Đọc Thơ Cùng Ngu Yên mỗi tháng một kỳ, ngoại trừ, đôi khi biệt lệ. Nội dung, giới thiệu một bài thơ "hay" và những câu thơ "hay", nhất là những câu thơ trên các mạng lưới văn chương hôm nay. Mục đích, chia xẻ thẩm mỹ và ư tưởng trong thi ca của người Việt đương đại, từ một góc nh́n hết sức cá nhân.

 

"Hay" được nhắc đến trong tiết mục này, hoàn toàn kỹ thuật. Kỹ thuật không phải là nghệ thuật, v́ vậy, cái "hay" tất nhiên thiếu sót và nông cạn. Thi sĩ Lawrence Durrell (1912-1990) viết rằng: "Thi ca là những ǵ xảy ra, khi sầu lo, khắc khoải, ước ao, gặp gỡ kỹ thuật  (làm thơ)." Có nghĩa, kỹ thuật đóng vai phụ, nhưng lại thay thế vai chính vô h́nh, để ra diễn trước khán giả. Kỹ thuật cao không hẳn làm thơ hay, nhưng những bài thơ hay thường có kỹ thuật cao.  Hơn nữa, cho dù bất kỳ là ai, cái "hay' nh́n từ một cá nhân luôn luôn bị giới hạn.

 

Đem những kỹ thuật của các học thuyết Đông Tây vào ngôn ngữ Việt, nhất là ngôn ngữ thơ, là công việc của người mù cố gắng xem hoa màu ǵ, sau khi nghe người khác kể lại. V́ vậy, xin nhận lỗi trước những sơ sót, sai lầm và xin chỉ giáo tại nguyen112052@gmail.com.

 

Sau cùng Đọc thơ cùng Ngu Yên nghĩa là chúng ta, những người yêu thi ca, cùng nhau đọc thơ và Ngu Yên chịu trách nhiệm; không liên quan đến người khác và mạng lưới Gió-o. Dĩ nhiên, Ngu Yên sẽ nói những ǵ chưa chắc tác giả muốn nói hoặc họ nói từ vô thức không phải từ ư thức. Và chắc chắn có khi Ngu Yên sẽ không nói được những ǵ tác giả thật sự muốn nói. Nhưng đó cũng là luật của tṛ chơi chữ nghĩa. Về giá trị của bài thơ, cá nhân Ngu Yên rất cảm kích câu nói của thi sĩ Robert Frost (1874-1963) và mong muốn thơ Việt càng lúc càng nghệ thuật cao, dày và nhiều giá trị hay: " Một bài thơ bắt đầu từ khoái cảm và chấm dứt bằng thông thái."

 

Ghi chú: Bài thơ hay và những câu thơ hay sẽ không để tên tác giả, để tránh tâm lư; thương: củ ấu tṛn; không thương: quả bồ ḥn méo. Tên tác giả và nguồn sẽ xuất hiện trong kỳ tiếp theo.

 




Những Câu Thơ/ Đoạn Thơ Tuyển Trong Tháng Mười Một,  2015

Tháng này, đọc qua những luới thơ như gio-o.com; vanviet.info; diendan.org; damau.org. tienve.org... Ngu Yên chọn giới thiệu những đoạn thơ, bài thơ liên quan đến nhân vật "Tôi".

Cái "Tôi" thay thế cái "Ta" ngự trị trong ḍng thơ Việt đă lâu, đến nay vẫn c̣n dẫn đầu. Thơ phát xuất, dĩ nhiên, phải từ cái "Tôi" hoặc cái "Ta", nhưng thơ thể hiện, không nhất thiết phải có "Tôi" hoặc "Ta". Khi Tôi/Ta  xuất hiện trong bài thơ, trở thành trung tâm cuốn hút, tất cả ư tứ h́nh ảnh chữ nghĩa xoay chung quanh. Tất nhiên tâm t́nh và cảm xúc cũng xoay quanh. Sự chủ quan cần thiết cho sáng tác nhưng chủ quan với quá nhiều t́nh cảm khiến thơ sướt mướt, thời lăng mạn ấy nay đă qua. Dejan Stojanovic nói," Để che giấu cảm xúc khi bạn gần bật khóc là một bí mật của chân giá trị" (To hide feelings when you are near crying is the secret of dignity.)

Sự chủ quan với tưởng tượng cộng thêm ư muốn t́m tứ lạ, khiến cho thơ trở nên đặt điều, bịa những h́nh ảnh có ư mà không có t́nh, lạnh lẽo. Thơ trong mô h́nh này, chưa bao giờ có chỗ đứng trong thi ca. "Trở ngại lớn nhât của khám phá không phải là ngu dốt mà là ảo tưởng của hiểu biết." Daniel J. Boorstin.

Nôn nóng làm thơ hay thường sinh ra làm thơ theo ư bịa, tứ bịa, không có cảm xúc thật sự v́ không phải kinh nghiệm hoặc thực tế được tiếp nhận từ ngủ quan, nhất là thị giác và thính giác. Như vậy thơ chỉ có ư mà không có t́nh. Như một trái xanh bị hái vội, chín héo thay v́ giữ trên cây, giữ trong ḷng, chờ lúc chín mùi. "Tất cả thi sĩ, ai cũng có lúc làm thơ dở. Thi sĩ dở xuất bản những bài này, thi sĩ hay đốt những bài dở." Umberto Eco.

Không có Tôi/Ta, người đọc cảm được sự tách rời của tác giả ra khỏi ư tứ thơ, đứng xa sự kiện, quan sát, suy tư rồi ghi xuống hoặc hồi tưởng chuyện xảy ra, pha vào hư cấu, rồi kể lại. Những thực tế được thơ hóa nói lên những vấn đề chung của xă hội, của người, từ góc cạnh cá biệt của một nhà thơ.

Không có Tôi/Ta cũng chỉ là một cách làm thơ trong nhiều cách sáng tác thơ.

Cách làm thơ này biểu trọng sự tiết chế t́nh cảm như T.S.Eliot viết, " Thơ không phải là thả lỏng cảm xúc, nhưng là phương tiện thoát ly sự xúc động; không phải là diễn cảm cá tính, mà  trốn khỏi cá tính..." (1). Tại sao cần tiết chế t́nh cảm? V́ con ngựa không cương, khi phóng nước đại, th́ không thể biết vó câu để lại những ǵ? Có thể là những dấu chân đẹp trên băi cát hoang, nhưng cũng có thể những dấu chân dẫm nát vườn hồng. Khi t́nh cảm được điều tiết để có sự cân bằng với trí tuệ th́ sự kể lại mới rơ ràng. Đường lối này ngược lại với chủ trương Siêu Thực truyền thống và thỏa thuận với Siêu Thực hiện đại. Nếu chỉ tường thuật th́ như Hiện Tượng Luận, (Phenomenological theory); nếu tường thuật với hư cấu th́ như Tượng Trưng (Symbolism); nếu biến thực tế thành ảo th́ như Hóa Ảo Hiện Thực (Magic Realism); nếu vượt lên hiện thực vào cơi vô thức th́ như Siêu Thực (Surrealism)...Nhưng tất cả mọi đường lối đều phát ra từ thực tại, từ thực tế, từ một kinh nghiệm sống hoặc một trực giác giải mă. Trong Creative Intuition in Art and Poetry, Jacques Maritain viết, " V́ nghệ thuật là một hiệu lực của trí tuệ, nó đ̣i hỏi sự thông tri với toàn cơi trí năng. Do đó, môi trường tự nhiên của nghệ thuật là trí tuệ và hiểu biết: Là đất sống b́nh thường, là di sản văn minh theo một hệ thống nhất quán, kiên định của niềm tin và giá trị; Là chân trời b́nh thường, là sự vô hạn của kinh nghiệm được mở sáng bởi đă thấu hiểu đam mê của đau khổ hoặc là các hiệu quả trí tuệ của một tâm hồn trầm tư.."

 

1.

hắn nhảy phóc qua bờ thiên đàng
bằng một tiếng nổ
gài sẵn
hắn nh́n ngoái lui
rất khoái
ḱa, bờ bên kia
thịt
máu
nở rộ
như pháo bông
tung tóe

 

địa ngục
chẳng qua là
phía khác của thiên đường

 

bằng tiếng nổ
hắn có cả hai
cùng một lúc

 

baby-faced bilal hadfi 
ai chế tạo
chiếc mặt nạ thật hoàn hảo như thế này?

 


photo: telegraph.co.uk

 

Bài thơ ngắn này không có ǵ khó hiểu. Lời lẽ ung dung, b́nh thường. Đọc hiểu liền dù có ẩn dụ và tượng trưng, nhưng là những ám chỉ dễ cảm nhận. Dùng câu chuyện thời sự như một ngụ ngôn. Chuyện kể việc khủng bố nổ bom tại vận động trường Stade de France ở Paris trong tháng mười một vừa qua. Khủng bố nổ bom, tấn công các quốc gia tây phương là chuyện đă xảy ra nhiều lần, dù kinh hoàng thảm thương, người theo dơi thời sự, không thấy ǵ khác lạ.

Tác giả thấy khác lạ. Kinh ngạc về một khuôn mặt ngây thơ của tên khủng bố trẻ, mới 20 tuổi. Có biệt danh "Khủng bố mặt nhi đồng", baby-faced bilal hadfi.

Bài thơ không chú trọng thuyết phục người đọc về thảm cảnh, v́ chuyện ấy đă nhàm trên tin tức;  Không lên án tội ác rầm rộ, v́ chuyện ấy đă có các chính trị gia và những người chống Isis / Al Qaida; Không kêu gọi lương tri đạo đức, v́ chuyện ấy đă có tôn giáo thắp nến đốt nhang. Bài thơ chỉ đơn giả nói về tiếng nổ.

Một âm thanh nổ lên, nhiều người chết, mỗi người mỗi niềm tin. Nhân vật chính, trong tiếng nổ, con đường ngắn nhất, không cần tu hành, không cần làm việc thiện, tức tốc vào thiên đàng. Chưa hẳn v́ chính nghĩa, chưa hẳn v́ phản kháng, chỉ đơn thuần chán cuộc đời này và nhảy phóc qua đời khác, nơi được trọng thưởng. Quá dễ dàng, chỉ bằng nổ.

Tác giả dùng những mệnh đề ngắn gọn, tạo không khí sắc bén và khách quan, phong cách tường thuật tin tức thời sự.

Bài thơ đă có thể chấm dứt ở câu: cùng một lúc. Nhưng tác giả mở ra một câu hỏi khác: baby-faced bilal hadfi  / ai chế tạo / chiếc mặt nạ thật hoàn hảo
như thế này?
Và chúng ta thấy bức h́nh kèm theo. Một khuôn mặt nhi đồng ngây thơ thánh thiện, ai biết được đă th́ hành những động tác dă man, giết hại người vô tội? Câu hỏi đặt lại sự hoài nghi, một lần nữa, dáng vẻ bề ngoài của một người không thể làm bằng chứng cho tâm hồn. Như vậy, v́ sao hàng ngày, chúng ta lại cả tin vào dáng vẻ, khuôn mặt của người chung quanh? Liệu người mang khuôn mặt hiền ḥa phúc hậu kia, không âm thầm toan tính, độc ác trong ḷng? Liệu người nói năng đạo đức, nhân danh lẽ phải, lại không thâm hiểm, ngược ngạo bên trong? Liệu người trông h́nh dong thiếu tin tưởng, vẫn có thể là người bạn lâu dài? Mỗi người đều có một loại mặt nạ, chỉ khác nhau, kín hoặc hở, dày hoặc mỏng và mặt nạ giống cái ǵ, con ǵ.

Tấm h́nh là kư hiệu không lời. Không có lời thơ nhưng là một phần của bài thơ. Hăy đọc những kư hiệu, những ư nghĩa từ khuôn mặt, ánh mắt và ngón tay trỏ đưa lên. Một bài thơ khác trong tấm ảnh, bài thơ mà mỗi độc giả phải tự sáng tác lấy.

 

2.

 

Câu chuyện của thực tại, của kinh nghiệm, không nhất thiết là chuyện của bản thân. Nhà thơ, trước hết , có khả năng nhạy cảm với chuyện đời, nhất là những chuyện che giấu sự thật.

Chuyện kẻ sĩ ngồi câu cá, mượn nơi xa vắng nhân gian, mượn thời giờ tĩnh lặng, mượn h́nh ảnh kẻ câu, để suy tư cuộc đời, để toan tính thế sự thăng trầm, để tâm tư nhập vào một thế giới khác. Chuyện ấy là tứ thơ quen thuộc. Chuyện người đàn bà đan áo, cũng là một tứ thơ xa xưa nhưng măi đến hôm nay vẫn không khác, đan áo là một sự chờ đợi, kiên nhẫn, nhu ḿ. Đan cho nhu cầu thiếu áo lạnh. Đan v́ ḷng yêu thương. Đan theo thói quen mũi len đường dệt trong khi ḷng âm thầm nghĩ chuyện đời sống, chuyện chồng con, chuyện làm người.

Khả năng tất có thứ hai là diễn đạt những hiểu biết hoặc kinh nghiệm từ những sự kiện thực tế này vào thi ca. Khả năng diễn đạt này nếu không sắc bén, không tinh tế đủ, nếu không nắm bắt gọn ghẽ những yếu tính, ư nghĩa của đối tượng, th́ tác giả có thể viết văn.

Sự khác biệt giữa một câu chuyện kể lại và một câu chuyên văn chương nằm ở nghệ thuật diễn tả. Ở quan điểm này, nhà văn Julio Cortázar, trả lời trong bài phỏng vấn với tạp chí Paris Review số 83, 1984, rất rơ ràng. Đối với ông, một văn bản chính trị, (hoặc thời sự, hoặc kể lể) là văn bản thường với mục đích chính trị (hoặc thời sự, hoặc kể lể), c̣n văn bản văn chương về chính trị (hoặc thời sự, hoặc kể lể) là văn bản có giá trị nghệ thuật. Tŕnh độ diễn đạt văn chương đóng một vai tṛ chủ yếu trong lănh vực này.

 

Giữa chiều lạnh

một người đàn bà

ngồi đan bên cửa sổ

vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vă

nhẫn nại

như thể đó là việc phải làm suốt đời

vội vă

như thể đó là lần sau chót

 

Không thở dài

không mỉm cười

chị đang giữ kín đau thương

hay là hạnh phúc

ḷng chị đang tràn đầy niềm tin

hay là ngờ vực

 

Không một lần chị ngẩng nh́n lên

chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt

hay sau buổi chia ly

trong mũi đan kia

ẩn dấu niềm hân hoan hay nỗi âu lo

trong đôi mắt kia

là chán chường hay hy vọng

 

Giữa chiều lạnh

một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ

dưới chân chị

cuộn len như quả cầu xanh

đang lăn

những ṿng chậm răi.

 

Bài thơ với ngôn ngữ b́nh thường, dễ hiểu, kể lại chuyện một người đàn bà b́nh thường, luống tuổi,  chịu đựng đời sống, không vui, không buồn; kiên nhẫn, đều đặn đợi chờ thời gian qua.

Người đàn bà ngao ngán thế sự bon chen, phức tạp và vô ích.

"Chiều lạnh" ám chỉ tuổi đời và tâm tư thâm trầm sóng gió.

"Ngồi bên cửa sổ" ám chỉ sự trông chờ; hoặc đợi chờ ai, hoặc đợi chờ định mệnh.  Có tâm sự tư lự nên vừa nhẫn nại, vừa vội vă.

"Dưới chân chị" ám chỉ không quan tâm mấy, xem nhẹ sự t́nh.

"Cuộn len như quả cầu xanh" ám chỉ ḍng thời gian.

Cho dù v́ Thượng Đế định đoạt, v́ nhân quả mà nên, v́ xă hội tạo ra, v́ bất cứ một quyền lực nào sai khiến, cuối cùng vẫn là: mỗi người đă tự đan dệt đời ḿnh bằng ḍng thời gian. Tất cả c̣n lại chỉ là cái cớ.

Những câu này đă đủ cho bài thơ, tạo không khí lạnh lùng, im ắng và những sinh hoạt từ tốn, chậm răi nói lên tâm tư và suy nghĩ của nhân vật:

 

Giữa chiều lạnh

một người đàn bà

ngồi đan bên cửa sổ

vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vă

nhẫn nại

như thể đó là việc phải làm suốt đời

vội vă

như thể đó là lần sau chót

 

Giữa chiều lạnh

một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ

dưới chân chị

cuộn len như quả cầu xanh

đang lăn

những ṿng chậm răi.

Những câu khác chỉ có nhiệm vụ làm rơ nghĩa và hướng dẫn người đọc đi xa hơn vào tâm sự của nhân vật.

Ưu điểm của bài thơ này là cách ẩn giấu cảm xúc trong văn phong. Người đọc cảm được tâm tư, và nỗi thầm lắng, ứ đọng lâu ngày trong tâm hồn. Những thứ buồn phiền của đời đàn bà đến một tuổi nào, đă mục nát, đă thấm vào tận xương tủy. Những than trách cũng học được cách câm lặng. Nhưng tuyệt nhiên người đọc không đọc được những chữ than văn, bi ai nào. Chỉ cảm thôi.

Nhà thơ không thể kiểm soát những ǵ xảy ra nhưng có thể kiểm soát những ǵ thu vào từ những xảy ra, từ đó, có sự chọn lựa thẩm mỹ.

 

Bài Thơ Tuyển Tháng Mười Một,  2015.

 

Tôi chọn bài thơ này, trước hết v́ chữ "Ta". Trong khi những bài thơ bên trên, Tôi/Ta vắng mặt ; Ta xuất hiện ở đây như một tượng trưng. Ta không trực tiếp là tác giả, mà gián tiếp tiêu biểu cho suy tư của nhà thơ.

"Ta" tiêu biểu cho "suối" ám chỉ "Tôi". Cũng là một cách điều tiết cảm xúc để bày tỏ trí tuệ.

"Ta" không phải là con suối, mà là nguồn suối, nơi phát sinh ḍng nước. V́ vậy, Ta, có thể vượt qua "Tôi" để đại diện cho điều ǵ cao kỳ hơn: Quê hương, dân tộc (Nước là T́nh Yêu ta / ... bởi v́ ta yêu nên ta là cội nguồn.) hoặc cao hơn nữa, là ḍng tự nhiên của đời sống.( Nước lên hương ban mai / Nước mát rượi ban trưa / Nước dịu dàng chiều hôm / Khi đêm về hư ảo...)

Bài thơ cấu trúc dựa và câu sườn: Hăy chảy đi, chảy đi. Được lập lại ở đầu của mỗi đoạn như lời nhắc nhở nước hăy chảy, tiếp tục chảy. Ám chỉ ḷng âu lo cho ḍng suối có thể hoặc có triệu chứng bị ngưng trệ.

V́ sao bị ngưng trệ? v́ quá nhiều câu hỏi mà không có câu trả lời. Khi bị vây khốn bởi thao thức mà không có lối ra, phải chăng là tắt nghẽn? (Đừng hỏi nước khởi nguồn v́ đâu? T́nh yêu đến từ đâu?) V́ chẳng bao giờ có câu trả lời thỏa đáng về những vô lư trong đời sống. Vậy nên làm ǵ? - Đừng bao giờ ngoảnh lại / Hăy chảy đi, chảy đi / và đừng hỏi...

 

Lời của nguồn suối

 

Hăy chảy đi, chảy đi

Bởi v́ ta cần mang cho

Bởi v́ ta không khi nào cạn

Bởi v́ ta không khi nào tính đếm

 

Hăy chảy đi, chảy đi

Ta chỉ đầy lên khi cho đi

Sự tráng lệ của những ḍng sông lớn

Khởi từ sức mạnh của mạch nguồn

Sự trầm tĩnh của những ḍng sông lớn

Khởi từ sự bền bỉ

 

Hăy chảy đi, hăy chảy đi

Đừng hỏi nước khởi nguồn v́ đâu?

Đừng hỏi T́nh Yêu khởi nguồn từ đâu

Nước là Tinh Yêu ta

T́nh Yêu là nước nên ta măi măi

Bởi v́ ta yêu nên ta là cội nguồn.

 

Hăy chảy đi, chảy đi

Đừng bao giờ ngoảnh lại

Nước lên hương ban mai

Nước mát rượi ban trưa

Nước dịu dàng chiều hôm

Khi đêm về hư ảo

 

Hăy chảy đi, chảy đi

Và đừng hỏi…

 

Bài thơ này cũng sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu. Không có mỹ từ hoa lệ. Không có triết lư âm u. Không có tứ thơ phức tạp. Sự đơn giản tạo bài thơ trong sáng. Ngôn ngữ thơ dễ hiểu để cưu mang ư tứ và ám chỉ sâu sắc hoặc cao kỳ là con đường tiếp cận người đọc một cách thông minh.

John Cheever viết, "Tôi không thể sáng tác mà không có độc giả. Điều đó hoàn toàn chính xác như nụ hôn, không ai có thể hôn một ḿnh."  Nếu làm thơ mà không cần độc giả, tức là chỉ muốn hôn gió. Nếu cần độc giả, th́ v́ sao lại làm cho họ không hiểu ḿnh, không chia xẻ được điều ḿnh viết? Ngoại trừ tác giả muốn viết cho một thành phần đặc biệt nào, như sách của Stephen Hawking dành cho các giáo sư cao cấp hoặc cho các nhà bác học.

Bất cứ bài thơ nào, cũng đều có nhân vật chính. Nhân vật lộ diện hoặc ẩn ḿnh; nhân vật trực tiếp, hoặc gián tiếp, hoặc ám chỉ. Nhà thơ chọn lựa cách thế của nhân vật đại diện cho suy tư và t́nh cảm của bản thân, là xác định cách diễn đạt bài thơ.

Những thơ trong tháng được tuyển chọn để t́m hiểu nét đẹp, vẻ hay và nhấn mạnh nhân vật chính trong bài thơ.

Thân ái, một ngày vui với thơ.

Houston, 10 tháng 12 năm 2015.

Ngu Yên  

 

 Ghi:

(1)  "Poetry is not a turning loose of emotion, but an escape from emotion; it is not the expression of personality, but an escape from personality..." T.S.Eliot.

 

 

 

© gio-o.com 2015