LỰC HỒNG (1958 - 2010)

và bài thơ

Tự Do Đại Bi Chú

 

 

Nguyễn Thị Hải

dịch và giới thiệu

 

 

 

 

Lực Hồng力虹 (sinh ngày 6.3.1958, mất ngày 31.12.2010), tên thật là Trương Kiến Hồng 张建红, quê quán Chiết Giang, Trung Quốc.

 

Ông là nhà thơ, kịch tác gia, nhà đấu tranh dân chủ nổi bật của Trung Quốc. Tháng 9 năm 2006, ông bị bắt và sau đó bị ṭa án thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang kết án 6 năm tù với tội danh  “Kích động lật đổ chính quyền quốc gia.”  Ở trong tù, Lực Hồng bị bệnh bại liệt, hai tay co rút mất công năng hoạt động, lan truyền xuống hai chân. Ông được chẩn bệnh vào tháng 5 năm 2007, nhưng măi đến đầu tháng 6 năm 2010, khi bệnh t́nh trầm trọng không nói được và không thể tự hô hấp, phải dùng máy thở và truyền dịch để duy tŕ sự sống, ông mới được cho tại ngoại chữa trị, nhưng ông đă không qua khỏi.

 

Nhân cái chết của Lưu Hiểu Ba mới đây, người dịch liên tưởng đến Lực Hồng tiên sinh.

 

Xin giới thiệu một số bài thơ của ông, những bài thơ mang âm điệu bi phẫn, nghẹn ngào nhưng tràn đầy hùng khí.

 

Bài thơ Tự do đại bi chú là một trong tám tác phẩm bị coi là tội chứng mà nhà đương cục kết tội Lực Hồng tiên sinh. (Nguyễn Thị Hải)

 

 

 

đoản kiếm

 

Dưới Sơn Hải Quan, thanh đoản kiếm đă khóc ṛng ră bao năm

Trong vỏ kiếm

Trong gió cuồng ca

Trong cốt xương tàn của đoàn hùng binh Kế trấn thuở xưa

 

Du khách như nêm, tiếng rao hàng như trống

Rút kiếm khỏi vỏ

Linh khí vô h́nh giải thoát

Ánh chiếu vào bức tường thành ẩm thấp loang lổ, biến thành tia mắt

Thích Kế Quang ở đâu? Ngô Tam Quế ở đâu?

Vạn lư trường thành sạt vỡ

Mười tám chuyến tàu cao tốc lướt qua như kiếm ảnh

 

Kiếm không có thật. Chúng ta sống trong thời đại hạt nhân

Hàng quán chỉ bày bán súng đồ chơi và kiếm nhựa

Kiếm là Trần Thắng, là Spartacus

Là truyện tranh, là tiểu thuyết Kim Dung

Là truyện cổ tích trong xă hội cơ khí

Kiếm xưa nay là biểu tượng:

Hư vô của triết học Đông phương

Như lúc này, chúng ta leo lên thiên hạ đệ nhất quan

Tấm linh hồn mang mang bàng bạc

Ngẫm trời đất vô cùng

Trăm ngàn thân h́nh không đầu lên lên xuống xuống, chỉ chỉ trỏ trỏ

Trên cổ đứt, vết kiếm như c̣n

Mặt đất máu vẫn chảy, dân chúng th́ lạnh lùng

Ở nơi đây thời gian ngưng kết thành thi ca bồ đào và mỹ lệ

 

Dưới Sơn Hải Quan ngẫu đắc thanh đoản kiếm

Qua trạm xe, xé tờ lịch tŕnh quấn lại vội vă

Cảm thấy trong huyết mạch, Yên Sơn trập trùng

Mảnh sắt thét gào không nguôi

Đoản kiếm, đoản kiếm, ta sẽ măi măi lắng nghe tiếng mi đang khóc!

 

 

 

tiễn bạn về Tây Tạng

 

Vứt bỏ mọi nỗi bất hạnh như ném đầu thuốc xuống sân ga

Anh đáp chuyến tàu đi về phía Tây

Nh́n anh khi ấy thấm đẫm khí khái đất Yên Triệu

 

Cách ô kính toa tàu, mặt tôi đầm lệ

 

Đi đi, Giang Nam thành nhỏ quá già nua

Hàng phố chật hẹp ḷng người ghẻ lạnh

Bóng dáng cao gầy anh làm sao chịu nổi mùi bia rượu

Đi đi, đến cửa Dương quan phía Tây là gặp lại bạn cũ

Nơi đó thành phố quang đăng, rừng rậm và sông băng mênh mông

Uống bát trà sữa kể như về đến quê nhà,

Qua lễ tắm gội sẽ quên bỏ được người con gái bạc t́nh

Đi đi, nơi đó trời cao hoàng đế xa

 

Từ nay trên nóc nhà thế giới anh nh́n xuống tôi

Phóng ngựa, kết giao bạn bè Tây Tạng, đàm luận, nói cười phóng khoáng

Không đến Tây vực không phải là hảo hán

Từ nay anh gửi gắm linh hồn cho miền cao nguyên giá lạnh, phơi phới vui tươi

 

C̣n tôi trở về gian nhà gỗ nằm sâu nơi ngơ hẻm làm thơ hoặc tưởng nhớ anh

Tóc mọc dài, bụi bặm phủ mờ giá sách

Dưới tầm mắt anh, tôi ngày ngày ngủ rồi thức

Đợi thư anh đến gơ cửa mới chạy ra đứng dưới mặt trời

Cảm nhận sự ấm áp và vẻ tươi sáng của anh

 

Trái tim tôi ở miền cao nguyên

 

 

 

cách sống

 

Ngày hôm nay và ngày hôm qua

Không có ǵ khác biệt

Như mưa ngoài song cửa

Trận mưa lạnh lẽo đầu thế kỷ này

Kéo dài vô tận

 

Gió thu mưa thu sầu thảm

Sầu thảm là bạn quen

Với tôi và anh

Ai ngồi ở long đ́nh

Miễn có cơm ăn mà thôi

Trời mưa cũng đi làm

Không mưa cũng đi làm

Tóm lại đừng quên

Mang theo áo mưa hoặc dù che nắng

 

Hổ tại sơn lâm

Ếch dưới hồ ao

Nữ hiệp luyện kiếm bên hồ vắng

Chúng ta dạy học

Hết giờ về mua miếng đậu

Thích xem Việt kịch

Vào những đêm mưa

Uống vài cốc rượu

Hết đọc Tống từ lại thơ Thu Cận

C̣n cách nào khác

Anh hùng tới giờ đều đă chết

Những kẻ chẳng thể là anh hùng

Sống tiếp âm thầm

Nghe tiếng mưa rơi ngoài song

 

 

 

tự do đại bi chú 

 

Chịu nô dịch, bị chà đạp không phải là định mệnh của chúng ta!

Tổ quốc ta, nhân dân ta

Hai ngàn năm nay, một trăm năm nay, năm mươi bảy năm nay

Đă nhẫn đến không thể nhẫn

 

Thảo mộc sinh linh đều kêu thương

Một tỷ đồng bào gan ruột nát

Một tấc núi sông một tấc lệ

Một tấc tự do một tấc máu

 

Kẻ bóp nghẹt tự do không thể tha

Kẻ chống đối tự do không thể cứu

Kẻ đùa bỡn tự do không thể thứ

Kẻ coi thường tự do không thể chuộc

 

Giấc mơ thế kỷ là hư ảo

Chỉ c̣n lại một tâm đại bi

Nhân quyền cố hữu ai có thể đoạt

Mắt trừng lẽ thật ai có thể diệt

 

Xưa tôi tụng chú, chú tức chân ngôn

Chín mươi chín ức hằng hà sa số chư thần thuyết

Đà La Ni Đế, tổng tŕ pháp môn

Độ tận khổ ách, tâm vô quải ngại

 

Nay tôi phát chú, cầu nguyện đồng bào

Tín thành tụng niệm Bát Nhă Ba La Mật Đa

Diệt trừ hết mọi tội nghiệt, khu trừ đại khổ nạn

Lên thuyền Bát Nhă, sớm đến Niết Bàn

 

Cáo biệt chuyên chế khủng bố

Xoay chuyển điên đảo càn khôn

Tự do hoa khai, thế giới đại đồng

Bây giờ đă đến giây phút sau cùng

 

Nguyện chết cho tự do, không cam làm nô lệ!

Trời đất có bi chú, nhân gian có chân ngôn

Tổ quốc hổ thẹn của tôi ơi, nhân dân nhẫn nhục của tôi ơi

Tất Điện Đô, Mạn Đa La, Bạt Đà Da, Sa Bà Ha...

 

 

nguyên tác:

 

1.

短剑

 山海关下一口短剑哭泣多少年了

在鞘里

在大风歌中

在蓟镇总兵的忠骨之内

 

游人如织,叫卖如鼓

抽剑出鞘之时

一种非物质的东西

早已挣脱而出

射向斑驳阴湿的古城墙,变成目光

戚继光安在?吴三桂安在?

万里长城断裂处

十八次特快列车疾如剑影

 

剑是不真实的。我们生活在核时代

商店只出售玩具手枪和塑料佩剑

剑是陈胜,是斯巴达克斯

是连环画,是金庸小说

是工业社会的一种童话

剑从来都是一个象征:

虚无的东方哲学

正如此刻,我们登上天下第一关

感觉和灵魂深处是白茫茫的一片

念天地之悠悠

千百具无头的躯体上上下下,指指点点

断颈处,剑痕犹在

土地在流血,人民毫无痛感

时光在这里结成葡萄和优美的诗歌

 

山海关下偶得一口短剑

过车站,揭下列车时刻表匆匆裹上

只感到血脉之中,燕山在起伏

一种铁在呼啸不巳

短剑,短剑,我永远倾听你的哭泣!

 

2.

送朋友去西藏

将全部的不幸烟蒂似地扔在站台上
你跨向西去的列车
此刻你沉溺在燕赵气概之中

隔着车厢玻璃我泪流满脸

去吧,江南小城太古老
市井太狭窄人心太冷
啤酒味和瘦长的影子你无法忍受
去吧,西出阳关有故人
那里有日光城,那里有茫茫的冰川和森林
饮过奶茶你如归故里,
度过沐浴节你会忘掉那薄情的女人
去吧,那里天高皇帝远

从此你将在世界屋脊鸟瞰我
纵马,结交藏族朋友,谈论彭斯,开怀狂笑
不到西域非好汉
从此你那不肯安份的灵魂于高寒处快活如春

而我仍将回到小巷深处的木屋写诗或思念你
头发渐长,灰尘落满斑竹书架
在你的鸟瞰下一次次睡着一次次醒来
只有等你的航空信件敲门我才跑到太阳底下
感受你的温暖和光辉

我的心在高原

 

 

 

3.

生活方式

这一天和上一天
没有什么两样
正如窗外的雨
是本世纪初
那场寒雨之延续

秋风秋雨愁杀人
愁杀的是故人
对于你我
管他谁坐龙庭
混口饭吃而已
下雨也上班
不下雨也上班
总之别忘了
带上雨衣或太阳伞

虎在山林
蛙在池中
女侠在鉴湖边练剑
你我是教书的
下班路上买块豆腐
喜好越剧
最多在雨夜
喝二两黄酒
读读宋词和《秋瑾集》
还能怎么样呢
英雄们都在那个时候死了
许多成不了英雄的
活了下来
隔窗听雨声

 

 

 

4.

自由大悲咒

 

受奴役被宰割决非宿命!

我的祖国,我的人民

二千年来,一百年来,五十七年来

已经忍无可忍

 

草木生灵皆悲鸣

十亿同胞肝胆碎

一寸山河一寸泪

一寸自由一寸血

 

扼杀自由之人不可赦

顽抗自由之人不可救

嘲弄自由之人不可恕

漠视自由之人不可赎

 

 

世纪梦想无所凭

唯存一颗大悲心

天赋人权谁能夺

天垂宪眼谁能灭

 

昔我诵咒,咒即真言

以往九十九亿恒河沙数诸神说

陀罗尼谛,总持法门

渡尽苦厄,心无挂碍

 

 

今我发咒,祈愿同胞

诚借般若波罗蜜多无量次念诵

灭除诸罪孽,驱除大苦难

乘上般若船,早登涅槃山

 

 

告别专制恐怖

扭转颠倒乾坤

自由花开,世界大同

现在已到了最后的时刻

 

 

愿殉自由死,终不甘为奴!

天地有悲咒,人间有真言

我的蒙耻的祖国啊,我的忍辱的人民啊

悉殿都、漫多罗、跋陀耶、娑婆诃……

 

2006.4.30.

选者注:这首诗是法院判决书以煽动颠覆国家政权罪判处作者六年徒刑作为罪证的八篇作品之一。

 

 

 

Nguyễn Thị Hải dịch và giới thiệu

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiHai.html

 

 

© gio-o.com 2017