Nguyên Chẩn 

Nguyễn Thị Hải dịch thơ

 

24 bài thơ ngũ ngôn luật về 24 tiết khí, được cho là của tác giả Nguyên Chẩn, nhà thơ đời Trung Đường. Ông dựa vào 72 hậu (năm ngày là một hậu, ba hậu là một tiết khí, sáu tiết khí là một mùa, bốn mùa là một năm) do người Trung Quốc cổ đại đúc rút ra trong tiến trình sinh sống và lao động sản xuất trong lưu vực sông Hoàng Hà.

Lần đầu tiên, 24 tiết khí được viết đầy đủ thành thơ. Mỗi tiết mỗi mùa tái hiện những vật hậu tương ứng, gọi là “hậu ứng”. Có các thực vật hậu ứng như, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa nở, lúa chín... Có động vật hậu ứng như, côn trùng kêu, chim hót, chim thú săn mồi, hồng nhạn thiên di... Có phi sinh vật hậu ứng như sấm, chớp, cầu vồng, mưa gió, băng đóng, băng tan... Phản ánh những diễn biến thông thường trong một năm và cho thấy một đời sống thuận ứng tự nhiên hài hoà, trôi chảy, cho thấy vạn vật bình đẳng, tự nhiên phô diễn sự sống của mình trong vòng tuần hoàn xuân hạ thu đông miên viễn.

Nguyên Chẩn元稹(779-831), tự Vi Chi 微之, quê Lạc Dương, Hà Nam. Ông và nhà thơ Bạch Cư Dị là đồng khoa tiến sĩ, kết làm bạn chí thân, cùng đề xướng phong trào “Tân Nhạc phủ”, được người đời gọi chung là “Nguyên Bạch”. Nguyên Chẩn vốn dòng dõi tôn thất Bắc Nguỵ, cha mất sớm, nhà nghèo, học giỏi, sớm đỗ đạt làm quan. Từng làm đến chức Tể tướng dưới thời vua Đường Mục Tông, sau bị giáng chức, điều làm quan bên ngoài.

Nguyên Chẩn lúc hàn vi có vợ là Vi Tùng, nhưng nàng sớm qua đời. Cái chết của nàng để lại dấu ấn sâu đậm trong các tác phẩm của ông.

 

Chú thích trong bài:

*Âm nhạc cổ Trung Quốc đặt ra 12 dấu gọi là luật, gồm sáu luật dương và sáu luật âm, tương ứng với 12 tháng. Bắt đầu là luật dương Hoàng Chung, ứng với tháng 11, quẻ Phục. Tiếp đến là Đại Lữ (tháng 12), Thái Thốc (tháng 1), Giáp Chung (tháng 2), Cô Tẩy (tháng 3), Trọng Lữ (tháng 4), Nhuy Tân (tháng 5), Lâm Chung (tháng 6), Di Tắc (tháng 7), Nam Lữ (tháng 8), Vô Dịch (tháng 9), Ứng Chung (tháng 10).

*Bốn mùa Xuân hạ thu đông còn có tên gọi khác, Thanh Dương (mùa xuân), Chu Minh (mùa hè), Bạch Tàng (mùa thu), Huyền Anh (mùa đông).

 

MÙA XUÂN

1.

立春正月節

春冬移律呂,天地換星霜。

冰泮游魚躍,和風待柳芳。

早梅迎雨水,殘雪怯朝陽。

萬物含新意,同歡聖日長。

 

Lập Xuân (Tháng Giêng)

Xuân Đông di luật lữ,

Thiên địa hoán tinh sương.

Băng phán du ngư dược,

Hoà phong đãi liễu phương.

Tảo mai nghênh vũ thủy,

Tàn tuyết khiếp triêu dương.

Vạn vật hàm tân ý,

Đồng hoan thánh nhật trường.

 

dịch thơ:

Đông xuân âm giai chuyển,

Đất trời năm mới sang.

Băng tan đàn cá lượn,

Liễu tơ bay gió hiền.

 

Mai hé mong mưa nhuận,

Tuyết tàn ghê nắng lên.

Khắp nơi ngời xuân ý,

Vui chung ngày thánh minh.

 

*Lập Xuân: Sơ hậu, đông phong giải đống. Nhị hậu, trập trùng thủy chấn. Tam hậu, ngư trắc phụ băng. (Hậu thứ nhất, gió đông thổi, băng giá tan. Hậu thứ hai, côn trùng thức giấc. Hậu thứ ba, cá lội lên sát mặt băng).

 

2.

雨水正月中

雨水洗春容,平田已見龍。

祭魚盈浦嶼,歸雁過山峰。

雲色輕還重,風光淡又濃。

向春入二月,花色影重重。

 

Vũ thuỷ (tháng Giêng)

Vũ thủy tẩy xuân dung,

Bình điền dĩ kiến long.

Tế ngư doanh phố tự,

Quy nhạn quá sơn phong.

Vân sắc khinh hoàn trọng,

Phong quang đạm hựu nùng.

Hướng xuân nhập nhị nguyệt,

Hoa sắc ảnh trùng trùng.

 

dịch thơ:

Gương xuân mưa tắm gội,

Rồng thiêng hiện ngoài đồng.

Cá cúng quanh bờ nước,

Nhạn về qua đầu non.

 

Mây thoắt cơn sáng tối,

Đậm nhạt cảnh liền thay.

Sắp sang đến tháng Hai,

Điệp trùng hoa nở rộ.

 

*”Bình điền dĩ kiến long”. Người Trung Quốc cổ đại phân 28 chòm sao (Nhị thập bát tú) trên bầu trời theo bốn phương vị, bao gồm Đông phương Thanh Long, Tây phương Bạch Hổ, Bắc phương Huyền Vũ, Nam phương Chu Tước. Đông phương Thanh Long, tức rồng xanh ở phương Nam. Hằng năm vào mùa Xuân, chòm sao Thanh Long mọc lên bên trên mặt ruộng bằng phẳng, tức “kiến long tại điền” (thấy rồng ngoài ruộng).

*Vũ thủy: Sơ hậu, thát tế ngư. Nhị hậu, hậu nhạn Bắc. Tam hậu, thảo mộc manh động. (Hậu thứ nhất, rái rá bắt mồi, ăn không hết bỏ lại quanh bờ, nhìn như cúng tế. Hậu thứ hai, hồng nhạn thiên di về phương Bắc. Hậu thứ ba, cây cối đâm chồi nảy lộc).

 

3.

驚蟄二月節

陽氣初驚蟄,韶光大地周。

桃花開蜀錦,鷹老化春鳩。

時候爭催迫,萌芽互矩修。

人間務生事,耕種滿田疇。

 

Kinh Trập (Tháng Hai)

Dương khí sơ kinh trập,

Thiều quang đại địa chu.

Đào hoa khai Thục cẩm,

Ưng lão hoá xuân cưu.

Thời hậu tranh thôi bách,

Manh nha hỗ củ tu.

Nhân gian vụ sinh sự,

Canh chủng mãn điền trù.

 

dịch thơ:

Kinh trập ấm dương khí,

Đất đai ánh xuân hoà.

Đào tươi như gấm Thục,

Chim cưu vốn ưng già.

 

Thời tiết như giục giã,

Mầm non vượt trổ ra.

Nhà nông vào vụ mới,

Cày cấy khắp đồng xa.

 

*Kinh trập: Sơ hậu, đào thủy hoa. Nhị hậu, thương canh minh. Tam hậu, ưng hoá vi cưu.(Hậu thứ nhất, hoa đào nở. Hậu thứ hai, chim hoàng oanh hót. Hậu thứ ba, chim ưng hoá thành chim cưu). Nói chim ưng hoá thành chim cưu, kỳ thực là lúc này chim ưng đã vắng bóng trên bầu trời, thay vào đó, chim cưu xuất hiện ở mọi nơi.

 

4.

春分二月中

二氣莫交爭,春分雨處行。

雨來看電影,雲過聽雷聲。

山色連天碧,林花向日明。

梁間玄鳥語,欲似解人情。

 

Xuân Phân (Tháng Hai)

Nhị khí mạc giao tranh,

Xuân phân vũ xứ hành.

Vũ lai khan điện ảnh,

Vân quá thính lôi thanh.

Sơn sắc liên thiên bích,

Lâm hoa hướng nhật minh.

Lương gian huyền điểu ngữ,

Dục tự giải nhân tình.

 

dịch thơ:

Ấm lạnh thôi tranh thắng,

Xuân phân mưa khắp miền.

Dưới mưa xem chớp nháng,

Mây mù nghe sấm vang.

 

Núi xanh liền trời biếc,

Hoa nắng trải trên ngàn.

Xà ngang đàn chim én,

Những hiểu tình thế gian.

 

*Xuân phân: Sơ hậu, huyền điểu chí. Nhị hậu, lôi nãi phát thanh. Tam hậu, thủy điện. (Hậu thứ nhất, chim én bay đến. Hậu thứ hai, bắt đầu có sấm. Hậu thứ ba, bắt đầu có chớp).

 

5.

清明三月節

清明來向晚,山淥正光華。

楊柳先飛絮,梧桐續放花。

鴽聲知化鼠,虹影指天涯。

已識風雲意,寧愁雨谷賒。

 

Thanh Minh (Tháng Ba)

Thanh minh lai hướng vãn,

Sơn lục chính quang hoa.

Dương liễu tiên phi nhứ,

Ngô đồng tục phóng hoa.

Như thanh tri hoá thử,

Hồng ảnh chỉ thiên nhai.

Dĩ thức phong vân ý,

Ninh sầu vũ cốc xa.

 

dịch thơ:

Thanh minh khi chiều xuống,

Lấp lánh dòng suối trong.

Hoa liễu tuôn mờ xoá,

Ngô đồng phô trắng ngần.

 

Chuột hoá ra chim cút,

Cầu vồng ngỏ đường mây.

Đã tỏ lòng trời đất,

Còn lo chi mưa chầy?

 

*Thanh minh: Sơ hậu, đồng thủy hoa. Nhị hậu, điền thử hoá vi như. Tam hậu, hồng thủy kiến. (Hậu thứ nhất, ngô đồng ra hoa. Hậu thứ hai, chuột đồng hoá thành chim cút, ý nói chuột đồng kị nóng trốn vào hang, còn chim cút xuất hiện. Hậu thứ ba, cầu vồng bắt đầu xuất hiện).

 

6.

穀雨

穀雨春光曉,山川黛色青。

葉間鳴戴勝,澤水長浮萍。

暖屋生蠶蟻,喧風引麥葶。

鳴鳩徒拂羽,信矣不堪聽。

 

Cốc Vũ (Tháng Ba)

Cốc vũ xuân quang hiểu,

Sơn xuyên đại sắc thanh.

Diệp gian minh đới thắng,

Trạch thủy trưởng phù bình.

Noãn ốc sinh tàm nghĩ,

Huyên phong dẫn mạch đình.

Minh cưu đồ phất vũ,

Tín hĩ bất kham thinh.

 

dịch thơ:

Cốc vũ trong ngày rạng,

Vóc ngọc xanh mơ màng.

Đầu rìu kêu tán rậm,

Sóng sông trẩy lục bình.

 

Buồng ấm tằm mới nở,

Lúa tốt đùa gió nam.

Chải lông chim ngói lẻ,

Tiếng kêu nghe không đành.

 

*Cốc vũ: sơ hậu, bình thủy sinh. Nhị hậu, minh cưu phất kỳ vũ. Tam hậu, đới thắng giáng vu tang. (Hậu thứ nhất, lục bình sinh sôi. Hậu thứ hai, chim cưu hoặc gọi là chim ngói, bồ câu... chải lông, tìm bạn kết đôi, bước vào mùa sinh sản. Hậu thứ ba, đới thắng còn gọi là chim đầu rìu đáp xuống ruộng dâu).

 

MÙA HẠ

7.

立夏四月節

欲知春與夏,仲呂啟朱明。

蚯蚓誰教出,王菰自合生。

簾蠶呈繭樣,林鳥哺雛聲。

漸覺雲峰好,徐徐帶雨行。

 

Tiết Lập Hạ (Tháng Tư)

Dục tri xuân dữ hạ,

Trọng Lữ khải Chu Minh.

Khưu dẫn thuỳ giáo xuất,

Vương cô tự hợp sinh.

Liêm tàm trình kiển dạng,

Lâm điểu bộ sồ thanh.

Tiệm giác vân phong hảo,

Từ từ đới vũ hành.

 

dịch thơ:

Muốn định phân xuân hạ,

Tháng Tư chính sang hè.

Ai gọi giun đất dậy,

Dưa tự mình leo dây.

 

Trên nong, tằm ủ kén,

Chim non rộn bón mồi.

Mây núi trông đẹp thế,

Đâu ngờ làm mưa rơi.

 

*Trọng Lữ, một trong 12 âm luật, ứng với tháng Tư.

*Chu Minh, tên khác của thần lửa Chúc Dung, chỉ mùa hè.

*Lập hạ: Sơ hậu, lâu quắc minh. Nhị hậu, khưu dẫn xuất. Tam hậu, vương qua sinh. (Hậu thứ nhất, ếch nhái kêu. Hậu thứ hai, giun đất bò lên. Hậu thứ ba, vương qua mọc). Vương qua, một loại dưa, vỏ màu đỏ, dùng làm thuốc.

 

8.

小滿四月中

小滿氣全時,如何靡草衰。

田家私黍稷,方伯問蠶絲。

杏麥修鐮釤,錋欔竪棘籬。

向來看苦菜,獨秀也何為?

Tiểu mãn (tháng Tư)

Tiểu mãn khí toàn thì,

Như hà mĩ thảo suy.

Điền gia tư thử tắc,

Phương bá vấn tàm ti.

Hạnh mạch tu liêm sám,

Bằng cừ thụ cức li.

Hướng lai khan khổ thái,

Độc tú dã hà vi.

 

dịch thơ:

Tiểu mãn khí dương thịnh,

Cỏ mĩ hà cớ suy?

Nhà nông thăm lúa ruộng,

Quan hỏi mùa tằm tơ.

 

Lúa vàng lo liềm hái,

Cào rơm dựng bên rào.

Xem chỉ loài cải đắng,

Tốt tươi hơn mọi khi.

 

*Tiểu mãn: Sơ hậu, khổ thái tú. Nhị hậu, mĩ thảo tử. Tam hậu, mạch thu chí. (Hậu thứ nhất, khổ thái xanh tốt. Hậu thứ hai, cỏ mĩ chết vì không thích ứng với dương khí mùa hè. Hậu thứ ba, lúa mạch chín).

 

9.

芒種五月節

芒種看今日,螳螂應節生。

彤雲高下影,鴳鳥往來聲。

淥沼蓮花放,炎風暑雨情。

相逢問蠶麥,幸得稱人情。

 

Mang Chủng (Tháng Năm)

Mang chủng khan kim nhật,

Đường lang ứng tiết sinh.

Đồng vân cao hạ ảnh,

Yến điểu vãng lai thanh.

Lục chiểu liên hoa phóng,

Viêm phong thử vũ tình.

Tương phùng vấn tàm mạch,

Hạnh đắc xưng nhân tình.

 

dịch thơ:

Mang chủng mừng tiết mới,

Bọ ngựa bèn sinh sôi.

Mây bén lửa tản trôi,

Quyết nơi nơi đồng vọng.

 

Trong hồ sen ngào ngạt,

Mưa rào thêm hơi nồng.

Lúa dâu đầu câu chuyện,

Hỏi han cùng xóm thôn.

 

*Mang chủng: Sơ hậu đường lang sinh. Nhị hậu quyết thủy minh. Tam hậu phản thiệt vô thanh. (Hậu thứ nhất bọ ngựa sinh. Hậu thứ hai chim quyết hót. Hậu thứ ba chim nhại im tiếng). “Yến điểu” 鷃鳥 trong nguyên tác, có lẽ tác giả muốn chỉ hiện tượng chim quyết kêu.

 

10.

夏至五月中

處處聞蟬響,須知五月中。

龍潛淥水穴,火助太陽宮。

過雨頻飛電,行雲屢帶虹。

蕤賓移去後,二氣各西東。

 

Hạ Chí (Tháng Năm)

Xứ xứ văn thiền hưởng,

Tu tri ngũ nguyệt trung.

Long tiềm lục thủy huyệt,

Hoả trợ thái dương cung.

Quá vũ tần phi điện,

Hành vân lũ đới hồng.

Nhuy Tân di khứ hậu,

Nhị khí các tây đông.

 

dịch thơ:

Tứ phía ve kêu nhộn,

Tự nhủ lòng tháng Năm,

Hang nước rồng trốn biệt,

Nhà trời thiêu lửa hồng.

 

Mưa tuôn sấm sét giáng,

Mây cuốn cầu vồng giăng.

Nhuy Tân đi ngày một,

Khí âm ngày một sinh.

 

*Nhuy Tân, một trong 12 âm luật, ứng với tháng Năm.

*Hạ chí: Sơ hậu, lộc giác giải. Nhị hậu, điêu thủy minh. Tam hậu, bán hạ sinh. (Hậu thứ nhất, sừng hươu rụng, do cảm ứng với âm khí. Hậu thứ hai, về sầu kêu. Hậu thứ ba, bán hạ mọc). Bán hạ, tên một loại cỏ thuốc.

 

11.

小暑六月節

倏忽溫風至,因循小暑來。

竹喧先覺雨,山暗已聞雷。

戶牖深青靄,階庭長綠苔。

鷹鸇新習學,蟋蟀莫相催。

 

Tiểu Thử (Tháng Sáu)

Thúc hốt ôn phong chí,

Nhân tuần tiểu thử lai.

Trúc huyên tiên giác vũ,

Sơn ám dĩ văn lôi.

Hộ dũ thâm thanh ái,

Giai đình trưởng lục đài.

Ưng chiên tân tập học,

Tất xuất mạc tương thôi.

 

dịch thơ:

Gió thổi toàn hơi nóng,

Tiểu thử đà đến nơi.

Xem trúc đoán mưa rơi,

Sấm rền ngoài núi tối.

 

Sân thềm rêu mọc dại,

Khói mưa lồng chấn song.

Diều ưng thoảng bầu không,

Dế kêu lòng bấn bách.

 

*Tiểu thử: Sơ hậu, ôn phong chí. Nhị hậu, tất xuất cư bích. Tam hậu, ưng thủy chí. (Hậu thứ nhất, gió nóng thổi tới. Hậu thứ hai, dế trú dưới chân tường. Hậu thứ ba, chim ưng tập săn bắt).

 

12.

大暑六月中

大暑三秋近,林鐘九夏移。

桂輪開子夜,螢火照空時。

菰果邀儒客,菰蒲長墨池。

絳紗渾卷上,經史待風吹。

 

Đại Thử (Tháng Sáu)

Đại thử tam thu cận,

Lâm Chung cửu hạ di.

Quế luân khai Tí dạ,

Huỳnh hỏa chiếu không thì.

Cô quả yêu Nho khách,

Cô bồ trưởng mặc trì.

Giáng sa hồn quyển thượng,

Kinh sử đãi phong xuy.

 

dịch thơ:

Đại thử giáp mùa thu,

Lâm Chung đưa mùa hạ.

Cung quế tỏ màn trời,

Đóm lập loà chiếu đất.

 

Gạo Cô mời đãi khách,

Cỏ Bồ xanh đầy ao.

Ngày dài rèm vén suốt,

Kinh sử đợi ai nào?

 

*Lâm Chung, một trong 12 âm luật, chỉ tháng Sáu.

*Đại thử: Sơ hậu, hủ thảo vi huỳnh. Nhị hậu, thổ nhuận nhục thử. Tam hậu, đại vũ hành thời. (Hậu thứ nhất, cỏ mục sinh đom đóm. Hậu thứ hai, mặt đất nóng nực ẩm thấp. Hậu thứ ba, hay có mưa lớn).

 

MÙA THU

 

13.

立秋七月節

不期朱夏盡,涼吹暗迎秋。

天漢成橋鵲,星娥會玉樓。

寒聲喧耳外,白露滴林頭。

一葉驚心緒,如何得不愁。

 

Lập Thu (Tháng Bảy)

Bất kỳ chu hạ tận,

Lương xuý ám nghênh thu.

Thiên Hán thành kiều thước,

Tinh nga hội ngọc lâu.

Hàn thanh huyên nhĩ ngoại,

Bạch lộ trích lâm đầu.

Nhất diệp kinh tâm tự,

Hà như đắc bất sầu.

 

dịch thơ:

Thấm thoát tàn mùa hạ,

Gió mát thu đến rồi.

Cầu tiên đà bắc nhịp,

Đưa người tiên sang chơi.

 

Ve sầu kêu gắng gỏi,

Rừng sớm ngàn sương rơi.

Chiếc lá đầu kinh động,

Mảnh hồn thu rã rời.

 

*Lập thu: Sơ hậu, lương phong chí. Nhị hậu, bạch lộ giáng. Tam hậu, hàn thiền minh. (Hậu thứ nhất, gió mát thổi. Hậu thứ hai, có sương sớm. Hậu thứ ba, về sầu kêu). Hàn thiền, một loại ve sầu nhỏ, thường kêu vào tiết thu lạnh.

 

14.

處暑七月中

向來鷹祭鳥,漸覺白藏深。

葉下空驚吹,天高不見心。

氣收禾黍熟,風靜草蟲吟。

緩酌樽中酒,容調膝上琴。

 

Xử Thử (Tháng Bảy)

Hướng lai ưng tế điểu,

Tiệm giác Bạch Tàng thâm.

Diệp há không kinh xuý,

Thiên cao bất kiến tâm.

Khí thu hoà thử thục,

Phong tĩnh thảo trùng ngâm.

Hoãn chước tôn trung tửu

Dung điều tất thượng cầm.

 

dịch thơ:

Mùa chim ưng săn bắt,

Đồng bãi oà khí thu.

Lá cây e niềm gió,

Trời xanh sao vô tình.

 

Nắng hanh lúa mau chín,

Gió se lời dế giun.

Rượu rót vừa lưng chén,

Lặng so mấy dây huyền.

 

*Bạch Tàng 白藏, chỉ mùa thu.

*Xử thử: Sơ hậu, ưng nãi tế điểu. Nhị hậu, thiên địa thủy túc. Tam hậu, hoà nãi đăng. (Hậu thứ nhất, chim ưng bắt mồi. Hậu thứ hai, đất trời thanh tĩnh, se sắt. Hậu thứ ba, lúa chín).

 

15.

白露

露沾蔬草白,天氣轉青高。

葉下和秋吹,驚看兩鬢毛。

養羞因野鳥,為客訝蓬蒿。

火急收田種,晨昏莫辭勞。

 

Bạch Lộ (Tháng Tám)

Lộ triêm sơ thảo bạch,

Thiên khí chuyển thanh cao.

Diệp há hoà thu xuý,

Kinh khan lưỡng mấn mao.

Dưỡng tu nhân dã điểu,

Vi khách ngạc bồng hao.

Hỏa cấp thu điền chủng,

Thần hôn mạc từ lao.

 

dịch thơ:

Rau cỏ đầm sương trắng,

Trời quang toàn mây xanh.

Gió reo hoà lá rụng,

Tóc mai thưa bạc dần.

 

Chim siêng lo ngày đói,

Khách vụng mặc bồng bay.

Kíp mau tay liềm hái,

Mùa màng đâu mấy ngày.

 

*Cỏ bồng hao chết khô vào mùa thu, cuốn bay theo gió.

*Bạch lộ: Sơ hậu, hồng nhạn lai. Nhị hậu, huyền điểu quy. Tam hậu, quần điểu dưỡng tu. (Hậu thứ nhất, hồng nhạn thiên di xuống phương Nam. Hậu thứ hai, chim én bay đi. Hậu thứ ba, chim muông tích trữ thức ăn, chuẩn bị cho mùa đông).

 

16.

秋分

琴彈南呂調,風色已高清。

雲散飄颻影,雷收振怒聲。

乾坤能靜肅,寒暑喜均平。

忽見新來雁,人心敢不驚?

 

Thu Phân (Tháng Tám)

Cầm đàn Nam Lữ điệu,

Phong sắc dĩ cao thanh.

Vân tán phiêu diêu ảnh,

Lôi thu chấn nộ thanh.

Càn khôn năng tĩnh túc,

Hàn thử hỉ quân bình.

Hốt kiến tân lai nhạn,

Nhân tâm cảm bất kinh?

 

dịch thơ:

Đàn sang bài Nam Lữ,

Vi vút gió cao vời.

Áo trời mây mỏng mảnh,

Sấm nhà trời im hơi.

 

Bốn phương bình tĩnh lạ,

Ấm lạnh cũng thuận hoà.

Ai điềm nhiên vững dạ,

Nhạn đầu mùa bay qua?

 

*Nam Lữ, 1 trong 12 âm luật, chỉ tháng Tám.

*Thu phân: Sơ hậu, lôi thủy thu thanh. Nhị hậu, trập trùng bôi hộ. Tam hậu, thủy thủy hạc. (Hậu thứ nhất, sấm im tiếng. Hậu thứ hai, côn trùng đào lỗ chuẩn bị ngủ đông. Hậu thứ ba, nước bắt đầu khô cạn).

 

17.

寒露九月節

寒露驚秋晚,朝看菊漸黃。

千家風掃葉,萬里雁隨陽。

化蛤悲群鳥,收田畏早霜。

因知松柏志,冬夏色蒼蒼。

 

Hàn Lộ (Tháng Chín)

Hàn lộ kinh thu vãn,

Triêu khan cúc tiệm hoàng.

Thiên gia phong tảo diệp,

Vạn lý nhạn tuỳ dương.

Hoá cáp bi quần điểu,

Thu điền uý tảo sương.

Nhân tri tùng bách chí,

Đông hạ sắc thương thương.

 

dịch thơ:

Hàn lộ thu sắp muộn,

Hoa cúc sắc phô vàng.

Gió quê đùa lá rụng,

Nhạn phương trời bay ngang.

 

Hoá sò, chim đồng vắng,

Mùa màng lo sương hàn.

Sánh sao cùng tùng bách,

Hồn bốn mùa kiên trinh.

 

*Hàn lộ: Sơ hậu, hồng nhạn lai tân. Nhị hậu, tước nhập đại thủy vi cáp. Tam hậu, cúc hữu hoàng hoa. (Hậu thứ nhất, hồng nhạn cuối mùa di cư. Hậu thứ hai, chim sẻ xuống nước hoá thành con sò. Hậu thứ ba, hoa cúc nở). Dựa trên quan sát sự tương đồng giữa màu lông chim sẻ với vân trên vỏ sò mà có cách nói đó, đồng thời diễn tả sự luân chuyển của các động vật hậu ứng. Cũng như ở dưới, nói chim trĩ (gà lôi) xuống nước hóa thành con trai.

 

18.

霜降九月中

風卷清雲盡,空天萬里霜。

野豺先祭月,仙菊遇重陽。

秋色悲疏木,鴻鳴憶故鄉。

誰知一樽酒,能使百秋亡。

 

Sương Giáng (Tháng Chín)

Phong quyển thanh vân tận,

Không thiên vạn lý sương.

Dã sài tiên tế nguyệt,

Tiên cúc ngộ trùng dương.

Thu sắc bi sơ mộc

Hồng minh ức cố hương.

Thuỳ tri nhất tôn tửu,

Năng sử bách thu vong.

 

dịch thơ:

Gió bạt mây cao tít,

Đất thảm sương phủ dày.

Sói đồng hoang bóng nguyệt,

Trùng dương cúc lạnh vầy.

 

Ý thu cây trút lá,

Tiếng hồng vọng tình quê.

Góc trời nhờ chung rượu,

Hòng khuây niềm ủ ê.

 

*Sương giáng, Sơ hậu, sài mãi tế thú. Nhị hậu, thảo mộc hoàng lạc. Tam hậu, trập trùng hàm phủ. (Hậu thứ nhất, sói săn mồi. Hậu thứ hai, lá vàng rụng. Hậu thứ ba, côn trùng ẩn náu).

 

 

MÙA ĐÔNG

 

19.

立冬十月節

霜降向人寒,輕冰淥水漫。

蟾將纖影出,雁帶幾行殘。

田種收藏了,衣裘製造看。

野雞投水日,化蜃不將難。

 

Lập Đông (Tháng Mười)

Sương giáng hướng nhân hàn,

Khinh băng lục thủy mạn.

Thiềm tương tiêm ảnh xuất,

Nhạn đới kỷ hàng tàn.

Điền chủng thu tàng liễu,

Y cừu chế tạo khan.

Dã kê đầu thủy nhật,

Hoá thận bất tương nan.

 

dịch thơ:

Trở lạnh từ Sương giáng,

Mặt ao hồ váng băng.

Trăng gầy như chỉ lụa,

Nhạn lưa thưa cuối mùa.

 

Lúa trong bồ còn ấm,

Áo cừu may vừa xong.

Gà lôi trốn xuống nước,

Hoá sò trên bãi ròng.

 

*Lập đông: Sơ hậu, thủy thủy băng. Nhị hậu, địa thủy đống. Tam hậu, trĩ nhập đại thủy vi thận. (Hậu thứ nhất, nước bắt đầu đóng băng. Hậu thứ hai, đất đai băng giá. Hậu thứ ba, chim trĩ xuống nước hoá thành con trai, một loài sò lớn).

 

20.

小雪十月中

莫怪虹無影,如今小雪時。

陰陽依上下,寒暑喜分離。

滿月光天漢,長風響樹枝。

橫琴對淥醑,猶自斂愁眉。

 

Tiểu Tuyết (Tháng Mười)

Mạc quái hồng vô ảnh,

Như kim tiểu tuyết thì.

Âm dương y thượng hạ,

Hàn thử hỉ phân ly.

Mãn nguyệt quang thiên Hán,

Trường phong hưởng thụ chi.

Hoành cầm đối lục tữ,

Do tự kiểm sầu mi.

 

dịch thơ:

Mống trời vô tăm tích,

Thế trần Tiểu tuyết sa.

Âm dương lìa hai ngả,

Hàn ôn sầu cách xa.

 

Trăng rằm cao vằng vặc,

Ngọn bấc dài lê thê.

Nào những đàn với rượu,

Hồn đơn vẫn não nề.

 

*Tiểu tuyết: Sơ hậu, hồng tàng bất kiến. Nhị hậu, thiên khí thượng thăng, địa khí hạ giáng. Tam hậu, bế tắc nhi thành đông. (Hậu thứ nhất, cầu vồng ẩn mất. Hậu thứ hai, khí trời lên, khí đất xuống. Hậu thứ ba, âm dương bế tắc, trời đất vào đông).

 

21.

大雪十一月節

積陰成大雪,看處亂霏霏。

玉管鳴寒夜,披書曉絳帷。

黃鐘隨氣改,鴳鳥不鳴時。

何限蒼生類,依依惜暮暉。

 

Đại Tuyết (Tháng Một)

Tích âm thành đại tuyết,

Khan xứ loạn phi phi.

Ngọc quản minh hàn dạ,

Phi thư hiểu giáng duy.

Hoàng Chung tuỳ khí cải,

Yến điểu bất minh thì.

Hà hạn thương sinh loại,

Y y tích mộ huy.

 

dịch thơ:

Tiết âm hàn mưa tuyết,

Phất phới mịt mù bay.

Tiếng sáo vang đêm lạnh,

Phòng văn đèn sách say.

 

Hoàng Chung khí chuyển luân,

Bặt âm hao chim hạt,

Muôn loài đều như một,

Ngẩn ngơ tiếc ánh chiều.

 

*Hoàng Chung, một trong 12 âm luật, tương ứng với tháng 11.

*Đại tuyết: Sơ hậu, hạt đán bất minh. Nhị hậu, hổ thủy giao. Tam hậu, lệ đĩnh xuất. (Hậu thứ nhất, chim hạt thôi hót. Hậu thứ hai, hổ vào mùa sinh sản. Hậu thứ ba, cỏ lệ mọc).

 

22.

冬至十一月中

二氣俱生處,周家正立年。

歲星瞻北極,舜日照南天。

拜慶朝金殿,歡娛列綺筵。

萬邦歌有道,誰敢動征邊?

 

Đông Chí (Tháng Một)

Nhị khí câu sinh xứ,

Chu gia chính lập niên.

Tuế tinh chiêm Bắc cực,

Thuấn nhật chiếu Nam thiên.

Bái khánh triều kim điện,

Hoan ngu liệt ỷ diên.

Vạn bang ca hữu đạo,

Thuỳ cảm động chinh biên?

 

dịch thơ:

Tiết dương khí sơ sinh,

Nhà Chu khai lịch mới.

Bắc cực rạng Tuế tinh,

Trời Nam hồng vầng nhật.

 

Sân chầu dâng bài chúc,

Ngàn dặm tiệc sum vầy.

Bốn bể ca chính đạo,

Khỏi nhọc bề binh đao.

 

*Vào thời nhà Chu, năm mới bắt đầu từ tiết Lập đông. Cũng chính là lúc dương khí phát sinh.

*Tuế tinh còn gọi là sao Thái Tuế, tức sao Mộc.

*Đông chí: Sơ hậu, khưu dẫn kết. Nhị hậu, mi giác giải. Tam hậu, thủy tuyền động. (Hậu thứ nhất, giun đất co quắp đông cứng. Hậu thứ hai, sừng nai rụng do cảm ứng với dương khí. Hậu thứ ba, dòng suối chuyển động).

 

23.

小寒十二月節

小寒連大呂,歡鵲壘新巢。

拾食尋河曲,銜紫繞樹梢。

霜鷹近北首,雊雉隱叢茅。

莫怪嚴凝切,春冬正月交。

 

Tiểu Hàn (Tháng Chạp)

Tiểu hàn liên Đại Lữ,

Hoan thước lũy tân sào.

Thập thực tầm hà khúc,

Hàm tử nhiễu thụ sao.

Sương ưng cận Bắc đạo,

Cẩu trĩ ẩn tùng mao.

Mạc quái nghiêm ngưng thiết,

Xuân đông chính nguyệt giao.

 

dịch thơ:

Tiểu hàn liền Đại Lữ,

Chim khách bận xây nhà,

Mồi kiếm quanh dòng nước,

Cỏ ngậm vòng ngọn cây.

 

Nhạn sớm về phương Bắc,

Bờ bụi cưu gọi bầy.

Chớ hiềm cơn cóng lạnh,

Tháng Giêng gần đến nơi.

 

*Đại Lữ, 1 trong 12 âm luật, tương ứng tháng 12.

*Tiểu hàn: “Sơ hậu, nhạn Bắc hương. Nhị hậu, thước thủy sào. Tam hậu, trĩ thủy cẩu”. (Hậu thứ nhất chim nhạn quay về phương Bắc. Hậu thứ nhì chim khách xây tổ. Hậu thứ ba chim trĩ kêu). “Sương ưng” 霜鷹 mà tác giả nói trong bài thực ra là chim nhạn, do cảm dương khí phát sinh mà thiên di về phương bắc. 

 

24.

大寒十二月中

臘酒自盈樽,金爐獸炭溫。

大寒宜近火,無事莫開門。

冬與春交替,星周月詎存?

明朝換新律,梅柳待陽春。

 

Đại Hàn (Tháng Chạp)

Lạp tửu tự doanh tôn,

Kim lô thú thán ôn.

Đại hàn nghi cận hỏa,

Vô sự mạc khai môn.

Đông dữ xuân giao thế,

Tinh chu nguyệt cự tồn?

Minh triêu hoán tân luật,

Mai liễu đãi dương xuân.

 

dịch thơ:

Rót đầy ly tháng Chạp,

Châm thêm ngọn lửa lò.

Đại hàn bên bếp sưởi,

Đi đâu ngày rét to?

 

Đông rồi Xuân đắp đổi,

Sao dời năm tháng trôi.

Một sớm âm vận đổi,

Mai liễu báo Xuân ngời.

 

*Đại Hàn: Sơ hậu, kê nhũ. Nhị hậu, chinh điểu lệ tật. Tam hậu, thủy trạch phúc kiên. (Hậu thứ nhất, gà ấp trứng. Hậu thứ hai, chim cắt hung mãnh bắt mồi. Hậu thứ ba, băng giá cứng chắc).

 

 

Nguyên Chẩn

 

Nguyễn Thị Hải dịch

 

10/2020