Nguyễn Thị Hải Hà

đọc

do Gió O tuyển chọn


Tôi không nhớ tôi bắt đầu được tiếp xúc với thơ từ lúc nào. Có lẽ từ khi tôi nghe những câu ḥ điệu hát ru em. Vào tiểu học tôi thích những bài thuộc ḷng v́ đó là những câu thơ có vần và giàu âm điệu. Bài học thuộc ḷng tôi học từ năm lớp Ba đến giờ này tôi vẫn c̣n nhớ nguyên bài bắt đầu với những câu:

Khi khôn lớn rộng đường ra hải ngoại 
Nếu có người muốn biết rơ quê em
Mở bản đồ em sẽ chỉ người xem
Đây nước Việt bốn ngàn năm yêu quí
[1]
. . .
 

Dịch giả Nguyễn Ngọc Bích nhận xét “Người Việt thường tự xem ḿnh là nhà thơ. . .nguyên văn “The Vietnamese like to think of themselves as having always been poets...”[2] Ông cũng nói thêm điều tự nhận này tuy dễ bị xem là phóng đại cũng chuyên chở phần nào sự thật. Với tôi th́ khác. Nếu thơ là tôn giáo của thi sĩ th́ tôi là người ngoại đạo. Tôi không có khả năng sáng tác thơ dù tôi thích đọc thơ. Tôi trích dẫn câu văn trên để nói rằng v́ nhiều người Việt Nam làm thơ, thơ trở nên phổ thông và đến với người đọc rất tự nhiên. Có thể nói thế hệ của chúng tôi, người nào cũng biết vài bài thơ, thuộc vài câu thơ. Thơ làm tôi ngẩn ngơ, tự hỏi v́ sao chỉ vài câu, một số chữ, nhà thơ có thể tạo nên ư tứ, âm điệu, và h́nh ảnh để chuyên chở cảm xúc làm rung động người đọc như thế. Thơ, luôn là một cái ǵ rất kỳ diệu, như ánh trăng rơi trên ḷng bàn tay, thấy nhưng không nắm bắt được.

Ba trăm hai mươi mốt bài thơ t́nh viết trước tháng 4 năm 1975 của ba trăm hai mươi mốt nhà thơ miền Nam do chị Lệ Liễu chủ biên sưu tập và tuyển chọn, những nhà thơ này là ai? Bên cạnh các tên tuổi lớn như Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hữu Định, Trần Dạ Từ. . . số c̣n lại là đám đông thầm lặng, là sinh viên, học sinh, quân nhân, khách hàng của quán cà phê, những kẻ rong chơi, và có rất nhiều anh chàng. . . mê gái. Chỉ dựa vào các dữ kiện chị Lệ Liễu cung cấp, có độ chừng một trăm tác giả sinh vào thập niên 40, hơn chục tác giả sinh vào thập niên 50, năm mươi tác giả sinh vào thập niên 30 và chỉ dăm ba tác giả của thập niên 20 hay trước nữa. Cao tuổi nhất là cố thi sĩ Đông Hồ sinh năm 1906 và trẻ tuổi nhất là nhà thơ Nguyễn Nhật Ánh sinh năm 1955. Do hoàn cảnh,  chúng ta khó biết rơ ràng và chính xác thân thế tác giả của những bài thơ này, ngoại trừ một số nhà thơ hiện nay sống ở hải ngoại và vẫn tiếp tục làm thơ; tuy nhiên, chúng ta có thể nh́n thấy bóng dáng tác giả qua lời thơ bởi v́ “The poet is a reporter interviewing his own heart.”[3] (Thi sĩ là người phóng viên tự phỏng vấn tâm hồn). Khác với người viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, có thể xây dựng nhân vật không mang bóng dáng tác giả, thơ phát xuất từ tâm hồn và vô thức của nhà thơ v́ thế nhân vật trong thơ phần lớn là h́nh ảnh của tác giả. Harold Bloom, học giả và phê b́nh gia người Hoa Kỳ quan niệm rằng thơ chỉ là những ứng đối lập luận của các nhà thơ với nhau, của người làm thơ thời sau trả lời với người làm thơ thời trước có thơ hay và nổi tiếng hơn (lớp hậu bối)[4]. Độc giả có thể không đồng ư với ông già “rộng họng” này nhưng tôi tạm tin vào lập luận của ông. Tôi muốn t́m hiểu ba trăm hai mươi mốt nhà thơ này nói ǵ với nhau, với thế hệ của họ, và với thế hệ trước họ. Người đọc thời bấy giờ cảm nhận bài thơ theo tâm thức của người thời bấy giờ. Tôi thuộc lớp hậu sinh muốn t́m hiểu quan niệm về t́nh yêu trong xă hội miền Nam lúc bấy giờ mà các nhà thơ đă bộc lộ qua những câu thơ họ viết. 

Thơ là bức tranh biết nói, tranh là bài thơ không lời.”[5] Nhà thơ bộc lộ những khoảnh khắc của tâm hồn đồng thời cũng vẽ lại bức tranh của xă hội. Tôi ngạc nhiên và thú vị khi nhận thấy rằng dù sống trong chiến tranh triền miên, các nhà thơ đă không oán ghét xă hội hay thù hận đối phương. Họ ghét chiến tranh, xem chiến tranh như một đại họa đến từ bên ngoài chứ không phát xuất từ xă hội họ đang sống. Họ không xem những người chiến đấu bên kia chiến tuyến với họ là kẻ thù, không mơ ước một ngày nào đó sẽ chiến thắng kẻ thù. Suốt ba trăm hai mươi mốt bài thơ tôi không nhớ đă một lần nào nh́n thấy chữ chiến thắng hay chiến bại. 

Họ, các nhà thơ trong tuyển tập Thơ T́nh Miền Nam, vẫn c̣n mang nét lăng mạn của các nhà thơ thuộc thế hệ trước như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, và Lưu Trọng Lư. Họ cùng biểu lộ mơ ước yêu và được yêu. T́nh yêu ở đây không chỉ giới hạn ở t́nh yêu trai gái mà nới rộng ra cho cả t́nh yêu quê hương và đồng bào. Họ mơ ước ḥa b́nh về trên quê hương Việt Nam. Họ phác họa hoàn cảnh xă hội của những năm có
 “ánh sáng hỏa châu rọi đường trong đêm sương mù,” và “đôi mắt van lơn trước hầm giây thép gai” (Đào Trường Phúc, Thư T́nh Mùa Hạ).

Trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, Chu Sơn đă bộc lộ ước mơ thống nhất.
 

em chẳng đến chẳng đi

ta chẳng t́m chẳng đợi

Sài G̣n không xa Hà Nội cũng không xa

cát bụi mười phương họp về chung một chiếu

rong rêu khắp thế giới ba ngàn

cùng hát bài ca huyền diệu

(Chu Sơn, Bài Ca Chuyển Kiếp, Tập san TƯ TƯỞNG số 8 Năm thứ Tư tháng 10 năm 1971)

Trong khi đất nước đang mong chờ ḥa b́nh về với hiệp định Genève, Trần Dzạ Lữ bày tỏ ước mơ:

Gắng lên em, ḥa b́nh sắp ló dạng

Ta sẽ về đồng ruộng dưới quê xưa

Hôn lá hôn cây hôn trời hôn đất

Sau chiến tranh, t́nh nối lại đôi bờ
(Trần Dzạ Lữ, Thư Cho Người, Bách Khoa số C, ngày 14-12-1972)

Đỗ Chu Thăng mơ ước ngày ḥa b́nh, được trở lại ngôi trường tiểu học nơi có cô giáo trẻ, và ông sẽ:


Trên bục gỗ anh t́m hương ngày cũ

Nơi trang bài tuổi đợi giấc mơ xuân
. . .
 
Như hong ấm món t́nh xưa đă nguội

Trời tháng hai gay gắt nắng hung vàng
(Đỗ Chu Thăng, Hong Chút T́nh Xưa)

 

Hạ Đ́nh Thao nhớ nhung: 

Vẫn phải hẹn như những mùa xuân trước

Sẽ về thăm một bận xóm làng xưa

Đă mấy năm trời quê người xuôi ngược

Vẫn thương hoài giọng hát bến đ̣ trưa

ông mong t́m lại h́nh ảnh mẹ già với chợ làng:

 

Quang gánh mẹ những sớm chiều tần tảo

Chợ làng xa, thiếu hụt sống qua ngày

Chừng năm tháng cũng quen niềm cơm áo

Gói trọn cuộc đời trăm mối chua cay.
(Hạ Đ́nh Thao, T́nh Xuân, Bách Khoa số 315, ngày 15-2-1970)

Chiến tranh gây phân ly. Trong khi người ở lại quê nhà mong chờ chinh nhân như sương khói th́ Hoàng Ngọc Châu nơi biên ải mơ màu áo người thấp thoáng bên bờ dậu cố hương:

Bao nhiêu rượu uống cũng không vừa

Ơi áo ai vàng cuối dậu thưa

Người có về qua vườn hạnh cũ

Ḷng son thiếu nữ có như mơ

 

Rượu ơi sao rượu măi chưa cùng

Say với ta mà mơ cố hương

Nam nhi chinh chiến hề quan ải

Chinh chiến người đi như khói sương  

(Hoàng Ngọc Châu, Chiều Quan Ải, Bách Khoa số 318,1 tháng 4 năm 1970)

Nhu cầu của con người là thương yêu và được thương yêu. Mấy mươi năm chiến tranh đă làm tan nát bao nhiêu cuộc t́nh v́ thế thơ t́nh miền Nam thường biểu lộ nỗi buồn của chia ly, tan vỡ và mơ ước được trở về, ở gần bên để được đưa đón người yêu. 

Anh đi rồi c̣n ai đưa đón 
Áo em bay khuất mất thiên đường 
Tuổi hai mươi ṿng tay níu gọi 
Ngôn ngữ nào anh nói yêu thương
 
 
(Chu Trầm Nguyên Minh, Lời T́nh Buồn)

Tô Thùy Yên, tuyệt vọng trong nỗi chia xa, đă ngậm ngùi than:

Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi, 
Thấy trong ḷng đời nở thật lẻ loi 
Một cành mai nhị độ. 
Thấy t́nh yêu như vận hội tàn đời 
Để xé ḿnh khỏi ác mộng 
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân. 

Ôi t́nh yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại !
(Tô Thùy Yên, Chiều Trên Phá Tam Giang)

Cũng trong bài thơ này Tô Thùy Yên đă mơ ước một cuộc đàm đạo với người lính bên kia chiến tuyến:


Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ

Ôi cơi âm nào ngươi vốn không tin

Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa:

Người cùng ta ai thật sự hy sinh

Cho tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc...?


Có t́nh yêu nào mà không mơ ước được hạnh phúc, Trần Kiêu Bạt bày tỏ sự mơ ước này trong bài thơ không vần:

Mùa thu nào anh ước mơ cừng em đi về

khu vườn địa đàng – giăng tay hái sao

làm hạt giống trồng cây ái ân giữa ḷng

thung lũng in đầy những dấu chân chim.
(Trần Kiêu Bạt, Khúc Mùa Thu, trích tuyển tập thơ LÁ - nhiều tác giả - Hồn Trẻ 20 xuất bản tại Sàig̣n 1967)

“Cuộc sống thường ngày được chụp bắt trong các bức ảnh làm bằng những chữ, và đôi khi ta thấy cuộc sống không phải luôn là dễ chịu. Tuy nhiên thi ca không buộc phải nắm bắt điều dễ chịu, đúng hơn là nó nắm bắt cái yếu tính và linh hồn của trải nghiệm thường ngày.”
[6] Đă có lần tôi nhận xét khó mà tách rời người lính, nhà văn, và nhà thơ trong tác giả Trần Hoài Thư và nhận xét này được xác định khi người lính đă dùng thơ kể lại trải nghiệm một ngày nhàn rỗi v́ không phải đi hành quân.  Một ngày không dễ chịu với kư ức đau buồn của cuộc chiến nhà thơ bày tỏ mơ ước xóa bỏ biên giới thù hận giữa hai người lính của hai miền: 

Nhớ nó ngă nhào trên bờ đá xám

Thấy cả ngọn đồi những xác Bắc Nam

 

Cô hàng ơi cho một ly không

Tôi rót mời một người lính Bắc

Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật

Trên người vẫn c̣n sót lại bài thơ

Trên  đồi cao, mây vẫn xanh lơ

Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng

Tôi với hắn, đâu có ǵ thống hận

Bài thơ nào cũng viết để yêu em

(Trần Hoài Thư, Một Ngày Không Hành Quân)


Có lẽ chỉ có người lính mới thấu đáo sự gian truân trong cuộc đời quân ngũ. Trong khi những người trang lứa ngồi trong lớp học hay đi phố với người yêu, có một người lính trong cái nắng thiêu người, tự nguyện làm kẻ ăn xin, cầu với đấng tối cao, không phải cho hạnh phúc bản thân mà cho niềm tin của nhân loại.

Mười hai giờ trưa mặt trời đứng bóng

Ngả mũ sắt ngồi lên

Làm tên hành khất

Để mà cầu xin

Không  phải cho lính thù chết hết

Nhưng cho con người niềm tin
(Ư Yên, Lời Nguyện Giờ Trưa, Tạp chí Bách Khoa số  308, ngày 1 tháng 11 năm 1969)


Với hơn ba trăm bài thơ, để tránh t́nh trạng bối rối của người bị lạc vào rừng thơ, tôi chia ra các bài thơ này thành nhiều nhóm nhỏ. Nhiều nhất là số bài thơ về t́nh yêu lứa đôi diễn tả nhớ nhung, giận hờn, mơ mộng, tan vỡ, . . . của các tác giả danh tiếng như Nguyên Sa, Du Tử Lê, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn  Tất Nhiên, Trần Huiền Ân, Trần thị Tuệ Mai, Minh Đức Hoài Trinh, cùng với nhiều nhà thơ danh tiếng khác. Những bài thơ t́nh này chiếm được ḷng yêu của độc giả và rất phổ biến qua những ca khúc. Kế đó là số bài thơ viết về t́nh yêu trong chiến tranh nổi tiếng không kém của các tác giả Linh Phương, Lê thị Ư, Lư Thụy Ư, . . . những bài thơ này tôi xin được viết riêng trong một dịp khác. Trong bài này tôi xin giới hạn sự t́m hiểu của tôi về chủ đề t́nh dục trong thơ t́nh miền Nam với một vài chi tiết tôi cho là thú vị. Người đang yêu có nhu cầu nói về cái hay cái đẹp của người yêu. Các nhà thơ trong khi say sưa biểu lộ t́nh yêu qua thi ca cũng nói lên quan niệm thẫm mỹ của họ. Nàng thơ thường là người đẹp. Người đẹp có mắt nai, môi hồng, dáng gầy như hạc, bàn tay thon, áo dài trắng, gót chân son, và tóc mây.

Qua vườn bông vải nghe chim

Trắng hoa lá nhớ người em thuở nào

Mười năm sách vở ra sao?

Rừng mây tóc rũ ta xao xuyến lời

(Cao Trường Huy, Qua Vườn Bông Vải, Bách Khoa 380, tháng 11-1972)

Tóc mềm bềnh bồng như mây nhưng đủ quấn rối làm Nguyễn Tất Nhiên
 “quị té trên đường rồi, sợi tóc ôm chân người.”
 

Chu Ngạn Thư ngấm biểu lộ chi tiết t́nh dục qua h́nh ảnh ngậm tóc người t́nh trên môi:

dẫu ǵ th́ anh cũng đă yêu em

giữa sương sớm, ngày nồng và đêm mượt

anh đă yêu nên ḷng như lễ rước

tóc mai người ngậm ngọt ngang môi

ẩn chứa dấu vết cuồng nhiệt của ái ân qua dấu răng

dẫu ǵ th́ ta chẳng thể chia phôi

khi t́nh đă tụ nên rừng cỏ ngọt

dẫu ǵ th́ chiếc răng thơm đă trót

vỡ trên vai từng dấu vết nồng nàn
(Chu Ngạn Thư, Những Ngày Xa Cách)


Cái đẹp của phụ nữ là những nét dịu dàng, mong manh như trinh nữ nhẹ nhàng như mùa Thu:

Bước rất nhẹ như vẫn c̣n đứng lại

Bước rất nhẹ như mùa Thu con gái

Như bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh

Như chưa lần nào em nói: yêu anh
(Hoàng Anh Tuấn, Bài Thơ C̣n Lại)

 

Thơ t́nh trong chiến tranh nói về sự chia xa, nỗi ngậm ngùi của sương phụ, cái đau đớn của người tật nguyền đáng được trân trọng chú ư bằng một bài viết dành riêng cho chủ đề này; tuy nhiên, tôi xin được đề cập thoáng qua v́ không thể nào không chú ư đến nỗi đau chất ngất giữa những hàng chữ trong thơ. 

Lỡ mai hoà b́nh ta về xe đẩy

Chiều qua nhà em có tiếng ai cười

Ngỡ ngàng về nhanh bàn tay run rẩy

Cúi xuống vụng về để nước mắt rơi

 

Lỡ mai hoà b́nh ta về nạng gỗ

Khập khễnh bước đi buồn khóc một ḿnh

Em ở lầu cao gieo cầu chọn lựa

Họ chen lấn giành ta đứng làm thinh.
(Hồ Chí Bửu, Chiều Nằm Trên Lô Cốt)

Người ngoài mặt trận thương nhớ người nơi quê nhà:

em ở đầu kia cuộn chỉ thần
thoáng nghe tàn bạo tiếng thời gian
chừng đôi năm nữa khi rời lính
tôi sẽ lên rừng sống ẩn thân

(Lâm Hảo Dũng, Tôi Vẫn Biết Em Buồn Bên Mái Lá)

và những giọt nước mắt nhỏ cho người nằm xuống mà cũng khóc cho phận đàn bà:

Ngày mai đi nhận xác chồng

Say đi để thấy ḿnh không là ḿnh

Say đi cho rơ người t́nh

Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ

Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ

Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son

T́nh ta không thể vuông tṛn

Say đi mà tưởng như c̣n người yêu
(Lê Thị Ư, Thương Ca 1)

khi người đàn bà trẻ phải một ḿnh nuôi con v́ chồng đang ở trong trại nhập ngũ:

Buổi sáng thăm chàng ở trại nhập ngũ số 3

buổi chiều ở Saigon ngó ngực Diễm Thúy

buổi tối về nhà nghe nhạc Phạm Duy

nửa đêm chợt khóc khi con bú.

(Nguyễn Thùy Song Thanh, Chủ Nhật 65)
 
Bên cạnh những h́nh ảnh lăng mạn của
 tiếng đàn tranh, áo sương mù, tuổi mười ba, trăng mười sáu, ḍng sông trắng, tóc mây trời, tuổi ô mai, tay hoàng yến, ḷng hương cốm, tay lá sen, . . .  các nhà thơ của chúng ta bước vào cuộc chiến tranh khi họ đang vào đỉnh cao của tuổi trẻ, sức sống tràn trề mà trước mặt họ toàn là chiến tranh và cái chết. “Romantic love is sexually passionate love. Romance uses sexual intimacy to create or amplify closeness and mutual fulfillment.”[7] Breggin định nghĩa: “T́nh yêu lăng mạn của đôi lứa là t́nh yêu chất chứa đam mê t́nh dục. T́nh yêu lăng mạn dùng sự thân thiết có dục tính để tạo ra hay tăng cường sự gần gũi và thỏa măn cho nhau. Sigmund Freud quan niệm bản năng của con người là tự bảo tồn. Sinh sản là để tự bảo tồn và nhu cầu t́nh dục phát sinh từ khuynh hướng tự bảo tồn.[8] Nói như thế có nghĩa là t́nh dục luôn đi kèm với t́nh yêu đôi lứa. Tôi muốn t́m hiểu xem các nhà thơ Việt Nam biểu lộ khuynh hướng t́nh dục trong thơ như thế nào? Họ có yêu cuồng sống vội để khỏa lấp nỗi sợ hăi của cái chết và quên đi tương lai đen tối? Nhà thơ Cao Thoại Châu cho biết: “Thơ t́nh miền Nam trước 1975 là một mảng của tấm lụa là gấm vóc chứ không phải ‘hiện sinh chủ nghĩa’ hiểu một cách bệnh hoạn là ‘yêu cho gấp và yêu bất kể chết’ kia đâu.”[9]  Tuy tôi rất tin lời nhà thơ và nhà giáo Cao Thoại Châu, tôi vẫn muốn t́m hiểu các tác giả trong tuyển tập thơ t́nh miền Nam đă biểu lộ t́nh dục qua thơ như thế nào. 

Cái say đắm trong bài thơ Yêu của Hồng Khắc Kim Mai làm tôi liên tưởng đến cái cháy bỏng đau đớn v́ đam mê trong thơ của Hàn Mặc Tử:

Khi người áp môi chuyền tai ta hơi thở 
Ta rúng người da say mùi cỏ dại 
Ta dang mồm ưng nuốt cả trời mây 
Ta đê mê nghe tim rớt vỡ hoang đầy 
Ta cuồng dại rên tên người trong tiếng khóc 
Môi ta khô ran mắt ngời sao lửa bốc 
Ôi t́nh yêu ôi tin yêu vàng ngọc 
Hồn ta quằn quại sảng khoái tới thịt xương
 
(Hồng Khắc Kim Mai, Yêu)

Ngụy Ngữ không nói nhiều, chỉ một câu để diễn tả nỗi nhớ khi thôi nhau:
 “C̣n chỗ em nằm chăn xô chiếu lệch.” (Ngụy Ngữ, Thôi Nhau)

Nguyên Sa kín đáo hơn khi ông bảo
 “Nắng Sài G̣n anh đi mà chợt mát, bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông.” tôi nh́n thấy cái thèm muốn được sờ, được chạm, được ôm vào trong tay để cảm được cái mát mẻ của làn da dưới lần lụa.

Nguyễn Lương Vỵ bóng bẩy và ngọt ngào, đầy nhục cảm nhưng không kém trữ t́nh:

Thôi đêm lá gục bên trời

Hương trăng xưa ngọt khướt lời ở đây

Rót từ một cốc trên tay

Tim tôi thành sữa pha đầy ngực em

(Nguyễn Lương Vỵ, Tim Tôi)

Khi cái nắng ban trưa của Nguyên Sa trở nên dịu mát nhờ làn áo lụa th́ nắng trưa lại khiến một nhà thơ khác nhớ những cuộc ái ân.

t́m nhau về giữa ban trưa

khơi con nắng dậy cho vừa ái ân
(Nguyễn Đức Bạt Ngàn, Hương Cau)

Nguyễn Miên Thảo diễn tả sự khoái cảm tuyệt đỉnh bằng cách cho
 “hai người ch́m vào cơn băo mật.” Phạm Trường thẳng thắn hơn, nhà thơ này có rất nhiều bài thơ nồng nàn mùi da thịt (tôi t́m thấy trong Thơ T́nh Miền Nam của Thư Ấn Quán), và bài Ngàn Năm Con Gái của ông là một bài tiêu biểu:

Người con gái ấy có ṿng ngực đam mê giấc mơ xuân t́nh hàm răng vô tội

em là men rượu thần tiên

anh yêu em không c̣n ǵ nghi hoặc.
(Phạm Trường, Ngàn Năm Con Gái)


Ngay cả nhà thơ tu sĩ Phạm Thiên Thư cũng khẽ khàng những câu thấp thoáng dục vọng nhưng cũng thấm đẫm mùi Thiền:

Mốt mai ta có luân hồi
Tái sinh lại giữa khóe môi em hồng
Ngâm ḿnh tiếng suối nước trong
Ta siêu theo cánh phượng hồng em bay
Mốt mai ta có lưu đày
Th́ xin trọn ngực tóc mây yên nằm

Và:

Thôi th́ em nguyện lâm râm
Cho ta ngửi nẫu môi trầm Như Lai
(Phạm Thiên Thư, Khúc Tự T́nh Phù Du
)[10]

Có thể nói Quách Thoại là nhà thơ cao niên hơn nhiều nhà thơ xuất hiện trong tuyển tập, từ bài thơ Trăng Thiếu Phụ ông đă có thoang thoáng nỗi khao khát của người đàn bà trẻ qua những câu
 “đă mấy đêm trường em không ngủ, nằm thao thức nhớ mảnh trăng lu,” Bài thơ sau đây ông viết măi từ năm 1963, khi ấy phụ nữ Mỹ chưa có cuộc cách mạng t́nh dục, mà thơ của ông đă rừng rực lửa t́nh yêu:

Em sâu kín giữa đôi đường mũi nhỏ

Em nở nhụy giữa đôi môi hồng đỏ

Căng căng mềm ứ đọng sữa t́nh tươi

Và ngậm hở đợi chờ ai hôn đó

Và:

Thân h́nh em uốn khúc quá yêu quen

Cả người em ướm chất lửa thơm men

Trên ngực đồi vú sen c̣n kín búp

Hương trinh tiết vẫn c̣n nguyên ẩn núp
(Quách Thoại, Em)


Nhà thơ Vũ Hoàng Chương yếu đuối ẻo lả như thế nhưng thơ của ông cũng đầy những khát khao của da thịt nào là
 “Hồn ngả lâu rồi nhưng chân c̣n dẻo,” và:

Lưng mềm, năo nuột dáng tơ 
Hàng chân lả lướt 
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ. 

Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân 
Lui đôi vai, tiến đôi chân, 
Riết đôi tay, ngả đôi thân
. . .
 

Say đi em! Say đi em! 
Say cho lơi lả ánh đèn 
Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt.
 
. . .
 
Có ai gh́ hư ảnh sát kề môi. 
Chân ră rời 
Quay cuồng chi được nữa 
Gối mỏi gần rơi 
Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa 
(Vũ Hoàng Chương, Say Đi Em)

Từ Thế Mộng đưa cái đẹp nhục cảm đến mức thượng thừa qua mái tóc ướt và phần áo dính da:

Không phải suối

Không phải sông

Mà ướt đầm mái tóc

Không phải rực vàng

Một màu hoa cúc

Mà đơn sơ áo ướt một đôi vùng

Em tắm biển về biển ướt ở sau lưng

Vàng mấy khoảng cho mặt trời tới đậu


Độc giả tưởng tượng đi, “Vàng mấy khoảng cho mặt trời tới đậu” nồng nàn gợi cảm hơn cả câu hát của Trịnh Công Sơn
 “em đi về cầu mưa ướt áo” Trịnh Công Sơn chỉ mới cầu cho mưa thôi c̣n ở đây đôi mắt của tác giả đă gắn chặt vào phần áo ướt dính sát lưng thiếu nữ. Và đôi mắt dơi theo lưng áo màu hoa quỳ như đóa hoa quỳ quay theo hướng mặt trời.

Nghiêng theo em như thể đóa hoa quỳ

Ôi màu vàng đâu thể dễ phải đi

Màu vàng không phai

Mặt trời vẫn ướt

Nên phương em lẽo đẽo một phương quỳ 

(Từ Thế Mộng, Một Phương Quỳ)

Phạm Công Thiện th́ dùng ngôn ngữ nói về hành động ái t́nh trực tiếp nhất dữ dằn nhất, đọc bài thơ này ai mà biết ông đă từng là nhà tu:

tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng

tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người

cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ

mặt trời có thai!

mặt trời có thai!

sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt


Nhà thơ Kiệt Tấn, viết bài thơ Băi Biển khi ông hai mươi hai tuổi, đă để nhân vật trong bài thơ khoe với độc giả sự thành thạo trong việc cởi áo người t́nh:

“Anh nhớ rơ từng nốt ruồi anh đếm được trên lưng em L. ơi!”
 
Chữ L. sau chuyện cởi áo làm tôi liên tưởng đến Lolita và những chữ L. (viết hoa và viết tắt) phải lập lờ uốn lưỡi. Không thể bảo ông viết tục, chỉ có thể chê tôi nghĩ chuyện tục.

hơi hướng da thịt em sẽ nhạt mùi trên da anh và đấy mới chính là gương mặt u buồn thực sự của t́nh yêu phải không em?

(Kiệt Tấn, Băi Bể)

Lê Vĩnh Thọ diễn tả sự ngây ngất của người hưởng thụ hoan lạc tỉ mỉ với những chi tiết làm người đọc liên tưởng đến cuộc truy hoan, bắt đầu từ bộ ngực, nhưng ngôn ngữ trong toàn bài thơ không có chút nào trây trúa tục tằn.

Ngực em

Như đôi chim bồ câu trắng nhỏ

Xinh xắn đáng yêu

Ngoan ngoăn dịu dàng

Đang âu yếm nằm thu ḿnh bên nhau

Thở phập phồng êm ái
. . .
 

Tôi hăng hái nhưng nhẹ nhàng thận trọng

Ôm đôi chim bồ câu gọn gàng trong ḷng đôi bàn tay thân mật
(Lê Vĩnh Thọ, Thử Phác Họa Chân Dung T́nh Yêu, Văn Học –Giai phẩm Mùa Xuân 1975, phát hành ngày 20 tháng 01 năm 1975) 

Du Tử Lê không kém nồng nàn với những câu:

nôi tương tư cỏ ấm thịt da người

tôi hiu hắt từ mắt em ngắt tạnh

môi thâm khô từ thuở định xin hôn


Các nhà văn Hy Lạp thời cổ khi viết huyền thoại đă cho Aphrodite, nữ thần tượng trưng cho dục vọng, kết hợp với thần chiến tranh Ares, sinh ra Eros, thần ái t́nh. Có phải họ quan niệm t́nh dục được dùng để quên đi nỗi sợ hăi cái chết do chiến tranh gây ra?  Có phải một số nhà thơ miền Nam đă dùng t́nh dục để lấp đầy những trống vắng trong tâm hồn khi đối diện với chiến tranh, có nghĩa là đối diện với hoang mang thất lạc, thiếu thốn vật chất, hành tŕnh gian nan, và thậm chí cái chết trong tương lai gần?

Thân thể nàng đó với biển cồn chăn gối

Tôi gọi tên tôi thảng thốt từng đêm

Con rắn lưng trần trườn ḿnh nhễ nhại

Giấc ngủ lăn trên hơi thở nặc nồng...

(Minh Hân, Khuôn Mặt T́nh yêu)

và:

ôi năm năm dài ta tới lui nồng nhiệt

ta được ngủ bờ ngủ bụi giữa śnh lầy

ta được chuyện tṛ cùng muỗi ṃng đỉa vắt

ta được ăn gạo hẩm cơm thiu

ta được uống nước đ́a ung rữa

ta được trực thăng vận kích đêm

ta được thủ dâm từng cơn ham muốn

ta được ngửi xác thối máu tanh

ta được nhớ em tận cùng nỗi nhớ
(Hà Nghiêu Bích, Thơ Viết Từ Một KBC)

Nguyễn Đăng Hà cho nhân vật trong bài thơ hôn nhau ở góc phố ông cảnh sát phải làm ngơ. Nguyễn Hữu Nhật nhớ hơi người:

Sợ nhất lúc buông nhau mùa gió
bao nhiêu chăn phủ chẳng ấm đời
Giường gỗ mộc run lên tiếng lạnh
nhớ hơi người đến chết mất thôi
(Nguyễn Hữu Nhật, Tháng Mười Ở Đâu)

Nói về thơ t́nh của tuổi trẻ miền Nam làm sao mà quên được Nguyễn Tất Nhiên, chàng thi sĩ măi măi làm người thất t́nh có lẽ nếu không thất t́nh ông không thể làm thơ. Nguyễn Tất Nhiên mang những câu rất lạ và rất bạo vào thơ. Không có ai dám làm những câu thơ “kỳ thị” mắng con gái Bắc điêu ngoa nhưng giả bộ thật thà, dám phạm thượng so sánh em hiền như ma soeur. Bài thơ Oanh của ông được chọn trong bộ thơ t́nh không chất ngất t́nh dục mà chỉ nhẹ nhàng:

Hy vọng vuốt ve sau lần thất thế
chàng vuốt ve t́nh nóng hổi bàn tay.

Chẳng biết t́nh của Nguyễn Tất Nhiên là ǵ, nằm ở đâu mà nóng hổi? Có phải như Robert Frost đă nói “Poetry provides the one permissible way of saying one thing and meaning another.” (Thơ cho chúng ta được phép dùng câu nói này để ám chỉ điều khác.)

Ngy Cao Nguyên là một họa sĩ táo bạo. Hăy nghe ông tuyên bố:

có thể anh c̣n đang khỏa thân

trầm ḿnh trong suối nhạc da đen

cho đă cơn buồn những âm thanh điên

 

có thể anh c̣n mang kiếp trâu đen

thích cày bừa trên những cánh đồng chiêm

thân h́nh em thơm ngát
(Ngy Cao Nguyên, Những Màu Cho Chân Dung Em)

Nh́n chung, đề cập đến t́nh dục, các nhà thơ t́nh miền Nam vẫn bóng bẩy tao nhă chứ không tục tằn. Rất hiếm khi họ dùng những chữ trực tiếp hay táo bạo về bộ phận sinh dục. Thơ t́nh miền Nam phần lớn theo chủ nghĩa lăng mạn. Họ ca tụng cái đẹp của thiên nhiên, t́nh yêu, và con người. Ngay cả khi nói về chiến tranh và cái chết họ vẫn có cách thể hiện rất đẹp, không thô bạo. Lâu dần, cái đẹp trở thành khuôn mẫu. Cái đẹp trong thơ của chủ nghĩa lăng mạn trở nên giống na ná với nhau như những cô người mẫu tŕnh diễn trên catwalk. Sau khi nh́n vài chục g̣ má cao, chân dài, răng đều như riến người ta bỗng thèm một chút ǵ phá cách như chú ư đến một cô gái không đẹp bằng nhưng lạ hơn nhờ cái răng khểnh hay nước da ngăm. Tuyển tập Thơ T́nh Miền Nam do Gió O xuất bản giống như một loại rượu nho quí t́m được trong hầm rượu cũ. Loại rượu đặc biệt do một giống nho chỉ có trong thời kỳ ấy, ướp bằng nắng của mùa ấy, mọc trong đất của khu rừng nho ấy. Người thời ấy thưởng thức rượu lúc ấy chắc chắn sẽ thấy mùi vị khác với tôi người thưởng thức cũng loại rượu ấy nhưng mấy mươi năm sau. Tôi không khỏi bùi ngùi luyến tiếc biết rằng mùa mới sẽ có rượu mang hương vị mới nhưng rượu cũ sẽ không c̣n v́ dù có giống nho, sẽ không bao giờ có lại được nắng và đất của thời xa xưa ấy.

 

Chị Lệ-Liễu đă tâm sự, về những khó khăn chị gặp phải, trong bài tản mạn T́m Lại Một Thời Thơ Yêu[11] và tôi rất thông cảm với chị. Ba trăm hai mươi mốt bài thơ không phải là con số gây ấn tượng nếu đem so với nền văn học miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975 nhưng sưu tập và chọn lựa hơn ba trăm bài thơ đ̣i hỏi nhiều công sức.  Độc giả cũng biết ba trăm hai mươi mốt bài thơ không thể là tiêu biểu của thơ miền Nam, cũng như một bài thơ của một tác giả cũng không thể là tiêu biểu của một tác giả. Với những học giả nghiên cứu, số lượng bài thơ có thể không đủ để nhận định về một thời điểm huy hoàng của nền văn học Việt Nam nhưng với tôi, cũng đủ để tưởng nhớ thời vàng son của thơ như nh́n những mảnh bát đĩa vỡ chôn vùi dưới đáy biển mà tưởng tượng đến một triều đại gốm sứ Chu Đậu huy hoàng của triều Lư.

 

Nguyễn thị Hải Hà

27.07.2012

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiHaiHa.html

 

 



[1] Sau khi bài Đọc Thơ T́nh Miền Nam đăng lên Gió O nhà thơ Trần Huiền Ân liên lạc với Gió O, cho biết bài học thuộc ḷng này là tác phẩm của ông in trên Tân Việt Văn (1964).
Nhân đây tôi xin chép lại bài thơ theo trí nhớ, tựa đề bài thơ này là Quê Em:

Khi khôn lớn rộng đường ra hải ngoại
Nếu có người muốn biết rơ quê em

Mở bản đồ em sẽ chỉ người xem
Đây nước Việt bốn ngàn năm yêu quí
Quê em có núi rừng nung chính khí
Ngọn Hoàng Liên chót vót đội trời xanh
Dăy Trường Sơn như một bức liên thành
Chân trải rộng miền cao nguyên màu mỡ
Quê em có hai cánh đồng vạn thuở
Vẫn c̣n xanh thắm thiết Bắc Nam Trung
Dâng lúa ngô nuôi ṇi giống oai hùng
Mỗi trang sử ghi một lần thắng lợi
Quê em có ba ḍng sông chờ đợi
Ḥa niềm vui trong ḷng mẹ biển bao la
Bùn Cửu Long Giang, đất đỏ Nhị Hà
Pha trộn nước ḍng sông Hương trong suốt
Quê em đấy dáng h́nh tuy gầy guộc
Nhưng biết bao nhiêu cảnh trí hữu t́nh
Để ai qua cũng cảm thấy ḷng ḿnh
Quyến luyến măi và hẹn ngày trở lại. (Tác giả Trần Huiền Ân)

[2] Nguyễn Ngọc Bích, Preface. A Thousand Years of Vietnamese Poetry. Trans. Nguyen Ngoc Bich, Burton Raffel and W. S. Merwin, New York: Alfred A. Knopf, 1975, p. xv.

[3] CHRISTOPHER MORLEY (1890 – 1957). Inward Ho! 2, 1923.

[4] Bloom, Harold. “Poetic Influence.” Literature – An Introduction to Fiction, Poetry, Drama, and Writing. Eds.  Kenedy, X. J. and Dana Gioia. p. 1519.

[5] Poetry is a speaking picture, painting is silent poetry.” Simonides of Ceos nhà thơ Hy Lạp (c. 556 BC – 468 BC)

[6] Saunders, Angela. Thơ Kể. Trans. Phạm Kiều Tùng, Garden Grove:Tân H́nh Thức, 2009, p. xx-xxiii.

[7] Breggin, Peter. The Heart of Being Helpful: Empathy and the Creation of a Healing Presence. New York: Springer. 1997.

[8] Hedges, Chris. War Is a Force That Give Us Meaning New York, Anchor Book, p. 158.

[9] Cao Thoại Châu. Một Thoáng Thơ T́nh Thời Chiến. 24 June 2010, http://www.vanchuongviet.org/

[10] Trích Thư T́nh Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008, tr. 485.

[11] http://www.gio-o.com/ThoTinhNam1975.html

 

 

© gio-o.com 2012