phỏng vấn

nhà thơ

Nguyễn Đăng Thường

lê thị huệ thực hiện

Kỳ 2

(bấm vào đây xem phỏng vấn 1)

 

Là một người đọc, có khi tôi t́m đọc những tác giả khó. Những tác giả mà khi đọc cái đầu ta phải làm việc theo tác phẩm của họ. Nguyễn Đăng Thường là tác giả thuộc khuynh hướng này. Mới thoạt đọc, thấy ông viết hơi xâm lăng tấn công, và ông va chạm vào đủ các thứ mạch ẩn nấp. Nhưng bên dưới các bản viết kư tên Nguyễn Đăng Thường là các tiêu hóa kiến thức, trí thức, cảm tính, và văn chương, ở mức độ cực kỳ cao. Điều này gây nên sự chú ư của tôi. Tôi xem anh như là một trong những nhà thơ gây ảnh hưởng trên lớp tác giả trí thức cùng thời tôi, v́ các vận động viết có tính trí tuệ, đối xoáy, và tấn công thẳng thắn của cơi viết Nguyễn Đăng Thường. 

Ông được xem như là một trong những người khởi xướng nhóm Tŕnh Bày cùng 3 tên tuổi: Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường. Một trong những đóng góp đáng kể của nhóm Tŕnh Bày là chọn lọc và dịch tốt các tác phẩm thơ văn Tây Phương, giới thiệu vào không khí văn nghệ Sài G̣n thời 1954-1975.  

Ra hải ngoại, ng̣i viết của Nguyễn Đăng Thường vẫn tiếp tục hàng tiền đạo trên các trang Tạp Chí Thơ (Khế Iêm, Đỗ Kh.), Tiền Vệ (Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Hưng Quốc), Thế Kỷ 21 (Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Xuân Đài, đă đóng cửa) từ đó đến nay. 

Sau năm 1975, ông định cư hẳn ở Thành Phố Sương Mù London.

Gió O rất hân hạnh nhận được sự cọng tác trả lời phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường.(LTH)

 

 

Lê Thị Huệ :  Vấn đề không phải là “tự ái, tủi thân, bi thảm hóa số phận nhược tiểu, nô lệ, lưu vong. Khi thử đặt câu hỏi này với anh, tôi nghĩ Nguyễn Đăng Thường là một trong những nhà văn trí thức Việt Nam tương đối tiêu hóa được “áp lực” này, v́ sự tiếp xúc của anh với văn chương Tây Phương sớm, và quan trọng hơn cả là nhờ anh sống và sáng tác ở Tây Phương lâu năm, ở một thành phố nơi mà sự đa văn hóa tương đối được kính trọng và khuyến khích như London. Kinh nghiệm đặc biệt của anh, tôi hy vọng, sẽ có một cái nh́n vượt lên trên cái nh́n của các “thần tượng” cũ kỹ kia. Tôi đồng ư hoàn toàn với ư kiến của anh là : “ai viết được tiếng ǵ th́ cứ viết, không cần trân trọng hóa vấn đề, chức năng và ḷng yêu nước của nhà văn, trăn trở nọ kia kia nọ, ḍng chánh, ngoài luồng. Thế giới đă trở thành một ngôi làng với thị trường chung, với internet …” Thế nhưng các sức mạnh của sự ngu si đần độn cái ác, của tham vọng bành trướng của các đế quốc, vẫn lăm lăm đ̣i đồng hóa chúng ta thành kẻ “sở hữu” và "trong tầm ảnh hưởng" của họ. Câu hỏi là kinh nghiệm của anh đă làm sao để tiêu hóa được các áp  lực này, và giữ được tính độc lập phi thường và tính b́nh đẳng của một người sáng tác xa nhà, không có các bệ phóng nâng đỡ của quốc gia địa lư ?

 

Nguyễn Đăng Thường: Cám ơn chị, chị tặng tôi nhiều đức tánh quá. Thật ra tôi sống rất hồn nhiên, dù đó chỉ là một cách nói. Tôi giải quyết từng vấn đề một của đời sống, và may mắn thay, tôi gặp may nhiều hơn bị rủi. Tôi không biết phải trả lời câu hỏi này như thế nào đây. Có quá nhiều áp lực để có thể kể hết ra ở đây. Tuy nhiên, một nhà văn, nhà thơ nếu thực sự có tác phẩm và đương thai nghén nó th́ vẫn có thể cho nó ra đời bất cứ ở đâu: trong tù, trên gác, dưới hầm, trong nước, ngoài nước, nếu có giấy bút. Hoa địa ngục đă được viết, hay được học thuộc ḷng trong tù, là một thí dụ. Tôi nghĩ chúng ta nên từ bỏ hẳn vai tṛ nạn nhân, đổ lỗi cho người khác. Các cây bút hải ngoại của ta vẫn chạy đều. Các thi nhân vẫn thơ thẩn đều tay đấy chớ. Để tránh nói là sản xuất thơ như gà đẻ trứng mỗi ngày.

Riêng tôi, khi viết, tôi không hề bị giằng xé giữa hai, ba, bốn nền văn hóa. Cũng không bị áp lực nào cả, ngoại trừ sự tự kiểm duyệt. Có thể nói đó là áp lực duy nhứt. Ngoài ra, sự cố bài không được đăng, v́ lư do nào đó, bài dở hay nhạy cảm, cũng có thể là một áp lực, v́ nó đă khiến tôi thất vọng, đâm ra uể oải, muốn gác bút nhiều lần rồi.

Tôi c̣n rất nhiều bài chưa gởi đi, hoặc bỏ dở. Viết mất th́ giờ, tôi viết chậm. Không có nhuận bút, lúc gởi bài th́ băn khoan, v́ tôi rất ngại chuyện làm phiền tới người khác. Sáng lập một trang web riêng để đăng bài, đăng tranh, đăng h́nh của ḿnh th́ chẳng khác ǵ múa gậy vườn hoang, tôi không thấy thú vị chút nào cả.

Tôi không có tự yêu — self love. Ít chụp h́nh, không thích được người khác chú ư tới ḿnh, không thích được biệt đăi, không thích trịnh trọng, trân trọng cái bề ngoài. Tôi b́nh dân, thân thiện, nhưng lại không thích mày tao. Giữa tôi và người khác phải có một hàng rào:

má tôi thích ăn xôi

chị tôi thích xơi ổi

em tôi chỉ thích ngồi

tôi th́ không ưa tôi...

(Thơ bất tận)

Nghĩa là tôi không có tự hào, tự cao, tự đại. Thời trẻ tôi có mặc đồ lớn, thắt cà-vạt, một hai lần, khi dự tiệc. Ra hải ngoại tôi chỉ jean, T-shirt, sweatshirt suốt cả năm. Do vậy, đối với tôi không có chuyện viết, vẽ cho ḿnh, không cần tới người khác. Ginsberg: Tôi làm thơ bởi v́ tôi muốn sống một ḿnh nhưng cũng muốn chuyện tṛ với những người khác.

Văn nghệ không phải là một cái nghiệp dĩ đối với tôi. Khả thể sáng tạo của tôi rất hẹp, tôi biết rơ điều đó. Viết, vẽ chỉ là một tṛ chơi đối với tôi, vui th́ làm không th́ thôi, một lao động trí thức khi rỗi rảnh. Lúc này tôi rảnh rang hơn v́ bạn đời tôi không c̣n. Đi dạo, mua sắm, ăn ngủ, lúc nào cũng được, không cần phải song đôi như trước nữa. Nói vắn tắt, tôi không đặt việc sáng tạo lên trên đời sống vật chất. Tôi chỉ viết, vẽ khi no cơm ấm áo, thoải mái, không có chuyện lo buồn. Tôi không thể là một anh nghệ sĩ áo rách, bụng đói, ngồi trên gác trọ say mê sáng tạo, viết, vẽ dưới ánh đèn leo lét giữa đêm khuya hầu có tác phẩm để lại cho đời sau. Tôi theo chủ nghĩa cá nhân, hiểu theo nghĩa tốt, là: trân trọng đời tư của người khác, và không đặt cá nhân ḿnh lên trên tất cả.

Tôi vẽ trước khi viết, năm lên 15, 16 v́ thích phim hoạt h́nh của Walt Disney. Thích xi-nê, tôi họa h́nh tài tử bằng viết ch́ đen, xanh, bằng màu nước. Hoàng Ngọc Biên xem thích. Tôi có cho Biên một bức họa Audrey Hepburn màu nước. Biên thích con bé này. Biên tặng nó lại cho một người khác, và cứ thế mà chuyền tay nhau, đến tay một chị bạn sư phạm, chị Phạm Thị An. Chị đem vô lớp khoe với tôi, thật vui và bất ngờ. Ít nhứt cũng đă  5, 10 năm từ thời tôi c̣n mặc sọt.

Chị bạn đồng khóa này về sau lấy chồng trạng sư, một boy friend từ thời niên thiếu, h́nh như vậy. Hai vợ chồng trẻ hạnh phúc có một căn phố lầu mới toanh gần đầu đường Phan Đ́nh Phùng, rất sang. Bây giờ h́nh như họ ở Paris. Con, rể, dâu cháu không biết đă được bao nhiêu. Nhà đạo diễn phim đợt sóng mới của Pháp, Jean-Luc Godard, nói tác phẩm để đời là con cháu, chớ không phải tác phẩm văn nghệ. Ông Picasso th́ chắc không ô kê. Tôi có đến nhờ người chồng tới bót can thiệp dùm một chuyện xích mích với một bà hàng xóm Bắc Kỳ ưa kiếm chuyển gây gổ.

Buồn cười. Dù lúc đó rất bực ḿnh. Bà Bắc Kỳ đanh đá có chuyện xích mích với bà hàng xóm bán hàng ở cạnh nhà tôi. Hai bà này không ai nhịn ai. Bà Bắc Kỳ giận cá chém tôi. Bà Ba, hàng xóm cạnh tôi, bé người, kể chuyện đời bà cho tôi nghe. Bả nói hồi nhỏ bả học giỏi, thi đậu vô trường Gia Long, nhưng muốn vào nội trú phải có một cái trousseau — áo quần cần có cho học sinh vào nội trú. Gia đ́nh không đủ tiền mua. Đó là mối ân hận suốt đời của bả, nghe thật bùi ngùi. Bả thích sử dụng vài tiếng, một câu tiếng tây với tôi. Cuối tháng bả mới tính tiền mua nước ngọt, nước đá của tôi  — lúc đó tủ lạnh c̣n khá đắc tiền. Tôi thấy số tiền hơi cao, nói với bả. Bả cười, nói: L'erreur est humaine — nhầm lẫn là con người. Và bả cứ tiếp tục erreur. Nếu thấy không nhiều th́ tôi bỏ qua. Đồng lương giáo chức lúc đó tạm đủ. Tôi có tật xài lớn, xài sang, đánh bóng ḿnh lúc đó, v́ chưa đủ tự tin. Lúc mới đi dạy, tôi luôn luôn ngồi xích lô, tắc xi.

Bà Ba có 3 người con, một gái lớn, một trai kế, một gái út. Người con trai đă có vợ. Mỗi buối sáng anh ta chở xe đạp đem đứa con trai gởi bà nội. Thằng bé này mập tṛn, chậm chạp, ít nói. Gặp tôi nó ưa xin bánh. Tôi không ưa nó, không bao giờ cho. Bây giờ nghĩ lại thấy tiếc những cái nông nổi của ḿnh thời trẻ. Cô gái lớn là gái già. Cô kể chuyện: lúc trẻ có một anh thợ bạc, hay làm nghề ǵ đó tôi không nhớ, xin cưới. Bà Ba không gả, v́ không môn đăng hộ đối. Bà Ba là một người đàn bà có một cuộc đời không vui, không vừa ư. May thay, cô con gái út, nữ sinh Gia Long, học giỏi. Tú tài xong, cô ghi danh đại học Vạn Hạnh, ban báo chí.

Ra trường được học bổng sang Mỹ. H́nh như trước khi đi tôi có cho vài trăm đô, nhưng không dám chắc. Tôi nói qua Mỹ sinh viên có thể kiếm việc làm phụ trong khi học, như giữ trẻ — baby sitter. Bà Ba lắc đầu. Con gái bà không biết làm những chuyện đó. Cô sinh viên này, tôi không nhớ tên, có tiếng cười lanh lảnh vang cả xóm, ngày lẫn đêm, có khi nghe rợn cả người như tiếng khóc. Sau 75, cô lănh mẹ sang Mỹ.

Tôi c̣n nhớ một câu nói của cô, tôi ghi ḷng: Thông tin là tuyên truyền. Nhơn dịp, tôi kể lể những mẫu chuyện vang bóng trong con hẻm đời tôi, của thời tôi, về những bà mẹ không anh hùng trong bóng tối cuộc đời. Chuyện bên lề, nhưng cũng hy vọng nếu có đọc, các thế hệ sau sẽ hiểu được phần nào nỗi khổ của các thế hệ trước. Kể lể cho vơi bớt nỗi ḷng, cho nhẹ túi ba lô khi ôm xe thồ về phố cổ. Nếu có lê thê tôi thành thật xin lỗi.

Khoảng năm 1954, phim Lust For Life về cuộc đời họa sĩ Vincent Van Gogh chiếu ở Sài G̣n. Kirk Douglas đóng vai chánh, tôi coi mê quá. Có người cho vài viên phấn tiên — pastel — một hộp màu dầu cũ. Tôi sử dụng chất liệu mới, bắt đầu sáng tạo, dù c̣n bắt chước. Tôi vẽ một con hẻm — Utrillo — một con ngựa ăn cỏ —  Gauguin. Hoặc cóp pi tranh Picasso thời xanh, thời hồng với màu dầu.

Đậu tú tài xong, có đủ bằng cấp trong tay, tôi cảm thấy tự tin hơn trong việc kiếm sống, nếu cần. Tôi muốn ghi tên vào trường Mỹ thuật Gia Định, nhưng ông dượng Sáu — lúc đó đă lên chức kỷ sư — nói làm vậy th́ uổng cái bằng tú tài. Dượng khuyên tôi nên thi vào trường kiến trúc. Tôi dở môn toán, lại không thích ngồi kẽ những đường ngang dọc đen trắng mỗi ngày, chẳng khác ǵ một anh công chức, nên tôi không chịu. Định ghi tên vào Đại học Văn khoa th́ may thay Đại học Sư phạm được thành lập, có học bổng nên tôi thi vào, đậu hạng ba. Tôi chọn ĐHSP Sài G̣n. Hoàng Ngọc Biên và Nguyễn Xuân Hoàng — tôi chỉ quen ở quân trường — chọn ĐHSP Đà Lạt.

Tới nay, ngoài vài bạn bè, không ai biết tôi viết văn, làm thơ, kể luôn những người trong gia đ́nh. Ở hải ngoại, trừ nhà chức trách, cũng không ai biết đến sự có mặt của tôi và tôi đương làm ǵ, th́ làm sao có chuyện đồng hóa, sở hữu. Tôi sống yên ổn thoải mái trong cái thế giới nhỏ bé của ḿnh. Tới nay không có ai, chưa có ai tới quấy nhiễu.

Tôi nghĩ chúng ta nên sợ Tàu, một chế độ độc tài c̣n ôm mộng bành trướng, đồng hóa, và quyết tâm thực hiện chuyện đó. Lấn đất dành dân, nói theo ngôn ngữ chống cộng miền Nam trước 75. Trường kỳ xâm lấn, nếu ưng sử dụng ngôn ngữ Bắc Kinh. Nhưng Tàu cũng đương chịu ảnh hưởng văn hóa lẫn kinh tế Tây phương. Âu Mỹ đương gặp nhiều khó khăn — kinh tế, di dân, khủng bố —  nên không c̣n đủ sức mạnh, hay ư chí để xâm lăng. Văn hóa của họ th́ họ cũng không áp đặt cho ai cả.

Nó đẹp, nó hay, nên thế giới chấp nhận, bắt chước. Văn hóa của họ luôn luôn phát triển nhờ có tự do, cạnh tranh. Tất nhiên nó cũng có cái xấu, cái thái quá. Như nữ quyền luận cực đoan, đa văn hóa như một bắt buộc. Khiến nhiều kẻ tự hào khi tự trói buộc ḿnh vào trong văn hóa bản xứ, vừa muốn làm sâu vừa muốn hóa bướm. Cái của ḿnh, cái của ta cũng hay, cũng đẹp không thua kém ai. Các siêu thị nước ngoài phải bán mắm tôm, thịt chó. Quốc hồn quốc túy là hoa sen, cành trúc, rồng, phụng, trên tà áo dài.

Bông lys, quốc hoa của Pháp, lá phong của Canada, chỉ thấy trên quốc kỳ. Và bông hồng vàng của bang Texas đâu thấy vẽ, thêu trên y phục. Chiếc áo dài kiểu thức hóa, không ta chả tây, tôi thấy nó không đẹp. Nó không làm tăng vẻ đẹp riêng của người mặc, mà ngược lại. Nó khiến người mặc, những người mặc nó trông hệt như tấm bảng quảng cáo di động. Trong một buổi lễ, một dạ tiệc, nếu có quá nhiều những chiếc áo như thế, có thể gây cảnh xốn mắt. Đó là thiển nghĩ của tôi.

Hollywood đă bổ sung cái kiến thức nhỏ bé của tôi thời trung học, với các phim quay ở châu Phi như King's Solomon Mines, The Snow Of Kilimanjaro. Thật ra, nhà văn, nhà thơ đích thực, có quê hương riêng của họ. Nghĩa là cái thế giới văn chương chữ nghĩa và sáng tạo của mỗi cá nhân. Yoknapatawpha của Faulkner, Dublin của Joyce, cái no-man land của Beckett. Tuy riêng biệt, nhưng chúng là những giọt nước long lanh phản ánh cả thế giới.

Một văn hóa, một văn học khép kín sẽ bị tàn tạ. Bắt chước người nước ngoài, bắt chước lẫn nhau, là một giai đoạn học tập cần thiết. Tây Phương không đặt áp lực lên các nhà văn di tản. Nhiều cuốn sách có thể bị cấm ở Việt Nam được xuất bản ở Mỹ, Pháp. Ở hải ngoại chúng ta hoàn toàn tự do viết ra bất cứ cái ǵ ḿnh muốn. Nước Mỹ, chẳng hạn, không những không cấm đoán mà ngược lại c̣n khuyến khích là đằng khác.

Nữ quyền luận, đa văn hóa, văn chương lưu vong, liên văn bản — một cách nói khác về việc sử dụng điển tích — là những phát minh của Mỹ. Nhưng ta không nên nhắm mắt bước theo. Mỹ có thể tự tiêu diệt với những đ̣i hỏi quá trớn: tự do trăm phần trăm, nam nữ b́nh quyền trên mọi phương diện. Cấm trưng bày những biểu tượng tôn giáo — nhưng chỉ nhắm vào Thiên Chúa giáo — để làm vui ḷng, hay v́ sợ sệt các thiểu số. Ở Anh, sáu, bảy thanh niên Hồi dụ dỗ các gái vị thành niên da trắng có vấn đề với gia đ́nh, chuốc rượu, thuốc mê, hăm hiếp, rồi bắt rước khách. Hội đồng thành phố, cảnh sát ém nhẹm v́ sợ đụng chạm thiểu số, mất phiếu. Sự hội nhập càng ngày càng thêm khó khăn.

Chủ nghĩa đa văn hóa áp dụng triệt để trong các thập niên qua đă khiến nước Anh thành cái ḷ sản xuất những tên khủng bố lớn nhứt châu Âu. Jihadi John từng là một học sinh ngoan, giỏi trước khi bị các iman Hồi tẩy năo. Các thanh niên khủng bố này chống Mỹ, chống tư bản Mỹ, nhưng mang giày bố Nike. Phụ nữ Hồi không sử dụng nữ quyền để tự giải phóng khỏi ách độc tài của tôn giáo Hồi, của nam giới Hồi, mà để được quyền trùm kín burqa, hănh diện tự nhốt ḿnh vĩnh viễn vào xà lim của y phục, của nam quyền.

 


Nguyễn Đăng Thường và các chị em thời thơ ấu

 

Lê Thị Huệ: Cộng Sản cho là họ thắng v́ tuyên truyền, vậy văn nghệ sĩ Miền Nam Việt Nam Cộng Ḥa có dám chấp nhận ḿnh thua v́ mặt trận văn học nghệ thuật không ?

Nguyễn Đăng Thường: Mục đích duy nhứt của cộng sản là thắng cho bằng được với bất cứ giá nào, là đánh cho tới người lính cuối cùng. Họ sử dụng biện pháp cứu cánh biện minh cho phương tiện, bất kể mọi hậu quả. Văn hóa cướp và cướp có văn hóa, nếu chúng ta sính dùng ngôn ngữ hiện đại. Tuyên truyền chỉ là một phần, tuy rất lớn, trong những mưu toan của cộng sản. Ngoài ra, phải có thêm súng ống, bộ đội để cho tướng tá xua quân dùng chiến thuật biển người. Tuyên truyền mà không có sức lực quân sự và súng đạn th́ coi như huề. Miền Nam Cộng Ḥa cũng có tuyên truyền, nhưng không hề có sự ép buộc văn nghệ sĩ phải sáng tác, chỉ sáng tác để tuyên truyền như miền Bắc.

 

Lê Thị Huệ: Anh có đồng ư với “Chống Diễn Giải” ?

Nguyễn Đăng Thường: Tất nhiên là có, v́ tôi đă dịch tiểu luận của Susan Sontag. Nhưng tôi không đồng ư trăm phần trăm. V́ đôi khi ta cũng cần diễn giải cho một số độc giả chưa đủ tŕnh độ. Cái mới, cái lạ có thể khiến cho thiên hạ rút gị chạy. Nông dân Pháp đă không dám ăn khoai tây. Một ông cố vấn hay ǵ đó của nhà vua, mới nghĩ ra tṛ trồng một mảnh vườn khoai tây, rồi cho người giả dạng làm kẻ trộm ban đêm lén vào đào trộm khoai, đem về luộc, ăn khen ngon rồi rỉ tai dân chúng. Hội họa ấn tượng lúc mới ra đời cũng bị chế nhạo.

Tuy nhiên, diễn giải Kafka, chẳng hạn, là thu hẹp nội dung tác phẩm của nhà văn này theo một ư nghĩa hay chiều hướng nào đó, dù lúc đầu nó có thể giúp cho người đọc có cảm tưởng rằng ḿnh đă hiểu, để cho việc tiếp cận có vẻ dễ dàng hơn. Nhưng nó nghèo hóa tác phẩm. Bởi lẽ mỗi độc giả có thể hiểu, diễn giải Kafka theo cách của ḿnh. Như vậy, mười độc giả sẽ có mười cách hiểu tác phẩm khác nhau. Nói theo chúng ta th́ chín người mười ư vậy.

Tôi c̣n nhớ một chị bạn đồng khóa sư phạm đă được chính phủ Pháp cấp học bổng sang Pháp tu nghiệp — tôi cũng được học bổng nhưng không được đi v́ trong lứa tuổi có thể bị động viên. Khi trở về nước, trong một buổi chuyện tṛ văn nghệ, chị tuyên bố tranh Picasso thể hiện một thế giới gẫy đổ un monde cassé. Tranh Picasso bỗng nhiên có vẻ dễ hiểu hơn với cái nhăn đó. Cách diễn giải đó tất nhiên có thể có một phần đúng, nhưng rất nhỏ, nó tóm lược, thu hẹp hội họa Picasso.

Khi đặt một cái tên cho một bức tranh trừu tượng, họa sĩ của ta ở hải ngoại cũng thu hẹp, cho nó một nội dung duy nhứt. Bức tranh, như vậy, chỉ để minh họa cho tựa đề. Nếu cái tên của bức tranh bí ẩn kia là đàn bà, chẳng hạn, th́ người xem sẽ cố t́m những đường cong của thân h́nh phụ nữ. Hoặc là t́m những cái có thể liên quan tới phụ nữ trong bức tranh. Nhưng ai cấm người xem, thay v́ thấy một phụ nữ, sẽ thấy một cái ǵ khác hơn, thú vị, thi vị hơn. Nếu đặt một tên khác cho bức tranh đó, thậm chí gọi nó là đàn ông, người xem sẽ nghĩ khác. Tôi chỉ đưa ra một thí dụ để minh họa cho diễn giải, không muốn đi sâu vào vấn đề, đặt tên hay không đặt tên cho một tác phẩm.

Tựa đề có thể hiển nhiên, châm biếm, phản đề. Magritte vẽ một cái ống điếu, nhưng ghi: Ceci n'est pas une pipeCái này hổng phải là ống vố. ­Tất nhiên. V́ nó chỉ là một bức tranh. Tôi không vẽ tranh trừu tượng v́ tôi thấy nó quá dễ. Bết những lớp màu dày trên một tấm bố lớn có thể gây ấn tượng nhưng tốn xu. Tôi tiện tặn, phết một lớp màu mỏng, như trét bơ, trét jam lên miếng bánh ḿ. Nếu có ai đặt mua tranh trừu tượng th́ tôi vẽ.

Vẽ bậy vẽ bạ chất đầy nhà không có chỗ để, không có người xem, không có ai mua, th́ chỉ hao công tốn của. Tôi không là một Gauguin, một Van Gogh, một Modigliani, lúc c̣n sống tranh không ai mua. Bây giờ th́ tranh của họ bán đấu giá cả triệu đô, làm giàu cho kẻ khác. Tên tuổi sáng chói nhưng để làm ǵ ? Tất nhiên nghệ thuật chỉ có một không hai của họ là một đóng góp vô cùng quư báu cho nhân loại, nhưng tôi cũng thấy ít nhiều chua xót cho số phận của họ lúc họ c̣n sống. Có thể họ đă sống hạnh phúc v́ được vẽ tranh. Có thể.

 

Lê Thị Huệ: Anh có thể cho vài nhận xét về sự tranh chấp sống c̣n giữa tác giả và tác phẩm. Nhưng xin đừng đưa ra những lập luận của Hậu Hiện Đại.

Nguyễn Đăng Thường: Như đă nói ở trên, tôi viết v́ ngứa tay chớ không bao giờ dám nghĩ ḿnh là nhà văn, nhà thơ, nên không có sự đôi co giữa tác giả và tác phẩm đối với tôi, nếu tôi hiểu không sai câu hỏi của chị. Hay là chị muốn nói tác phẩm quan trọng hơn tác giả, v.v... Người đọc chỉ nên chú trọng đến tác phẩm mà không cần biết tác giả là ai ? Cái này th́ phải hỏi nhà phê b́nh Nguyễn Hưng Quốc mới được.

 

Lê Thị Huệ: Tŕnh Bày vs Sáng Tạo. Mai Thảo suốt đời viết văn khi chết lại để lại tập thơ. Nguyễn Đăng Thường có dám làm như vậy không ?

Nguyễn Đăng Thường: Chúa ơi, hổng những tôi dám hết ḿnh, mà c̣n mong chỉ được vậy thôi. Một cuốn sách, một cuốn truyện, một tập thơ, một bài thơ — T.T.Kh. là một thí dụ — một bức tranh, một tấm ảnh. Thậm chí một nhân vật, một câu thơ, một lời nói, một món ăn — bánh bao Bà Cả Cần — cũng quá đủ rồi. Nhân loại sanh sôi nẩy nở, tác phẩm văn chương văn nghệ càng ngày càng nhiều, sự lựa chọn quá dồi dào nên cần phẩm hơn lượng.

 

Lê Thị Huệ: Sống và Viết, phải chọn một, theo Jean-Paul Sartre. Vậy Nguyễn Đăng Thường đang sống hay đang viết?

Nguyễn Đăng Thường: Cả hai. Hay đúng hơn, tôi đương sống nhiều hơn viết, dù chỉ là một cách nói. Cuộc sống hàng ngày của tôi bây giờ rất giản dị. Thức ngủ, ăn uống, vào mạng đọc tin tức, lướt qua vài bài viết. Hứng th́ ngồi xuống viết. Mệt th́ nằm đọc sách ngâm thơ, dùi mài kinh sử để chờ đáp chuyến tàu suốt. Tối rảnh th́ coi một cái dvd. Rồi lại lên giường đánh một giấc nam kha khéo giựt ḿnh — thức dậy đi tiểu. Sáng hôm sau, bừng con mắt dậy thấy ḿnh không tay. Vậy là xong một ngày, một đêm. Và tiếp tục cho đủ bảy ngày, bảy đêm như khi cái Ông ở trển Ổng sáng thế. Một ngày trong đời Nguyễn Đăng Thường, nếu viết ra, sẽ thú vị và có nhiều độc giả hơn một ngày trong đời Ivan Denisovich.

Thiển nghĩ của tôi, và chỉ để áp dụng cho ḿnh thôi, là, viết cũng như ăn. Ăn để sống hay sống để ăn ?  Sống để viết — văn chương — hay viết để sống — thương mại ? Một tác phẩm thành tựu, có nhiều độc giả khắp thế giới có thể giúp một tác giả vĩnh cữu trong một thời gian. Dài hay ngắn. Và tiền nong. Sách vở bây giờ quá đông. Cộng thêm các mốt mới văn chương, văn nghệ, âm nhạc để mọi người tha hồ lựa chọn. Nhưng mọi thứ sẽ phai tàn, dù tôi không bi quan, không theo triết lư Phật giáo.

Thế giới và loài người có thể bị tiêu diệt trong nháy mắt với bom nguyên tử. Quỷ thời gian của tôi sắp cạn, tôi đương bị thôi thúc bởi các vấn đế tử sinh. Các từ trăn trở, thao thức, hệ lụy, tôi xin nhường lại cho những người trẻ tuổi, nếu họ chịu nhận. Nếu ta thai nghén một tác phẩm và quan tâm tới nó th́ hăy viết nó ra, rồi t́m mọi cách cho nó được in ấn, tới tay độc giả. Sách vở ngày nay lệ thuộc quá nhiều vào thương mại nên cần phải có cam đảm vượt bực để viết cho riêng ḿnh. Các cụ ngày xưa chỉ cần viết ra là đủ.

Ông Jean-Paul Sartre luôn luôn có những khẩu hiệu, nhiều khẩu hiệu giựt gân. Sống tại khu phố nghệ sĩ nay không c̣n nữa, trong một thành phố tự do, trên một đất nước tự do, nhưng ông ta luôn luôn hoan nghinh, ủng hộ những chế độ độc tài, Nga, Tàu, Việt, Cuba. Tư sản, nhưng chống giai cấp trung lưu. Sang Mỹ, tới Nga, qua Tàu, ông ta chỉ thấy những cái ǵ ḿnh muốn thấy: tư bản Mỹ xấu, vô sản Nga-Tàu tốt. Phái tả, sinh viên văn nghệ sĩ cánh tả, trong số những người này có Sartre, có Duras, xuống đường làm cách mạng văn hóa kiểu Mao — Mao Ít —  tháng Năm 68. Nhưng họ mù tịt về thực trạng của cuộc cách mạng văn hóa hủy diệt, tàn phá, thủ tiêu người và vật ở nơi nó xuất phát. Nói cách khác và khiếm nhă hơn, mắt lé nên ông ta chỉ có thể nh́n về mé trái và luôn luôn thấy nó tuyệt vời. Cuối đời, ăn năn hối lỗi, th́ đă quá muộn.

Nhưng con tàu Đảo Ánh Sáng cũng thêm được một cái mề đai trên bộ ngực già của tác giả bộ tiểu thuyết 3 cuốn Những ngả đường tự do. Lúc đó tôi đọc tờ L'Express mỗi tuần, chưa nghe tên, chưa nghe tiếng ông Vơ Văn Ái.

Ở trung học ban triết, tôi đọc Buồn nôn, Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản, vài vở kịch của Sartre: Huis- clos, Les mains sales. Thầy triết bắt đọc. Huis-closBưng bít — là địa ngục thu gọn trong một căn pḥng không lối ra, để cho ba nhân vật đă chết, một nam, hai nữ, trực diện tra tấn lẫn nhau. Câu nói nổi tiếng và đại diện cho chủ nghĩa hiện sinh của Sartre Địa ngục là tha nhânL'enfer c'est les autres là một lời thoại trong vở kịch này. Cái nh́n của tha nhân là địa ngục, v́ nó định nghĩa ta, biến ta thành một đồ vật dưới một h́nh thức duy nhứt: một tên hèn, một kẻ giết người, một đứa tiểu nhân.

Sự đợi chờ vô vọng trong kịch Huis-clos đă ảnh hưởng Beckett, khi nhà văn Ái Nhĩ Lan viết kịch Trong khi chờ Godot.

Les mains salesNhững bàn tay đẫm máu — để minh họa cho quan niệm dấn thân chánh trị của Sartre. Muốn hành động th́ tay phải nhúng chàm, phải dính cứt, phải đẫm máu. Tôi theo mốt Sartre một thời gian rồi thấy tác phẩm của Sartre quá chánh trị nên chia tay. Tôi có mua cuốn Le siècle de Sartre — Thế kỷ của Sartre - Thế Kỷ 20 — quyển tiểu luận dày cộm của ông playboy triết gia mới Bernard-Henri Lévy, định đọc. Nhưng bạn đời tôi đột ngột qua đời. Tôi buồn, dọn dẹp nhà cửa cho thoáng, đem nó cho một hội từ thiện.

Tôi nghĩ sự lựa chọn không cần thiết, không là một khả thể. Có sống th́ mới có viết. Càng sống nhiều, sống đến tận cùng của kiếp sống th́ càng có nhiều kinh nghiệm hơn để viết. Một thần đồng ­­— nếu có thần đồng — có thể cho ra đời một thi phẩm hay một họa phẩm dù chưa có kinh nghiệm sống. Nhưng cái chất tươi mát, hồn nhiên nhưng ít tính sáng tạo trong tác phẩm sẽ chóng tàn. Một người lớn bắt chước bút pháp ngây ngô để sáng tạo th́ lại là một chuyện khác.

Proust đă sống đến tận cùng nửa đời, và để trọn vẹn nửa đời c̣n lại để viết. Tất nhiên là chia đôi cho dễ thấy. Nhưng thật ra Proust đă bận tâm về cái viết và đă viết từ thời trẻ. Mặt khác, Proust có tiền, có người hầu kẻ hạ, khi đi t́m thời gian đă mất, lúc tự giam kín ḿnh trong pḥng để viểt say sưa. Phần lớn những người cầm bút không có được sự biệt đăi đó, nên họ phải vừa sống vừa viết. Đó một bắc buộc. Hay một lựa chọn, nếu muốn nói theo kiểu Sartre.

Tất nhiên sống theo nghĩa của Sartre, và hiểu theo tôi, là lao ḿnh vào cuộc sống vật chất, như một anh chàng playboy. Và viết, là phải từ bỏ hết mọi thú vui của đời sống, như một nhà tu khổ hạnh. Đó là một lựa chọn dứt khoác tôi cho là không cần thiết và khó thực hiện. Sartre đă có nhiều cô t́nh nhân trẻ ở khu phố la tinh Saint-Germain-des-Prés. Khi mới tới Paris tôi đă bị một cú hớ rất quê về Sartre. Nhưng xin để dành lại cho một dịp khác. Ian Fleming, cha đẻ của James Bond, vừa sống vui vừa viết hăng. Hệt như chàng điệp viên ma sô đẹp trai 007, vừa hưỡng lạc vừa làm gián điệp.

Simenon viết hơn cả trăm cuốn truyện trinh thám, mỗi cuốn trong vài tuần, rồi không bao giờ đọc lại. Nhưng Simenon cũng khoe rằng ḿnh đă có cả ngàn cô nhân t́nh. Nghĩa là người cha đẻ của ông c̣ Maigret, vừa sống vừa viết. Nhà văn nữ J. K. Rowling tác giả bộ sách Harry Potter bán chạy, đă trở thành đại tỷ phú với tiền bản quyền sách, phim, chắc cũng đương hưởng thụ. Hy vọng chị cũng đồng ư.

Trong khoảng thời gian ngắn sống theo chủ nghĩa hiện sinh ở Sài G̣n, tôi bắt chước bọn trẻ nghệ sĩ ở Saint-Germain-des-Prés. Thuốc lá, cà phê, pḥng trà ca nhạc, thức khuya, hút uống liên miên bị mất ngủ, phải uống thuốc ngủ. Gói thuốc lúc vô trường đút dưới chưn, trong vớ. Có đứa c̣n bày thêm tṛ thuốc ngủ uống với rượu. May thay chưa có đứa nào ch́m luôn vào giấc ngủ ngàn thu. Cô bán thuốc lá lẻ và vé số Kiến Thiết ngồi cạnh quán kem Mai Hương ở góc đường Lê Lợi-Pasteur để dành cho tôi những cây thuốc lá Mỹ 10, 12 gói.

Trong quán kem Hà Nội tường xanh, ánh đèn mờ ảo, những buổi trưa thứ bảy, chủ nhựt thỉnh thoảng thấy xuất hiện một anh Mỹ trẻ thích bắt chuyện với bọn con trai, chắc là để t́m bạn. Anh Mỹ này gốc Ba Lan, vui tánh, khá to con nên có biệt danh Bob Bự — Big Bob — lái chiếc xế x́-po màu đỏ. Sáu tháng hay một năm sau thấy vắng mặt, tôi hỏi. Ai đó có cho tôi biết thằng Big Bob đă qua đời ở Đà Nẳng.

Đậu tú tài toàn phần cuối niên khóa 1958-1959, thi vào ĐHSP học tiếp 3 năm. Về Chu Văn An dạy được 3 năm th́ tới năm 1965, lính Mỹ đổ bộ lên băi biển Đà Nẳng. Người Mỹ và lính Mỹ xuất hiện càng ngày càng đông trên đường phố Sài G̣n, ngày lẫn đêm, làm xáo trộn xă hội, môi sinh. Quán bar Mỹ mọc lên khắp nơi như nấm sau cơn mưa. Lúc mới tới, các anh lính Mỹ trẻ c̣n hiền lành, chưa ba gai. Lính cậu, sạch sẽ, trắng trẻo, thơm tho, có lư tưởng cao đẹp, dù đă phải trải qua nhiều cuộc huấn luyện đầy gian khổ ở quân trường. Tất nhiên cũng có lính Mỹ đen, nhưng tôi chỉ muốn phác họa, không muốn đi sâu vào vấn đề màu da.

Mỗi anh được phát cho một cuốn cẩm nang bỏ túi với các câu tiếng Việt để chào hỏi, xă giao. Dần dần, tiếp xúc với dân bản xứ khôn lanh, khôn vặt trong cuộc sống khó khăn chật vật, rồi thực tế phủ phàng của một cuộc chiến tranh tàn khốc. Đối diện thường xuyên với cái chết, uống bia, hút cần sa, nghe nhạc rock để quên, các chàng trai dễ thương ngày nào trở thành chai đá. Bị các chủ bar, gái bar moi tiền với ly trà Saigon Tea giá bằng một ly uưt-ky, họ trả đũa với tṛ chơi gái quịt trong hẻm, chơi rồi chạy — fuck and run.

Tôi c̣n nhớ một buổi chiều sắp tối, khi bước xuống tắc-xi đi bộ thêm một quăng trên đường Vơ Tánh về nhà, tôi thấy một cô gái không đẹp trong một con hẻm bước ra. Cô ta trang điểm phấn son, mặc đầm mặc đ́a loè loẹt, mái tóc mới uốn quăn có cài hoa, đi kiếm khách hay đi bán bar. Một anh xích lô chạy rề rề mời đi xe hay chọc ghẹo. Cô không chịu. Anh xích lô chửi: Hứ, làm bộ làm tịch, đẹp quá, công chúa [cải lương] ngàn lẻ một đêm.

Khi đi chấm thi với Nguyễn Trọng Văn ở Nha Trang, lúc đó có nhiều lính Mỹ và khách sạn Mỹ, tôi cũng gặp một trường hợp tương tợ. Một anh xích lô ngồi chồm hổm bên lề đường buổi tối chửi một cô gái buôn hương đi ngang qua thứ đồ đ. Mỹ. Để qua một bên chuyện nữ quyền, đây là một trường hơp dân tộc tính. Ngủ với một anh mít th́ ô kê, ngủ với một thằng mẽo th́ không được.

Tôi có căn phố nhỏ khang trang trong một con hẻm tráng xi măng h́nh chữ U từ mặt đường Vơ Tánh chạy ṿng ra phía sau rồi trở ra mặt đường, bao quanh ba phía căn biệt thự của một ông bác sĩ và ṭa đại sứ Tây Đức nằm cạnh nhau. Một căn nhà khác, mặt tiền xoay ra một con hẻm rộng hơn, như­ng chưa tráng nhựa. Con hẻm này nằm cạnh rạp cải lương Quốc Thanh của đoàn Thanh Minh-Thanh Nga và trường nữ trung học Đức Trí. Cửa sau có cửa sắt sơn trắng của căn nhà này, như cửa sắt nhà tôi, trổ ra con hẻm nhà tôi. Trong nhà đó có một cô gái 16, 17 tuổi ở trọ.

Buổi trưa cô gái này ra con hẻm trước nhà tôi nhảy c̣ c̣, nhảy dây với mấy đứa con gái nhỏ hơn. Chiều tối ở trường chạy Honda về nhà, thỉnh thoảng tôi gặp cô gái này mặc váy ngắn, trang điểm phấn son để đi bán bar. Con bé này muốn dê ông giáo sư trẻ, chụp h́nh màu Polaroid đút dưới khe cửa nhà tôi. Tôi đem tấm h́nh vô trường đưa cho Nguyễn Trọng Văn, giáo sư triết, tác giả cuốn tiểu luận gây nhốn nháo thời đó, Phạm Duy đă chết như thế nào, coi chơi. Nguyễn Trọng Văn lúc đó ưa nói chuyện gái gú — để tránh nói là bị ám ảnh bởi các em — có phát biểu một câu về tấm h́nh đó nhưng tôi không c̣n nhớ.

 

(c̣n tiếp)

  

 

Nguyễn Đăng Thường sinh tại Battambang, Cambodge (Campuchia) v́ thân phụ chống Pháp tranh căi với Phạm Quỳnh ở Hà Nội nên bị thuyên chuyển. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài G̣n khóa thứ nhất (1961) ban Pháp văn. Chọn nghề giáo v́ khóa học ngắn (3 năm) và chỉ phải dạy 16 giờ mỗi tuần. Ra trường được bổ về Chu Văn An (hậu thân của Trường Bưởi) và chỉ dạy ở đây cho tới khi ra hải ngoại. Không dạy trường tư. Như vậy có thể coi như đă làm nghề "gơ đầu trẻ" nhiều hơn là "bán cháo phổi".

Thích viết nhưng viết khó và lười và nên không có ươc vọng trở thành nhà văn nhà thơ. Nhưng sau khi măn lính chín tuần (1969) đă được anh Hoàng Ngọc Biên, bạn học ở trung học và anh Diễm Châu, bạn của anh Hoàng Ngọc Biên "rủ rê" nên viết thử chơi. Có một bài thơ hay một bài “Nhật kư tập thể” đăng trên số thứ ba của tờ Tŕnh Bày ra ngày 1 tháng Chín 1970. Tiếp tục đóng góp cho Tŕnh Bày cho tới khi rời Việt Nam sang Campuchia (1973) rồi sang Pháp (1974). Ra hải ngoại có văn thơ đăng trên Nhịp Cầu, Vietnam Culture, Thế Kỷ 21, Văn, Ngày Mới... và gần đây trên các trang báo mạng. Lao động trí thức khá nhiều nhưng may thay tới nay vẫn chưa thành nhà văn nhà thơ.

Tác phẩm:
Nguyễn Đăng Thường, Thơ (Thơ & Thơ dịch, Tŕnh Bày 1971). Dịch phẩm: Pablo Neruda, Hai mươi bài thơ t́nh và một bài ca tuyệt vọng (Tŕnh Bày, 1989); Blaise Cendrars, Văn xuôi của chuyến xe lửa xuyên Tây-bá-lợi-á và của cô bé Jehanne de France (sau đổi thành Văn xuôi đường tàu xuyên Tây-bá-lợi-á và cô bé Jehanne de France, Tŕnh Bày, 1989); Jacques Prévert, Thơ (dịch tập thơ Paroles chung với Diễm Châu, Tŕnh Bày, 1993); Samuel Beckett, Tưởng tượng đă chết hăy tưởng tượng (Tŕnh Bày 1996), Linda Lê, Tiếng nói (nxb Văn, 2003). Và nhiều bản dịch Samuel Beckett, Marguerite Duras, Marcelin Pleynet, Francois Auriégas, Jean Genet... và thơ truyện Nguyễn Đăng Thường do nhà Giọt Sương Hoa in vi tính theo dạng thủ công nghệ.
(theo tienve.org)

 

 

© gio-o.com 2015