Vũ Hoàng Thư,
Đào
Trung Đạo, Phan Thanh Tâm, Lê Thị Huệ, Trần Thị
Lại Hồng,
Nguyễn Thị Hải Hà, Lại Gia Định,
ngày Dó Oi 9.10.2016 tại Lạc Cầm, Bolsa. (photo: Thái Hằng)
Nguyễn thị
Hải Hà
năm năm làm bạn với Gió O
Tôi đến với Gió O vào một ngày tháng Bảy năm 2011. Mới đó mà đă năm năm. Từ khi gửi bài đến Gió O đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp mặt nhau. Đây cũng là cơ hội đặc biệt, nhân ngày kỷ niệm 15 năm thành lập trang mạng Gió O, xin kính chào ra mắt giới viết văn ở hải ngoại nói chung và California nói riêng. Cảm ơn chị Lê Thị Huệ và tất cả anh chị có mặt ngày hôm nay.
Trước khi đến với Gió O tôi có gửi bài nhiều trang mạng khác. Đa số tôi được tiếp nhận một cách nồng ấm, nhưng cũng có một đôi lần gặp tai nạn văn chương. Những tai nạn nho nhỏ này có lẽ là do cách dùng chữ tiếng Việt của tôi. Tôi nhắc đến cách dùng chữ Việt là bởi v́ trong loạt bài phỏng vấn các cộng tác viên, O Huệ đặt câu hỏi “tiếng Việt ở Sài G̣n có lẽ khác tiếng Việt ở California”. Một lần khác O hỏi “ngôn ngữ trong văn chương hải ngoại có ǵ đặc biệt so với ngôn ngữ văn chương trong nước?” Câu hỏi rất bao quát nên cũng khó trả lời cho cặn kẽ. Về mặt địa lư hai nơi cách xa nhau mười ngàn cây số. Câu hỏi đặt ra với Tiếng Việt ở Sài g̣n bây giờ hay Tiếng Việt ở Sài G̣n hồi trước năm 75. Tiếng Việt ở hải ngoại bây giờ có khác tiếng Việt ở hải ngoại bốn mươi năm trước đây hay không? Để trả lời chu đáo những câu hỏi này có lẽ phải đợi kết quả của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt. Nói chung chung, tôi tin là có thay đổi, dễ thấy nhất là cách dùng chữ. Sự khác biệt giữa cách dùng chữ chúng ta có thể nhận thấy từ trước năm 75, ngay ở trong gia đ́nh mà vợ chồng là kẻ Nam người Bắc. Tôi gọi cái muỗng to múc canh là cái vá. Gia đ́nh chồng gọi là cái môi. Trong nhà, tôi thường bị kê tủ đứng v́ cách phát âm của người Nam, thí dụ như trong cách phát âm không phân biệt được giữa “văn chương mạng” và “văng mạng” (tương đương nghĩa với mất mạng). Nhiều khi cũng ức nhưng không nói ra. Mới đây, trong chuyến đi thăm người thân ở Houston, cô em chồng của tôi bảo đứa cháu “lấy cái môi múc phở.” Cô bé nói tỉnh bơ “không được đâu cô, lấy môi bị phỏng làm sao.” Mọi người cười nhưng riêng tôi có một chút hả hê.
Trong gia đ́nh sửa lưng nhau chẳng ai phiền. Tuy nhiên với người Việt, với sự chia cách miền Bắc và miền Nam, rồi sau năm 75, cách dùng ngôn ngữ Việt, trong nước và ngoài nước, ít nhiều mang tính cách chính trị.
Hạ Tri Chương có bài thơ Hồi Hương Ngẫu Thư. Đại ư bài thơ nói, có một người rời xa quê từ thuở c̣n trẻ, già trở về thăm nhà. Cách phát âm không thay đổi chỉ có mái tóc là bạc. Trẻ nhỏ nghe ông nói, cười nhạo ông nói sao lạ tai. Hoa Kỳ có truyện Rip Van Winkle, vợ sai việc nhà, ông dẫn chó vào rừng, t́m một chỗ kín nằm ngủ trốn việc, và ngủ luôn hai mươi năm. Ngày ông trở về vợ ông đă qua đời, ông t́m ra được một người có cùng tên với ông, đó chính là con trai của ông, thành phố đă đổi người cai trị, và ngôn ngữ ông dùng đă lỗi thời.
Sau năm 75, những người tập kết trở về, người thân nghe cách dùng tiếng Việt của người tập kết rất lạ tai. Ḿnh nói máy bay trực thăng người ta nói máy bay lên thẳng. Dân Việt hải ngoại về Việt Nam chơi, ngay cả khi mặc quần áo của người nhà, hễ mở miệng nói là người ta biết ngay ở nước ngoài mới về v́ Việt kiều dùng những chữ bây giờ người ta không dùng. Như trẻ nhỏ trong bài thơ của Hạ Tri Chương, nghe Việt kiều nói lạ tai.
Đó là cách nói, c̣n cách viết th́ sao? Từ khi có internet, tiếng Việt trong nước gặp gỡ tiếng Việt ở nước ngoài. Khi mới bắt đầu viết trở lại bằng tiếng Việt tôi thường hay bị sửa. Tôi viết là dúi, như dúi cuốn vần vào bếp lửa, bị sửa thành vùi. Khi tôi viết tiếng Việt có trộn lẫn tiếng Anh, có người góp ư phải viết toàn tiếng Việt. Ở một trang mạng, bài của tôi được đăng lên rồi sau đó biên tập viên âm thầm sửa từng chữ, thành kiến biến thành định kiến, đồng ư biến thành đồng t́nh, xử dụng thành sử dụng, chia xẻ thành chia sẻ, nhiều quá nên tôi không nhớ hết. Khi những chữ tôi dùng bị thay thế bằng tiếng Việt “hàn lâm” sau năm 75, tôi nghĩ văn tôi viết giống như cách ông lăo nói trong bài thơ của Hạ Tri Chương. Nhưng ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là chữ với nghĩa. Nó c̣n là một hệ thống chính trị của người có quyền hành áp đặt lên người không có quyền hành, người mạnh áp đặt lên kẻ yếu thế. Đó là một cách phát biểu, rằng, khuôn mẫu của người thắng cuộc th́ đúng, tốt, hay, toàn hảo. Đứa nhỏ trong bài thơ của Hạ Tri Chương chỉ biết có một thứ khuôn mẫu ngôn ngữ nó được dạy dỗ mà thôi.
Khó mà nêu ra sự khác nhau giữa ngôn ngữ Việt ở hải ngoại và trong nước như thế nào cho rành mạch với đầy đủ chứng cớ. Ngay cả ngôn ngữ Việt giữa các trang mạng văn học có khác nhau hay không và nếu có th́ khác nhau như thế nào cũng không thể làm. Bởi v́ không phải ai cũng có điều kiện làm một cuộc nghiên cứu lâu dài, ăn cơm nhà vác ngà voi thiên hạ. Tuy nhiên năm năm cộng tác với Gió O tôi có quan sát một vài nét về cách dùng ngôn ngữ Việt của chủ biên Gió O. Thích hay không thích, người đọc chỉ cần đọc một bài O Huệ viết, bất kỳ đó là một lá thư định kỳ, một bài tản mạn, là bắt gặp ngay sự khác thường này. Dường như O dùng tiếng Việt để phản kháng những qui luật mà những người có quyền trong giới văn học tiếng Việt đặt ra. Cách viết của O Huệ làm cho tôi nghĩ rằng, không ai có quyền giới hạn cách suy nghĩ hay sự sáng tạo của người viết bằng những luật lệ họ đặt ra, nhất là khi họ nhân danh giữ ǵn sự trong sáng của tiếng Việt. Người ta có thể không in không đăng nhưng điều đó không có nghĩa là ḿnh phải phải chấp nhận viết theo khuôn mẫu cái hay cái đẹp của người khác, nhất là khi viết văn trên mạng.
Nhưng O Huệ, với cách dùng chữ Việt nằm ngoài khuôn khổ, một ḿnh là chủ trang Gió O, O có chọn đăng bài cách viết hoàn toàn giống với cách viết của O không? Câu trả lời là Không. Lê Thị Huệ tuy viết kiểu một ḿnh một cơi nhưng vào vai chủ biên Gió O, chị lại chọn bài rất đa phong cách cho Gió O.
Độc giả dễ nhận thấy rằng giọng văn của người cộng tác với Gió O rất phong phú đa dạng, nhiều màu sắc như kính vạn hoa. Trí thức văn phong nghiêm túc như Đặng Phùng Quân và Mặc Đỗ, trí tuệ như thơ Nguyễn Thùy Song Thanh và Đoàn Minh Đạo, nghệ sĩ tính như Ngu Yên mà Ngu Yên th́ độc giả biết quá chừng rồi, ông thiên biến vạn hóa một ḿnh ông là đủ ngũ sắc cầu vồng, tinh nghịch vui đùa như Lăo Ngoan Đồng Nguyễn Đăng Thường. Bên cạnh những tên tuổi chói ḷa như Thanh Tâm Tuyền và Mai Thảo, có những ngôi sao lịch lăm như Lâm Hảo Dũng, Ngô văn Tao, Đài Sử. Dịch bằng giọng văn nghiêm túc nhưng dễ hiểu như Ngô Bắc, nhưng cũng có người dịch sáng tạo thêm chữ vào thơ như Lư Ốc Black Racoon. Tân kỳ như thơ Như Quỳnh DePrelle đi kèm với giọng thơ tĩnh mịch của Nguyễn thị Hải. Năm năm làm bạn với Gió O, chị Huệ để tôi đặt tên nhân vật tên Tây tên Ấn Độ, nhân vật nói tiếng Việt nửa nạc nửa mỡ, không hề đ̣i tôi phải cạo chân mày hay chặt đầu bản văn cho vừa cái chiếu văn chương.
Tôi hỏi O Huệ nếu tôi không lên đọc bài có được không, th́ O dọa là nếu không đọc bài sẽ không cho uống rượu. Bây giờ đọc xong bài rồi tuy chưa uống nhưng đă say. V́ say nên xin cho tôi hát một đoạn trong bài hát chế biến của nhà văn Nguyễn Đăng Thường; bài Tuổi Dưa Hồng. Bài này đă đăng trên Gió O, v́ là văn mạng nó trở thành của chùa, ai muốn hát cũng được không cần phải trả tiền tác quyền. Khi tôi ngừng hát th́ anh chị có mặt ở đây biết là bài đọc của tôi đă chấm dứt và xin vui ḷng vỗ tay.
Bà ḿnh làm dưa
Dưa chua mênh mang
Từng ngón dưa mềm
Thơm tho em mang
Đi vào lớp ngồi
Ngày Chủ Nhựt này
C̣n dưa c̣n dưa
Miếng dưa hồng
Nằm trong chén cơm
Ôi ngày tháng dài
Nh́n dưa miệt mài
C̣n nhai c̣n nhai
Nhai dưa nồng nàn.
Nhai dưa nồng nàn.
(Nguyễn Đăng Thường)
Nguyễn Thị Hải Hà
http://www.gio-o.com/15NamGioO.html
© gio-o.com 2016