Nguyễn Thị Hải

 

cổ thi tư cảm

 

ải tây

hoàng li thướng thú lâu

 

Xuân vãn mưa rào đổ

Vọng gác náu hoàng oanh

Liễu hoa sầu biên viễn 

Chinh khách hờn mộng xanh 

 

Ải tây ngày tóc bạc 

Áo rách độ xuân tàn 

Rong ruổi ngoài vạn dặm

Nhạt dần làn thanh vân

 

Hoàng li thướng thú lâu” là câu thơ trong bài “Vũ Uy xuân mộ, văn Vũ Văn phán quan tây sứ hoàn, dĩ đáo Tấn Xương” của nhà thơ Sầm Tham, đời Thịnh Đường.

 

Sầm Tham (715-770), quê quán Nam Dương, Hà Nam. Đỗ tiến sĩ năm 744. Ông từng hai lần xuất tái và là một trong những nhà thơ biên tái xuất sắc nhất thời Thịnh Đường. 

Lần đầu xuất tái năm 749, Sầm Tham giữ chức chưởng thư ký trong mạc phủ của Tiết độ sứ Cao Tiên Chi ở An Tây (Cam Túc). Tháng 3 năm 751, Cao Tiên Chi được phong Thái thú Vũ Uy, Tiết độ sứ Hà Tây, nhóm Sầm Tham nghe tin liền đến Vũ Uy trước. Sau đó, Cao Tiên Chi bại trận về triều, Sầm Tham cũng rời Vũ Uy về đông, tháng 6 đến Lâm Thao, khoảng mùa thu thì về đến kinh thành. 

 

Bài thơ “Vũ Uy xuân mộ, văn Vũ Văn phán quan tây sứ hoàn, dĩ đáo Tấn Xương” được viết trong thời gian này. Sầm Tham khi đó nuôi khát vọng có thể lập nên sự nghiệp ở chốn binh nhung, nhưng mộng không thành, nên tâm tình buồn bã, bất đắc chí. 36 tuổi, tóc đã bạc và Xuân đã tàn. Khát vọng công danh (thanh vân) thì toan nguội lạnh. 

 

Nhưng sự nghiệp thi ca biên tái của Sầm Tham thực sự nở rộ ở lần xuất tái thứ hai, năm 754, Sầm Tham nhận lời gia nhập mạc phủ của Phong Thường Thanh, làm chức phán quan, đóng quân ở Luân Đài (thuộc Tân Cương ngày nay). Sầm Tham ở Luân Đài ba năm. Thơ biên tái của ông được nhận xét là: “âm điệu dồn dập, cao vút, với phong cách lạ và đẹp, miêu tả cảnh biên cương tráng lệ, kỳ khôi, biến ảo khôn lường”  (sách lịch sử văn học Trung Quốc). 

 

Sau, Sầm Tham về triều làm quan Hữu bổ khuyết, không bao lâu thì bị biếm làm trưởng sử Quắc Châu (Hà Nam) (759), thứ sử Gia Châu (Tứ Xuyên) (767), cuối cùng bị bãi chức và qua đời tại một nhà trọ ở Thành Đô, Tứ Xuyên. 

 

Bài thơ “Vũ Uy xuân mộ, văn Vũ Văn phán quan tây sứ hoàn, dĩ đáo Tấn Xương”

 

武威春暮,聞宇文判官西使還,已到晉

 

岸雨過城頭

黃鸝上戍樓

塞花飄客淚

邊柳掛鄉愁

白髮悲明鏡

青春換敝裘

君從萬里使

聞已到瓜州

 

Ngạn vũ quá thành đầu,

Hoàng ly thướng thú lâu.

Tái hoa phiêu khách lệ,

Biên liễu quải hương sầu.

Bạch phát bi minh kính,

Thanh xuân hoán tệ cừu.

Quân tòng vạn lý sứ,

Văn dĩ đáo Qua Châu.

 

Vũ Uy cuối xuân, nghe tin phán quan Vũ Văn đi sứ sang tây vực đã về đến Tấn Xương

 

Mưa bay lất phất mặt thành

Vút lên lầu thú bóng oanh chập chờn

Ải xa hoa ứa lệ hờn

Ven biên tơ liễu quạnh buồn nhớ quê

Đài gương tóc bạc ủ ê

Áo cừu thay lúc xuân về tả tơi

Ông đi muôn dặm sứ trời

Nghe tin về tới đâu ngoài Qua Châu

(Giản Chi dịch thơ, thivien.net)

 

Nguyễn Thị Hải

 

http://www.gio-o.com/NguyenThiHai.html

 

2020