Dư Quang Trung

 

và bài thơ Sầu Hương

 

 

Nguyễn Thị Hải
 

dịch và giới thiệu

 

 

 

 

 

Nhà thơ Quang Trung余光中, sinh năm 1928 tại Nam Kinh, nguyên quán Phúc Kiến. Quê mẹ ở Giang Tô, nên ông luôn tự nhận ḿnh là “người Giang Nam”. Năm 1950, chuyển đến Đài Loan. Ông là nhà thơ tiêu biểu của trường phái thơ hiện đại Đài Loan. Có nhiều tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa ở Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan.

 

Trong cuộc mạn đàm trên mục văn hóa của trang mạng qq.com cuối năm 2013, nhà thơ Quang Trung phát biểu “Bài thơ Sầu Hương dường như đă trở thành tấm danh thiếp quá lớn, che khuất khuôn mặt của tôi. Tôi viết rất nhiều thơ hoàn toàn khác với Sầu hương, nếu độc giả muốn t́m hiểu thơ ca của tôi, xin hăy tạm thời quên bài thơ này đi.”

 

 “Bài thơ Sầu Hương tôi viết từ 40 năm trước. Lúc đó là thời gian cuối cuộc cách mạng văn hóa, tinh thần tôi rất ảm đạm, nghĩ rằng đời này chắc ḿnh không thể trở về đại lục nữa, cho nên viết ra bài Sầu Hương. Cùng lúc tôi c̣n viết nhiều chủ đề khác, nhưng riêng chủ đề Sầu Hương tôi viết khoảng hai ba mươi bài. Về sau ở đại lục tuyển chọn bài thơ vào sách giáo khoa, nhiều người thuộc, thực là quân ít mà lập đại công.”

 

 Nhân đó, ông nói thêm: “Bây giờ phương tiện giao thông phát triển, lại c̣n các loại công cụ liên hệ khác như điện thoại, máy tính, tuy nhiên bạn thử nghĩ, đại lục rộng lớn như vậy, người đến từ Tân Cương chắc chắn cũng có tâm trạng Sầu hương bởi v́ họ không thể về nhà thường xuyên, hay là du học sinh đến Đài Loan học tập, họ cũng có loại Sầu Hương khác của họ. Ở Đài Loan có người cho rằng viết về Sầu Hương rất lăng mạn, dẫu nhà ở ngay Đài Bắc, đi vài giờ là đến, thế nhưng anh ta vẫn muốn nói đến nỗi sầu nhớ quê hương của ḿnh.

 

 Tôi có t́m hiểu về thiên văn học, tương lai nếu như có thể di dân lên mặt trăng, ắt hẳn khi ấy chúng ta sẽ có thêm một loại Sầu Hương nữa. Câu thơ của Lư Bạch chắc phải viết lại là: “Cử đầu vọng địa cầu/ Đê đầu khán minh nguyệt”.

 

 

Dưới đây giới thiệu bốn bài thơ của nhà thơ Dư Quang Trung, dịch từ nguyên văn. (Nguyễn Thị Hải)

 

 

 

sầu hương

 

Ngày thơ

Nỗi sầu hương là con tem nho nhỏ

Tôi ở đầu này

Mẹ ở đầu kia

 

Lớn lên

Nỗi sầu hương là tấm vé tàu mỏng mảnh

Tôi ở đầu này

Người vợ mới cưới ở đầu kia

 

Ngày sau

Nỗi sầu hương là nấm mộ lấp xấp

Tôi ở bên ngoài

Mẹ ở bên trong

 

Giờ đây

Nỗi sầu hương là quăng eo biển rập rờn

Tôi ở đầu này

Đại lục ở đầu kia

 

(21.1.1972)

 

 

bốn vần thơ sầu hương

 

Cho tôi một gáo nước Trường Giang, ơi nước Trường Giang,

Nước Trường Giang như rượu,

Hương vị rượu nồng nàn,

Hương vị nỗi sầu hương,

Cho tôi một gáo nước Trường Giang, ơi nước Trường Giang.

 

Cho tôi một phiến Hải đường hồng, ơi Hải đường hồng,

Hải đường hồng như máu,

Máu trào sôi bỏng cháy,

Nỗi sầu hương bỏng cháy,

Cho tôi một phiến Hải đường hồng, ơi Hải đường hồng

 

Cho tôi một mảnh hoa tuyết trắng, ơi hoa tuyết trắng,

Hoa tuyết trắng tựa lá thư,

Lá thư mà tôi mong đợi,

Nỗi sầu hương mà tôi mong đợi,

Cho tôi một mảnh hoa tuyết trắng, ơi hoa tuyết trắng

 

Cho tôi một đóa Lạp mai thơm, ơi Lạp mai thơm,

Lạp mai thơm như mẹ,

Hương thơm của mẹ,

Hương thơm của quê hương,

Cho tôi một đóa Lạp mai thơm, ơi Lạp mai thơm

 

 

vĩnh hằng

 

Vĩnh hằng

Há chẳng phải là khách dạ hành kinh sợ quỷ ma

Dùng câu khẩu quyết để gia tăng ḷng can đảm

Cơn gió tăm tối thổi tắt ngọn đuốc

Kẻ nào đi về phía trước

Người nào đi lại đằng sau

Thảng hoặc từ xa có tiếng chào hỏi

Gợi nhớ đến một truyền thuyết cảm động

Kể rằng có một ṭa thành không có ban đêm

Muôn hoa bung nhụy phóng chiếu thành ngàn ngọn lửa

Biên giới hốt nhiên ở măi phương xa

Từ trung tâm quảng trường không thể mở trừng con mắt

Nghênh đón luồng khích xạ phóng tới

Con đường ấy, hóa ra là một luồng ánh sáng

 

 

hoàng hôn

 

Nếu như hoàng hôn là một cửa ô vắng vẻ

Ráng chiều chiếu vào cửa Tây

Khách trên yên ngựa tất tả, tại sao

không thấy lúc vào thành, chỉ thấy khi xuất thành?

Nhưng hễ xuất thành là trúng phải mai phục

Ráng chiều thoắt đều biến thành cờ đen

Bèn quay đầu, cửa Tây đă đóng

Mấy phen toan hỏi thử đường viền trên cánh bướm

Chỉ thấy loài dơi chao lượn

Ôi, một ṭa thành hoang phế

 

 

1.



小时候
乡愁是一枚小小的邮票
我在这头
母亲在那头

长大後
乡愁是一张窄窄的船票
我在这头
新娘在那头

後来啊
乡愁是一方矮矮的坟墓
我在外头
母亲在

而现在
乡愁是一湾浅浅的海峡
我在这头
大陆在那头

 

1972.1.21 

 

 

 

2. 乡愁四韵

 

给我一瓢长江水啊长江水,
酒一样的长江水,
醉酒的滋味,
是乡愁的滋味,
给我一瓢长江水啊长江水。
 
给我一张海棠红啊海棠红,
血一样的海棠红,
沸血的烧痛,
是乡愁的烧痛,
给我一张海棠红啊海棠红。
 
给我一片雪花白啊雪花白,
信一样的雪花白,
家信的等待,
是乡愁的等待,
给我一片雪花白啊雪花白。
 
给我一朵腊梅香啊腊梅香,
母亲一样的腊梅香,
母亲的芬芳,
是乡土的芬芳,
给我一朵腊梅香啊腊梅香

 

 

 

3. 所谓永恒


所谓永恒
岂非是怕鬼的夜行人
用来壮胆的一句口令
在吹熄火把的黑风里
向前路的过客
或后路的来人
间或远远打一声招呼
暗传一个动人的传说
说是有一座不夜城
野花绽蕊迸放的千灯
边界一过赫然就在望
从不可逼视的中央广场

迎面激射而来的
那路,原来是一道光

 

 

 

4. 黄昏

 

倘若黄昏是一道寂寞的关
西门关向晚霞的
匆匆的鞍上客啊,为何
不见进关来,只见出关去?
而一出关去就中了埋伏
晚霞一翻全变了黑旗
再回头,西门已闭
————
几度想问问蝶上的边卒
只见蝙蝠在上下扑打着
噢,一座空城

 

 

Dư Quang Trung

 

Nguyễn Thị Hải dịch

 

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiHai.html

 

 

 

© gio-o.com 2017