photo:nguyễn thị hải hà

 

 

NGUYỄN THỊ HẢI HÀ

bạn đồng hành

tản mạn

 

Tôi chú ư đến bà v́ mấy cái áo khoác. Chúng tôi ra về cùng chuyến xe lửa, ngồi cùng toa. Bà ngồi ở hàng ghế bên phải, sát với sân ga. Tôi bên trái đối diện sàn xe lửa số 4. Bà có mấy cái áo khoác (jacket) giống như những tấm quilt, may bằng những mẩu vải khác nhau tạo thành h́nh dáng (pattern) vuông hay h́nh thoi đẹp mắt. Màu sắc cũng đẹp. Có cái màu vàng nhạt bà thường mặc mùa xuân. Có cái màu đỏ sậm. Bà có ít nhất là ba cái bà thường mặc khi trời hơi lạnh.

Từ những cái áo khoác của bà, tôi chú ư đến h́nh dáng, trang phục của bà với ít nhiều ngưỡng mộ. Tôi đoán là bà lớn tuổi hơn tôi, vẫn c̣n đi làm có nghĩa là bà không lớn tuổi lắm. Có thể bà ở khoảng tuổi bảy mươi, hơn kém một chút.

Bà cao lớn, có thể suưt soát 6 feet, 1mét 8,  không béo ph́, tóc cắt ngắn. Bà có nét đẹp người Mỹ thường dùng chữ handsome, đẹp nhưng ít nữ tính,  để diễn tả. Da mặt của bà đă nhăn nheo. Da tay của bà đă trổ đồi mồi. Bà ít dùng son phấn, một lớp phấn mỏng, chút son nhạt. Cách ăn mặc giản dị nhưng không xuề x̣a. Mùa hè bà mặc áo sơ mi. Bà thường mặc váy dài, có khi váy x̣e, có khi váy suông thẳng. Bà đi giày cột dây, đôi khi penny loafer. Ở bà toát ra nét giản dị, như một người nữ tu. Giản dị nhưng vẫn sang trọng, có lẽ v́ trang phục của bà được làm bằng vật liệu rất tốt, và luôn luôn thẳng thóm.

Rồi có một hôm, tôi buột miệng khen mấy cái áo khoác bằng quilt của bà.

“Những cái jacket của bà đẹp lắm. Bà đặt mua ở đâu vậy?”

“Ồ, cám ơn bà. Con tôi mua tặng tôi nên tôi cũng chẳng biết mua ở đâu.” Bà trả lời.

“H́nh như ngày nào bà cũng đi xe lửa vào giờ này. Có lẽ bà làm việc ở gần đây?” Tôi bắt chuyện.

“Tôi làm việc cho Prudential.” Bà trả lời. Sau vài câu tṛ chuyện, bà quay trở lại với quyển sách của bà và tôi trở lại quyển sách của tôi. Buổi chiều về tôi hay ngủ gật, chỉ sau vài trang sách. Khi tôi thức giấc th́ bà đă xuống xe. Bà xuống xe lửa ở Cranford.

Tôi vẫn tự hỏi bà làm ǵ ở cơ quan của bà. Nếu bà làm ở một nhà xuất bản th́ tôi sẽ không ngần ngại nghĩ rằng bà là một editor. Mỗi ngày bà đều đọc sách, loại b́a cứng, rất dày, đa số là fiction, những quyển không mấy nổi tiếng. Tôi chưa hề thấy bà tṛ chuyện với ai. Ngoại trừ tôi, v́ tôi bắt chuyện với bà.

Thứ Sáu, tôi thường về sớm một chút và thấy thú vị v́ bà cũng về sớm. Sau lần tôi bắt chuyện, mỗi ngày tôi và bà thường chào nhau hello rồi mỗi người theo đuổi công việc của ḿnh. Khi xuống xe chúng tôi không chào nhau, có lẽ v́ xe lửa đông người và tôi th́ đang bận ngủ gục.

Có một dạo tôi không thấy bà. Tôi tự hỏi có việc ǵ. Bà về hưu, hay ngă bệnh? Hay chỉ nghỉ hè? Trong thâm tâm tôi xem bà như bạn. T́nh bạn của tôi chỉ có ngần ấy: nh́n thấy bà và nói hello. Nhưng rồi bà trở lại đi làm, chúng tôi vẫn chào nhau. Bỗng dưng tôi thấy ngượng, v́ tôi đă chú ư đến bà, đến độ tôi muốn hỏi bà, sao bà vắng mặt mấy hôm. Muốn hỏi nhưng tôi không hỏi. V́ tôi ngại ngùng. Sau đó lên xe lửa tôi chọn một chỗ ngồi khác sau hàng ghế của bà một chút, để tránh những câu tôi muốn hỏi sau khi chào, những câu hỏi tôi sợ bị chê là suồng să.

Chiều thứ Sáu vừa qua, tôi và bà trao đổi câu hello. Bà chuẩn bị ngồi vào băng ghế của bà, th́ quay lại hỏi tôi.

“Where have you been?”

Tôi lúng túng. Bà nói thêm là bà không thấy tôi mấy hôm nay, đoán là tôi ngồi chỗ khác. Tôi trả lời một nửa sự thật. Tôi lên xe lửa hơi muộn nên ngồi phía sau.

Khi bà xuống xe lửa, tôi thấy bước đi của bà đă có vẻ yếu ớt chông chênh. Lưng của bà có vẻ hơi c̣ng. Ở bà vẫn toát ra nét handsome, giản dị nhưng trang trọng, một nét đẹp tôi rất muốn bắt chước.

Chỉ cần một câu thắc mắc của một người không quen. Tại sao vắng mặt mấy hôm nay. Thế mà tôi thấy ḷng ấm áp vô cùng. Tự nhủ sẽ không tránh gặp bà. Mỗi ngày tôi sẽ gặp bà để chào hello và nghĩ rằng bà là bạn của tôi. Có lẽ tôi sẽ hỏi tên bà. Và sẽ hỏi bà muốn được chào bằng Ms., Mrs., hay chỉ cần cái first name là đă đủ.

 

Nguyễn Thị Hải Hà

New York 23/11/2014

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiHaiHa.html

 

© gio-o.com 2014