tranh Lâm Quang Kim Phượng


 

 

Nguyễn Thị Hải

 

chọn trúc

Giản đắc lâm trung tối tế chi

 

Trúc sinh trên đá thành tế trúc

Hồng điểm lưa thưa huyết lệ hồng

Hàn khổ bình sinh thân tự trúc

Khổ ngâm thi tứ tuyệt kỳ công

 

 

 

拣得林中最细枝, Giản đắc lâm trung tối tế chi (Chọn được cành trúc nhỏ trong rừng), câu thơ trong bài “Tặng Lương Phố tú tài ban trúc trụ trượng” (Tặng tú tài Lương Phố gậy chống bằng ban trúc), của Giả Đảo (779-843). Giả Đảo, tự Lãng Tiên, quê Phạm Dương, Hà Bắc, gia cảnh bần hàn, xuất gia tại thành Lạc Dương, pháp danh Vô Bản. Hàn Dũ mến tiếc tài năng, khuyên hoàn tục, đi thi nhiều lần không đỗ, mãi đến năm 822 mới đỗ tiến sĩ, làm Chủ bạ Trường Giang (Tứ Xuyên)  hơn 10 năm, sau đổi Tư thương tham quân Phổ Châu (cũng thuộc Tứ Xuyên), mất khi đương tại chức.

 

Giả Đảo cùng Mạnh Giao, Lý Hạ... đại biểu cho phái thơ “khổ ngâm” thời Trung-Vãn Đường. Điển tích “thôi-xao” xuất phát từ câu thơ của Giả Đảo: “Điểu túc trì biên thụ/Tăng xao nguyệt hạ môn”. Hình ảnh nhà sư dừng lừa giữa đường, giơ tay khi đẩy khi gõ vào cánh cửa tưởng tượng, hồi lâu mãi không quả quyết, khiến khách qua đường là Hàn Dũ phải bật cười bái phục.

 

Bài thơ: Tặng Lương Phố tú tài ban trúc trụ trượng

Giản đắc lâm trung tối tế chi,

Kết căn thạch thượng trưởng thân trì.

Mạc hiềm trích lịch hồng ban thiểu,

Kháp thị Tương phi lệ tận thì.

(Chọn được cành trúc nhỏ trong rừng,

Rễ bám trên đá nên cây sinh trưởng chậm.

Đừng chê những điểm hồng tí tách trên thân trúc,

Chúng tựa như những giọt lệ sót của hai nàng Tương phi.)

 

 

 

 

 

 

đoan nghiên

Sổ thốn quang thu vô nhật hôn

 

Sắc mực màu thu loang khói sương

Nghiên đài bích huyết cựu hồn vương

Niên quang dị tận đêm trường hận

Tân quỷ đề thơ lời dị thường

 

 

1.数寸光秋无日昏, Sổ thốn quang thu vô nhật hôn (Vài tấc thu thiên không gợn ánh tà), câu thơ trong bài “Dương sinh thanh hoa tử thạch nghiễn ca” (Bài ca nghiên mực đá tía vân xanh của Trương sinh) của Lý Hạ, thi nhân thời Trung Đường.

Lý Hạ, (790-816), tự Trường Cát, người Phúc Xương, Hà Nam. Dòng dõi hoàng thất nhưng gia thế đến đời ông đã suy vi, bần hàn, phần ông việc thi cử gặp trở ngại, công danh chẳng qua một chức quan nhỏ trông coi về nghi lễ, chẳng bao lâu cũng từ quan. 27 tuổi thân bệnh qua đời.

Người đời xưng tụng Lý Hạ là “Quỷ thi”, cùng với “Tiên thi”  Lý Bạch, “Thánh thi” Đỗ Phủ, “Phật thi” Vương Duy. Cảnh giới thơ ông như đương thời nhà thơ Đỗ Mục khái quát: hoang đản, kỳ ảo, sầu hận mênh mang, gợi nhớ đến những dòng thơ máu lệ của Hàn Mặc Tử.

 

2. Bài thơ “Dương sinh thanh hoa tử thạch nghiễn ca”

Đoan Châu thạch công xảo như thần,
Đạp thiên ma đao cát tử vân.
Dung ngoan bão thuỷ hàm mãn thần,
Ám sái Trường Hoằng lãnh huyết ngân.
Sa duy trú noãn mặc hoa xuân,
Khinh ẩu phiêu mạt tùng xạ huân.
Can nị bạc trọng lập cước quân,
Sổ thốn quang thu vô nhật hôn.
Viên hào xúc điểm thanh tĩnh tân,
Khổng nghiễn khoan thạc hà túc vân.

 

(Dịch vội)

Thợ đá Đoan Châu khéo như thần,

Đạp trời mài dao cắt thạch vân .

Đẽo gọt miệng nghiên chan chứa nước,

Hoa văn in máu lạnh Trường Hoành.

Ngày ấm thư phòng mài thử mực,

Bọt hoa thơm sực nức hương tùng.

Ráo mịn quân bình dầu thể mỏng,

Ánh thu vài tấc tịnh thanh quang.

Đầu bút nhẹ đưa trên giấy mới,

Thô sơ nghiên Khổng sánh sao bằng.

 

 

 

 

Nguyễn Thị Hải

http://www.gio-o.com/NguyenThiHai.html

 

 

© gio-o.com 2019