Tiệm bán hamburger trong thành phố Newark, NJ

 

 

 

Nguyễn thị Hải Hà

 

chung quanh cái hamburger

 

 

Nếu bạn ở một quốc gia nào đó không phải Việt Nam, thế nào cũng có lúc bạn gặp câu hỏi: “Người ở nước ấy (Mỹ, Úc, hay Canada) ăn món ăn ǵ hằng ngày? Chẳng lẽ ngày nào họ cũng ăn thức ăn làm sẵn cho nhanh và gọn? Câu hỏi này cũng dễ trả lời. Ḿnh đâu có ở gần đến độ biết họ ăn những ǵ mỗi ngày. Nhà ở đây cách xa nhau, chứ không gần san sát như ở VN, làm sao có thể đoán được món ăn v́ mùi thức ăn bay lan.

 

Thấy th́ tưởng người Mỹ họ ăn đơn giản, chứ người Mỹ có rất nhiều món ăn. Họ có nhiều loại súp, ăn b́nh thường mỗi ngày có Manhattan clam chowder, Boston clam chowder, chicken noodle. Súp Gumbo, súp Lentil, súp Corn Chili th́ kiểu cọ hơn. Sang nữa họ có món súp rùa. À bạn có thể căi là súp rùa là món ăn của Pháp. Nhưng nước Mỹ là Hiệp Chủng Quốc, hễ nói thức ăn Mỹ là phải bao gồm cả Anh Pháp và nhiều nước khác. Sơ sơ thôi cũng có cả mấy chục loại súp. Bánh ḿ th́ họ có cả chục loại chỉ kể vài món sơ sơ như Submarine sandwich, hamburger, Club sandwich, Grilled cheese sandwich. Bánh ḿ với nhân nóng (hot sub), bánh ḿ với thịt nguội ham and cheese. Bạn nói, bên ḿnh có cả mấy chục loại bún th́ ở đây người Mỹ cũng có mấy chục loại ḿ. Ờ ḿ vốn là của Ư nhưng sang Tàu th́ biến thành của Tàu, c̣n sang Mỹ th́ biến thành của Mỹ, kể sơ sơ vài món gọi chung là pasta như spaghetti, linguini, ziti, risotto, lasagna, vân vân. Xà lách hay salad, ở một cái salad bar là bạn có thể t́m thấy cả mấy chục món để trộn lại thành xà lách.  v.v… Mỗi món lại có nhiều món phụ kèm theo biến hóa và thay đổi. Mở một cái thực đơn của nhà hàng bán thức ăn trưa là đủ choáng. Thức ăn trưa th́ ít món hơn, gọn nhẹ, và số lượng ít hơn. Thực đơn của nhà hàng phục vụ dinner (bữa ăn tối) thường làm tôi cảm thấy ngợp với quá nhiều thứ để lựa chọn. Mà để đây, bữa khác nói, đừng để tôi lan man quá mất th́ giờ (của bạn chứ tôi th́ khoái mất th́ giờ để lan man).

 

Nếu Việt Nam ḿnh nổi tiếng với chả gị, phở, và bánh ḿ, th́ nói đến thức ăn của người Mỹ tôi nghĩ ngay đến cái hamburger. Vâng, tôi biết c̣n nhiều thứ nhưng khoan nói đến thức ăn khác, hôm nay chỉ nói về cái hamburger thôi. Chữ này ai cũng biết nên tôi xin được dùng nguyên chữ. Phiên âm ra tiếng Việt nghe hơi kỳ kỳ, “hem-bơ-gơ.” Nếu bắt tôi thêm dấu nhấn th́ nó sẽ được gọi là “hem-bớ-gờ.” Tại sao viết là “ham” mà đọc là “hem”? Tại sao có chữ ham, mà lại là thịt ḅ chứ không phải thịt heo? Tại sao đọc là bớ gờ mà không đọc là bờ gớ? Câu trả lời của tôi là, ai mà biết. Tại tiếng Mỹ nó như thế.

 

Có lẽ bạn cũng như tôi, lần đầu tiên biết đến cái hamburger là từ tiệm McDonald hay Burger King và chỉ nghĩ nó là “fast food” loại thức ăn làm sẵn, lái xe đi ngang, xớt nó rồi ra khỏi tiệm thật nhanh chóng. Không có sách vở nào nói, tôi tự suy ra, ngày xưa hamburger cũng là “Slow Food,” món ăn được dọn trong bữa ăn tối hay vào lúc cuối tuần hoặc là ở nhà hàng có hầu bàn hẳn hoi. Hamburger là một món ăn chẳng khác ǵ chả gị ở chỗ đ̣i hỏi rất nhiều công. Thịt ḅ mua về phải xay, vắt thành nắm, nhấn cho dẹp rồi đem nướng hay chiên. Chiên hay nướng thịt ḅ cũng là một nghệ thuật. Anthony Bourdain, một trong những ông vua đầu bếp trên Tivi, chắc bạn c̣n nhớ ông đă từng sang Việt Nam làm phim thức ăn, nhằm lúc Obama cũng sang bên ấy, (một sự t́nh cờ hy hữu và tuyệt đẹp) hai người ăn chả cá Lă Vọng mạnh ai nấy trả tiền, tôi nhớ có đúng không? Ông Bourdain quan niệm thịt ḅ mà ăn thật chín th́ không ngon. Ai mà vào nhà hàng mà đ̣i ăn thịt ḅ, chín thật chín (well done) th́ nhà hàng mừng lắm, họ có thể mang những miếng thịt chiên hoặc nướng hư từ mấy hôm trước c̣n để dành trong tủ lạnh ra bán cho khách. Thịt ḅ chỉ nên chiên hay nướng c̣n hơi sống (rare), hay vừa chín tới (medium rare). Bánh ḿ bạn có thể mua nướng sẵn ở ḷ bánh, nhưng phải nhặt xà lách, thái cà, thái củ hành. Khoai tây chiên để ăn kèm với hamburger cũng cầu kỳ nhiều công. Gọt khoai, thái thành cọng vuông vuông dài dài cùng cỡ, nấu dầu cho sôi rồi đem chiên. Chiên dở, khoai không gịn sẽ bị chê. Hamburger đ̣i hỏi nhiều công và mất th́ giờ.

 

Có người thông minh, nghĩ ra cách làm giàu, mở tiệm bán hamburger, mọi thứ đều làm sẵn, nhanh và gọn. Mặn hay nhạt chỉ cần cho chút sốt cà chua (ketchup). Rồi sau đó, ḿnh chê đó là fast food, không phải thức ăn slow food truyền thống chính qui. Tôi nghĩ ở bên ḿnh sao chưa có ai mở tiệm bán chả gị như bán fast food, mọi thứ làm sẵn, đi ngang, ngồi trong xe, đặt hàng, lên cửa sổ lấy chả gị trả tiền. C̣n các món bún thịt ḅ nướng, bún nem chả, bún riêu, bún ḅ, ǵ ǵ cũng có thể hệ thống hóa rồi trở thành fast food. Có bạn nghe tôi nói thế bảo rằng ở VN bây giờ đă có chả gị cuốn sẵn, chỉ mua về nhà chiên để được ăn ngay lúc c̣n gịn. Mua ở tiệm chiên sẵn về nhà hết gịn không ngon. Th́ đấy, chả gị đă bước một chân trên đường biến thành fast food.

 

Hamburger đi vào các chương tŕnh kịch nghệ nổi tiếng trên Tivi và phim ảnh, không ít. Có cả một trang wikipedia rất dài dành riêng cho lịch sử của cái bánh hamburger từ nguồn gốc đến quá tŕnh biến chuyển đến công tŕnh sáng tác của một vị chef nào đó. Trong chương tŕnh Tivi “How I met your mother” rất nổi tiếng và được nhiều người say mê; có một nhân vật từ nơi khác mới đến thành phố New York vẫn c̣n nhút nhát không dám ra đường v́ sợ tai nạn và bị cướp. Một hôm, được bạn chung pḥng khuyến khích, anh đi ra ngoài, vào một nhà hàng nhỏ, ăn một cái hamburger. Cái hamburger đó quá ngon, đến độ về sau anh không thể nào ăn hamburger mà không nhắc lại cái hamburger ngày trước. Tuy nhiên v́ là người mới đến thành phố anh không nhớ số nhà và tên đường, anh chỉ nhớ cái nhà hàng có cửa màu xanh lá cây và đèn neon màu đỏ. Anh đ̣i các bạn phải lái xe đi t́m ở rất nhiều nơi để các bạn anh có thể thưởng thức cái hamburger ngon nhất trần đời kia. Hamburger cũng đi vào cả chương tŕnh “Sex and the City.” Bốn cô nàng mặc toàn đồ hiệu, sang trọng vô cùng, nhưng có lúc thèm vẫn kéo nhau vào tiệm McDonald.

 

Trong khi lục lọi trong thư viện về hamburger tôi gặp cuốn phim “Hamburger Hill.”  Các anh lính Mỹ đánh trận ở Việt Nam có lẽ nh́n ngọn đồi giống cái bánh hamburger nên đă đặt tên ngọn đồi bằng tên cái bánh, hương vị quê nhà của các anh. Tôi tưởng vậy nhưng không phải vậy.

 

Đồi Hamburger nói về một trận đánh tàn khốc. Quân đội Mỹ cùng với quân đội VNCH chiến đấu chống quân đội miền Bắc. Trận chiến xảy ra vào năm 1969, tranh dành ngọn đồi 937, c̣n gọi là đồi Ap Bia, gần biên giới Lào. Trận chiến xảy ra trong mười ngày. Khi tàn cuộc 70 phần trăm quân đội Mỹ bị tổn thất. Tôi có cuồn phim trong tay nhưng không dám xem, dù nhân vật chính là một diễn viên tôi rất thích, Dylan McDermott. Chọn anh chàng này đóng vai quân nhân tử chiến là một điều rất là chua xót, v́ anh ta mảnh mai đẹp trai, cái vẻ thư sinh chuyên đóng vai luật sư (The Practice) và rất hay mơ mộng.

 

Phim “Đồi Hamburger,” c̣n được gọi là “Đồi Thịt Băm” không được tŕnh chiếu công khai ở Việt Nam. Người ta dịch và phụ đề lén rồi bán lén cho người xem, dĩ nhiên là xem cũng lén. Gọi là “Đồi Thịt Băm” không phải v́ ngọn đồi giống cái bánh mà v́ trận chiến quá đẫm máu, nhầy nhụa thịt da. “Nói chuyện với phóng viên, Thượng sĩ James Spears, mười chín tuổi, hỏi: “Anh có bao giờ ở bên trong cái máy làm hamburger chưa? Chúng tôi bị bắn tan nát thành những mảnh vụn hoàn toàn chính xác bằng súng liên thanh.”[1]

 

Chiến tranh Việt Nam là vết thương rất sâu trong ḷng người Mỹ, măi đến bây giờ nó vẫn chưa lành. “Đồi Thịt Băm” là một trong những vết thương lớn nhất. Hơn mười lần tấn công không thành công, lần thứ mười một, quân nhân Mỹ và quân nhân VNCH tiến chiếm được ngọn đồi. Một tuần lễ sau, quân đội Mỹ được lệnh bỏ đồi, v́ không có tầm quan trọng chiến lược. Quân Bắc Việt lấy lại đồi. Trong mười ngày chiến đấu, ước tính có 72 quân nhân Mỹ qua đời, 372 người bị thương. VNCH có 31 người chết, 137 người bị thương. Bắc Việt có 630 người chết, 3 người bị bắt[2]. Bất ḥa trong nội bộ, kiệt sức v́ đánh nhau căng thẳng suốt mười ngày, khi đă bị thương nặng, vị chỉ huy vẫn nhắn nhủ với đồng ngũ cố gắng chiếm ngọn đồi để có cái ǵ đó mà tự hào. Với những người tham dự trận đánh, và những người biết chuyện, họ rất căm phẫn chế độ Nixon đă xem thường xương máu họ. Bạn đừng ngạc nhiên khi thấy tên bánh hamburger trong phim chiến tranh. Tôi gặp rất nhiều dấu vết chiến tranh Việt Nam trong cuộc sống hằng ngày b́nh thường ở Mỹ, ngay cả trong những quyển sách viết về nghệ thuật t́nh yêu và t́nh dục. Để chống lại cái tinh thần sympathizer, ca tụng những anh VC nằm vùng v́ họ thắng cuộc (và để dễ bán sách,) chống lại Ken Burn phỉnh phờ người xem lịch sử bóp méo bằng cách dùng những đoạn phim của Bắc Việt trong cuốn phim Chiến Tranh Việt Nam (để dễ bán phim vào thị trường đông dân hơn), tôi xin bạn đọc nhớ rằng, dù thua cuộc chiến tranh (lose the war) quân nhân VNCH làm tṛn nhiệm vụ của họ (win the battle) cũng vào sinh ra tử bên cạnh người Mỹ trong những trận đánh đẫm máu như trận đánh đồi Hamburger.

 

Thế nào là một cái hamburger ngon vẫn là một câu hỏi chưa có ai trả lời cho vừa ư tất cả mọi người. Ngay cả hamburger cũng có khoảng 130 kiểu hamburger.[3] Cuộc t́m kiếm cái hamburger ngon khiến tôi t́m thấy nhiều điều rất thú vị dẫn đến chỗ tôi tự nhủ có lẽ tôi nên từ bỏ chuyện ăn thịt ḅ, và tôi muốn lên tiếng bênh vực những người Mễ mà ông Tổng Thống của chúng ta đă ghét bỏ và cấm đoán họ.

Để có cái hamburger ngon, điều kiện đầu tiên là chúng ta phải có thịt ḅ ngon. Thịt ḅ được xẻ ra ở những công ty làm thịt ḅ. Công nhân ở những xưởng xẻ thịt này đa số là người Mễ không có giấy tờ chính thức. Môi trường làm việc của họ rất nguy hiểm, nóng bức, và bẩn thỉu. Họ dễ bị cụt mất tay chân v́ dao bén, máy móc chạy nhanh, chỗ làm việc trơn trợt v́ máu ḅ và các chất thải. Không có những người Mễ này giá thịt ḅ sẽ đắt lên và không có người làm v́ ít có người Mỹ nào chịu làm việc trong môi trường như thế, với đồng lương như thế.[4]

 

Viết đến đây tôi tự hỏi, khi các phi hành gia lên mặt trăng hay ra ngoài vũ trụ, thức ăn họ mang theo có món nào mang mùi vị hamburger hay không? Dùng Google tôi thấy có người nói năm 1965 phi hành gia John Young đă lén mang một cái cornbeef sandwich lên phi thuyền.[5]

 

Thức ăn ngon nhất là thức ăn trong trí nhớ, có kỷ niệm đi kèm với món ăn. Thưởng thức bao nhiêu món ăn ngon nhưng cái món ratatouille ngon nhất của nhà phê b́nh ẩm thực Anton Ego (nhân vật trong phim Ratatouille) vẫn là món ăn trong kư ức do bà mẹ quê mùa của ông nấu. Hamburger tuy là fastfood nhưng người ta vẫn có thể ăn chậm như ăn slow food. Không có ǵ tuyệt vời hơn cả đám bạn trẻ đi chơi với nhau, nửa đêm đói bụng, gom tiền lại đủ để cả nhóm ăn một món b́nh dân nhưng no bụng và đầy chất bổ dưỡng.

 

Hamburger cho lên một miếng American cheese được gọi là cheeseburger. Tương truyền ngày xưa có một anh bếp nào đó lỡ làm cháy khét miếng thịt đă chữa cháy bằng cách đặt lên mặt cháy miếng cheese để che giấu (haha, lần này th́ nhớ lỗi chính tả rồi, cám ơn thầy) cái vụng về bất cẩn của ḿnh. Cheeseburger trở nên thịnh hành và đi vào cả phim ảnh. Cheeseburger đi vào trong “American Graffiti” (1973), phim của George Lucas trước khi ông nổi tiếng với Star Wars. Nhân vật trong phim cũng toàn là các ngôi sao trước khi sáng chói trên nền trời điện ảnh. Harrison Ford, Ron Howard, Richard Dreyfuss.

Có một đoạn đối thoại về cheeseburger như sau:

“Look, creep. You want a knuckle sandwich?” – Vic
“Uh, no thanks. I’m waiting for a double Chucky Chuck.” – Terry

“Nè, cái thằng cô hồn kia. Mi có muốn một cái bánh ḿ beefsteak không?” – Vic
“Ơ, không, cám ơn. Tôi đang chờ một cái double cheeseburger.” – Terry

Tôi đành phải dịch mà cũng như là không dịch vậy. Làm sao mà dịch cái ngôn ngữ này đây? Creep có nghĩa là cái ǵ đó mờ ám, một người đáng sợ. Ở đây creep được dùng để mắng yêu, gọi đùa. Tôi không quen kiểu nói đùa này, ai gọi tôi là creep chắc là tôi sẽ giận. Knuckle sandwich tiếng lóng là cú đấm vào mặt. Nó cũng dùng để chỉ một cái bánh ḿ (có thể làm bằng bánh ḿ mềm sandwich hoặc là bánh ḿ thường) nhiều thịt nhiều nhân đến độ giống như cái mồm há ra. Bạn t́m google knuckle sandwich image sẽ thấy cái bánh này nó như thế nào. Thịt để xay ra làm hamburger thường là loại chuck steak, chỗ thịt gần phía cổ của con ḅ. Chucky gợi h́nh ảnh của những nhân vật hí họa, hoạt họa, phá phách có khi ghê rợn, có khi vô hại. Chuck là tiếng gọi tắt của chữ Charles. Chuck cũng có nghĩa là bổ củi. Chucky Chuck v́ thế mang nhiều h́nh ảnh rất American, khó dịch. Đôi khi chucky chuck chỉ là tiếng lặp lại trong cuộc nói chuyện cho vui tai, và b́nh dân, thí dụ như okie dokie.

 

Nếu bạn không ưa hamburger th́ chắc bạn có một kỷ niệm không vui nào đó hay ấn tượng xấu vào một thời điểm nào đó. Có một bạn bảo rằng kiêng ăn thịt ḅ sau một lần cô ăn cái hamburger rất tanh mùi máu ḅ. Tôi cũng có một kỷ niệm về hamburger, xin kể bạn nghe.

 

Dạo mới đi làm, tôi có quen với cô thư kư tên Ái Liên. Tên giả, tôi sửa cái tên Mỹ của cô thành tên Việt. Ái Liên lúc đó rất trẻ, chừng hai mươi hay hai mươi mốt, da trắng, tóc nâu thật dày, dợn sóng tự nhiên, bềnh bồng. Cô không cao lắm, nhưng đôi chân đẹp, và cô khá xinh. Có một hôm cô có vẻ “upset” (băn khoăn bức rứt) cô rủ tôi đi ăn trưa, v́ cô muốn nói chuyện, tâm sự. Chỗ tôi làm toàn là nam nhi, chỉ có cô, tôi, và sếp của tôi là nữ nhi, mà cô và tôi đều không ưa sếp của tôi.

 

Ái Liên dẫn tôi đến một cái bar. Ở đây người ta bán thức ăn trưa và có rượu. Dĩ nhiên chúng tôi không uống rượu v́ c̣n phải trở lại sau giờ làm việc. Tôi bối rối không biết gọi món ǵ th́ cô giới thiệu, món hamburger ở đây rất khá. Cái hamburger được mang ra thơm lừng, nóng hổi, to thật to đến độ tôi phải dùng dao cắt ra, chứ không thể nào ngoạm vào cái hamburger, tôi nghĩ nó phải to bằng cái mặt người ta. Ái Liên đ̣i gọi bia nhưng tôi cản. Cô này uống rượu dữ lắm, càng say càng uống. Đă có lần mất bằng lái xe v́ say trong lúc lái xe. Chẳng những thế cô lủi vào trụ đèn găy cả hàm răng trên. Cô có lần chỉ vào hàm răng của cô nói rằng toàn là răng giả đấy.

 

Hỏi cô v́ sao có vẻ băn khoăn cô kể. Tối thứ Sáu, cô và cả nhóm kỹ sư đi vào bar. Vui chơi, uống say, cô và Thomas Cromwell kéo nhau lên tầng trên của quán bar, làm t́nh với nhau. Thomas Cromwell là tên giả, tôi lấy chữ viết tắt tên của anh chàng và mượn tên một chính trị gia nổi tiếng của nước Anh thời xưa để gọi anh chàng. Thomas Cromwell sắp cưới vợ, vợ là một cô gái da đen rất thông minh học giỏi, giỏi và thành công hơn Thomas Cromwell. Ái Liên qua lại đùa cợt với anh này khá lâu, vẫn hy vọng kéo được anh chàng về với ḿnh dù biết anh chàng đă đính hôn và sắp cưới nàng kia. Cuộc yêu đương diễn ra vội vàng. Tôi tưởng tượng ra một h́nh ảnh không mấy đẹp, say mê cháy rực nhưng sau đó là lạnh lùng buồn bă và nhạt nhẽo. Kiểu yêu đương tóm gọn vào bốn chữ “tuột quần tốc váy.” Tôi hỏi:

“Nhưng mà tại sao lại kéo nhau lên lầu?”
“Tôi đă hơi say nên không suy nghĩ. Anh ta đến sờ mông tôi và tôi như bắt lửa.”
“Rồi sao lại upset?”
“Sau đó anh ta làm như chúng tôi chưa hề quen nhau, chưa hề có liên quan xác thịt với nhau!”

Tôi lặng yên nh́n cái hamburger, với ánh sáng ít ỏi trong bar, miếng thịt to màu nâu, lá cải xà lách màu xanh, miếng củ hành màu tím đẹp mắt, mùi khói thuốc, mùi bia, tiếng cười nói ồn ào. Miếng hamburger đầu tiên thật ngon, nhưng nghe xong câu chuyện của Ái Liên tôi thấy hết ngon.

 

Nỗi buồn của Ái Liên cũng qua nhanh như mùi khói thuốc vương vấn trên tóc trên áo tôi hôm ấy, chừng một buổi và mất đi sau khi tắm gội. Bây giờ nàng đă lập gia đ́nh, đám cưới rất to, chồng làm ăn rất khá. Nàng vẫn c̣n làm cho công ty xe lửa nhưng ở một chỗ khác, khá xa chỗ tôi làm nhưng gần nhà nàng. Chàng Thomas Cromwell chuyển qua công ty khác làm việc. Tôi giữ câu chuyện này đă mấy chục năm bây giờ mới kể, và chỉ kể với những người hoàn toàn không biết Ái Liên hay Cromwell.

 

[1] http://www.history.com/this-day-in-history/paratroopers-battle-for-hamburger-hill

[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Hamburger_Hill

[3] Marcel Desaulniers, Burger Meisters.

[4] Eric Schlosser, Fast Food Nation.

[5] https://gizmodo.com/50-years-ago-nasa-astronauts-smuggled-a-corned-beef-sa-1693431694

 

 

Nguyễn thị Hải Hà

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiHaiHa.html

 

 

 gio-o.com 2017