bao nhiêu người, lên tàu lúc nào. Những điều người ta bảo với họ nhiều khi chỉ là gian dối. Người đọc mắng thầm, cứ mơ mộng hăo, đi t́m ảo vọng của thiên đàng, thật ra phần lớn họ chỉ lo chạy cho thoát khỏi địa ngục trần gian.
Tôi thường nghĩ vượt biên mà c̣n sống là đại phúc rồi. Chuyến vượt biên thay đổi tôi rất nhiều, biến tôi thành một người rất “neurotic.” Chuyện của tôi không có ǵ đáng kể. Những chuyện đáng kể đă nằm dưới ḷng đại dương. Có lần tôi dịch một bài của Matt Steinglass (hay tên ǵ đó tôi không nhớ chắc, lười tra cứu lại) anh này phỏng vấn một giáo sư kiêm học giả trẻ ở Hà Nội. Tiếng là phỏng vấn, thật ra anh ta đang viết bài để promote quyển sách của O’Brien được in lại sau một thời gian xuất bản khá lâu. Anh chàng than phiền v́ sao người Việt Nam không đọc sách về chiến tranh Việt Nam. Không ai nói thật cho anh hiểu là người Việt Nam sống thở và chết trong chiến tranh, họ chán ngấy chiến tranh rồi. Không có tác phẩm hư cấu nào có thể nói hết được cái bi thảm tàn khốc độc ác của chiến tranh, biết quá rồi đọc rất chán. Chuyện vượt biên cũng vậy. Biết rồi, khổ lắm, nói măi. Nhàm!
Tôi tự hỏi, h́nh ảnh nào của người Việt vượt biên đă làm động ḷng Mă Lai, Phi Luật Tân, Úc, Canada để họ cứu giúp chúng tôi. Những người như tôi khi ra đi rất ngây thơ, có lẽ những người Syria cũng ngây thơ không kém. Họ không biết là nước biển sóng biển đẹp đẽ thơ mộng hùng vĩ như thế cũng có thể tàn bạo lấy đi mạng người, mấy trăm mạng cùng lúc không thương tiếc. Họ chạy trốn cơn tuyệt vọng này để phải đương đầu với cơn tuyệt vọng khác như người Việt đă từng đương đầu. Họ cũng không nghĩ đến sự có mặt của họ sẽ gây tốn kém nhức đầu với nhiều vấn đề cho những người phải nuôi phải chứa họ. Họ chỉ muốn t́m một nơi để sống b́nh yên, có cơm ăn áo mặc, con cái được đến trường, họ không phải sống trong bom đạn và cái chết. Họ sống trong cái chết bao chung quanh. Họ đi vào chỗ chết để mong t́m cái sống.
Chúa ở đâu? Phật ở đâu? Ḷng nhân của con người ở đâu? Họ cần Chúa, Phật, ḷng nhân của loài người hơn bao giờ hết.
Nguyễn Thị Hải Hà
Tháng 9. 2015
http://www.gio-o.com/NguyenThiHaiHa.html
© gio-o.com 2015