Allen Ginsberg
Carl Solomon
HÚ
HOWL
Phần I
Ngu Yên chuyển thơ
Dẫn
Phần đầu là bài thơ Hú phần 1. Tiếp theo là Ghi chú cho bài Hú phần 1. Tiếp nữa là phần Tóm Lược chung quanh tác phẩm Hú và phần cần chú ư là phần chuyển thơ 3 hàng: Hàng đầu là nguyên tác, hàng 2 là chuyển sát nghĩa và hàng 3 là chuyển theo ư thoát.
Bài thơ
Tôi chứng kiến những trí tuệ tuyệt hảo (1) của thế hệ tôi (2) bị hủy hoại bởi điên cuồng, phẫn nộ nghèo đói chết trần trụi,
họ thất thiểu qua đường phố da đen cho tới b́nh minh t́m trác táng xoa dịu ḷng giận dữ, (3)
nhóm hip-py tâm tưởng cao siêu nôn nao hướng thượng t́m siêu nhiên nguyên thủy (4) trong cơ trời ban đêm lấp láy đầy sao,
những kẻ nghèo hèn rách rưới mắt thất thần đang hút say lờ ngờ ngồi chồm hổm khật khù hưởng thụ nhạc Jazz trong bóng tối huyền ảo khi làn mưa lạnh trải dài qua phố xá,
những kẻ lột trần trí tuệ đối với thiêng đường (5) của Thượng Đế rồi trông thấy thiên thần Hồi Giáo lao xao soi sáng trên dăy nóc chung cư,
những kẻ học qua đại học với đôi mắt tỏa rực ảo giác tiếp tục trên đường đời (6) và bi kịch tri thức của Blake (6) trong đám học giả chuyên nghiệp chiến tranh,
những kẻ bị đuổi khỏi đại học v́ điên cuồng & truyền bá những lời ca tục tĩu trên cửa sổ vẽ đầu lâu, (8)
những kẻ c̣n mặc quần lót nằm co ro trong pḥng bề bộn, đốt tiền trong giỏ rác rồi lắng nghe Bạo động qua vách tường,(9)
những kẻ bị lục soát lông háng, đi về từ Laredo đến New York, giấu cần sa quấn lưng ruột tượng,
những kẻ hút lửa trong khách sạn rẻ tiền hoặc say dầu thông trong khu Paradise Alley (10), đă chết, hoặc trừng phạt thân xác từng đêm
bằng hoang tưởng, ma túy, mộng du, rượu chè, dâm dục đồng tính và chơi bời trác táng,
những đường mây vô cùng mờ mịt đang giao động với sấm chớp trong trí tưởng nhảy vọt về hướng Gia Nă Đại & Paterson, chiếu sáng toàn thế giới bất động trong thời gian khoảnh khắc. (11)
Những tường pḥng vững chắc thấy mờ ảo (12), những b́nh minh tang tóc (13) trên cây xanh sau sân, những say xỉn trên mái nhà (14), những mặt cửa hàng trong phố bán cần sa (15) treo đèn nê-ông tưng bừng chớp nháy như đèn giao thông, mặt trời mặt trăng và cây lá rúng động trong chiều đông chạng vạng gió gào ở Brooklyn, thùng rác bộng kêu và ánh sáng tuyệt đỉnh bừng bừng lên tâm trí,
những kẻ bám sát theo đường xe điện ngầm chạy bất tận từ Battery hướng về thánh địa Bronx trong cơn say thuốc benzedrine cho đến khi tiếng bánh xe thắng và đám trẻ em làm họ tỉnh thức rùng ḿnh hả miệng như đập vào đầu óc trống rỗng đă chảy cạn trí khôn, dưới ánh đèn ảm đạm bên sở thú,(16)
những kẻ ch́m đắm suốt đêm dưới ánh đèn tù mù hắt ra từ quán ăn Bickford (17) và ngồi suốt chiều uống bia nhạt nhẽo trong quán Fugazzi tồi tàn, lắng nghe rạn vỡ của mệnh đời từ thùng máy nhạc hyddrô,(18)
những kẻ nói không ngừng suốt bảy mươi hai giờ từ công viên ra đường phố qua quán rượu Belevue qua bảo tàng viện đến cầu Brooklyn,
đám tàn quân lang bang nhiều kẻ hùng biện lư tưởng nhảy xuống thang cấp rời lối thoát hỏa hoạn rời ngưỡng cửa sổ rời lầu Empire State ra khỏi mặt trăng,
huênh hoang la hét nôn mửa phều phào những chuyện thật, chuyện kỷ niệm, chuyện tào lao, chuyện bắt mắt (19), chuyện khó tin trong bệnh viện, nhà tù và chiến tranh,
cả đám người trí thức mửa ra để nhớ lại toàn bộ bảy ngày đêm mắt vẫn tỉnh táo, thịt cho Hội đạo Do Thái quăng bên lề đường, (20)
những kẻ vào vô định t́m Zen tới New Jersey để lại dấu vết qua h́nh ảnh mơ hồ trong những bưu thiếp về Ṭa Thị Chính Atlantic (21),
đau khổ v́ mồ hôi Đông Phương, bệnh nhức xương Tangerian, bệnh đau đầu đông Trung Hoa khi tan cơn say thuốc trong căn pḥng tồi tàn ở Newark, (22)
những kẻ lang thang quanh quẩn trong sân ga xe lửa băn khoăn không biết đi đâu, vẫn đi, không có ai luyến tiếc,
những kẻ hút thuốc lá trong các toa hàng toa hàng toa hàng trôi dạt theo tuyết đưa về hướng những trang trại hẩm hiu của ông bà thời nghèo nàn, (23)
những kẻ học hỏi triết của Plotinus (24) thơ của Poe (25) tôn giáo của Thánh John Thập Tự (26) phép thần giao cách cảm và pháp thuật kabbalah (27) bởi vạn vật theo bản năng sinh hóa dưới chân họ tại thánh địa Kansas,(28)
những kẻ cô độc băng qua đường phố Idaho t́m kiếm thiên thần da đỏ hư ảo đă có lần là thiên thần da đỏ trong huyền thoại,
những kẻ tưởng rằng họ chỉ mê sảng khi phố Baltimore đèn sáng mập mờ trong ngây ngất siêu nhiên,
những kẻ chui vào xe limousine với người Tàu ở Oklahoma trong cơn bốc đồng dưới ánh đèn đường giữa đêm mùa đông mưa rơi trên phố nhỏ,
những kẻ lang thang đói khát đơn độc băng qua Houston t́m nhạc Jazz, t́nh dục, xúp nóng rồi theo chân người Tây Ban Nha đàm luận về Hoa Kỳ và Vĩnh Cửu, một việc vô vọng, thôi th́ lên tàu thủy đi Châu Phi,
những kẻ biến mất vào núi lửa Mễ Tây Cơ (29) không để lại dấu vết nào ngoài trừ chiếc bóng bộ quần áo vải thô (30), nham thạch và tro bụi thi ca tung hê trong ḷ sưởi ở Chicago,
những kẻ thường xuất hiện ở Vùng Biển Tây, bị FBI theo dơi, để râu mặc quần sọt có đôi mắt lớn hiền ḥa làn da ngâm đen gợi cảm, phân phát những truyền đơn đọc khó hiểu,
những kẻ đốt thuốc lá lủng lỗ trên tay phản đối khói thuốc hút gây hại của chủ nghĩa tư bản,
những kẻ truyền bá sách bỏ túi Siêu Cộng Sản trong Công Trường Union đang khóc lóc và cởi hết áo quần khi tiếng c̣i từ Los Alamos như than khóc trấn áp họ, than khóc trấn áp phố Wall, tiếng c̣i phà Staten Island cũng than khóc, (31)
những kẻ xúc động bật khóc trong pḥng thể dục trần truồng run rẩy nh́n thiết bị cho những người da bọc xương, (32)
những kẻ ngang nhiên lừa bịp đám công an (33) và sung sướng hét la trong xe cảnh sát không phạm tội ác ǵ chỉ tự họ phóng túng khai man dâm dục đồng tính và say rượu,
những kẻ qú gối tru tréo trong xe điện ngầm, bị lôi kéo ra khỏi nóc ga, giăy giụa ḷi cu tay vùng vằng bản thảo,
những kẻ tự hiến thân cho đám thiên thần lái xe mô-tô lắp đít (34) và rên xiết khoái lạc,
những kẻ bú và bị bú bởi người nhà trời (35), đám thủy thủ, Đại Tây Dương âu yếm và biển Ca-ra-bê t́nh tự,
những kẻ chơi bời suốt sáng suốt chiều ngoài vườn hoa trên đám cỏ công viên hoặc ngoài nghĩa địa, tinh trùng tung tóe vô tư vào bất kỳ ai đến gần bất cứ ai thuận tiện,
những kẻ nấc lên không ngừng khi cố gắng cười nhưng đau quá khóc thổn thức sau vách che pḥng tắm hơi Thổ Nhĩ Kỳ khi thiên thần tóc vàng khỏa thân tiến vào tuốt kiếm đâm (đít) họ,(36)
những kẻ mất t́nh trai v́ ba mụ già hắc ám trong chuyện thần thoại (37), bà ác độc nhăn chuyên nhận tiền phụ cấp của đàn ông, bà ác độc nhăn dùng tử cung ra lệnh và bà bà ác độc nhăn rỗi công vô nghề ngồi tại chỗ cắt dần sợi chỉ trí tuệ quí báu từ những thợ thuyền chỉ c̣n là chiếc bóng lờ mờ,
nhưng kẻ chơi bời say mê không hề thỏa măn, chỉ cần chai bia t́nh nhân thuốc lá đèn cầy, chơi quá trớn rớt xuống giường tiếp tục trên sàn nhà lăn ra hành lang, kết cuộc mệt muốn xỉu dựa vào vách tường c̣n mơ ṃng cái lồn lần cuối để xuất tinh tống cho ra hết khí khi c̣n tỉnh táo,
những kẻ bắt dễ dàng một triệu thiến nữ run sợ lúc hoàng hôn, thức đỏ mắt đến b́nh minh nhưng được sữa soạn để dễ dàng bắt lấy mặt trời, khoe mông nơi các trạm xe và trần truồng tắm hồ.
những kẻ t́m chơi đĩ băng qua Colorado bằng vô số xe ăn cắp về đêm (38), qua North Carolina, vai chính trong các bài thơ là đĩ đực như thần Adonis ở Denver (39)--- khoái trá khi nhớ lại nhiều lần chơi gái không kể xiết (40) trong băi đất trống & vườn sau quán ăn, hàng ghế rung rinh trong rạp chiếu bóng, trên núi cao trong hang động hoặc với đám hầu bàn đanh đá cô đơn vén váy lót dọc đường quen thuộc & nhất là nơi trạm xăng kín đáo chứng tỏ hiện hữu trong pḥng vệ sinh (41) & cũng như trong những ngơ hẻm quê nhà,
những kẻ đắm ḿnh vào cơi phim dâm dục mênh mông, thấm vào chiêm bao, giật ḿnh thức giấc giữa Manhattan, gượng dậy lê thân ra khỏi hầm nhà, say nhừ bởi rượu ToKay bất cần và những giấc mơ tàn nhẫn trên đường Third Avenue khiếp đảm & loạng choạng đi tới sở thất nghiệp,
những kẻ đi suốt đêm mang giày bê bết máu trong bến tàu đậu đầy tuyết, chờ cánh cửa East River mở ra để vào pḥng hơi ấm rồi hút thuốc phiện, (42)
những kẻ bày ra thảm kịch tự tử trong chung cư trên bờ sông thành phố Hudson dưới ánh trăng xanh sánh như đèn pha thời chiến tranh và họ cần được ân xá để đội lên đầu ṿng nguyệt quế,
những kẻ tưởng tượng ăn thịt cừu hầm hoặc chờ tiêu thịt cua từ đáy bùn dưới sông vùng Bowery,
những kẻ hay khóc v́ những chuyện bao đồng ngoài đường, đẩy xe chợ chứa đầy hành tây và nhạc loại tào lao,
những kẻ ngồi trong thùng (43) hít thở trong bóng tối dưới gầm cầu, rồi chui lên sáng chế cây đàn Clavico trong những căn gác nhỏ,
những kẻ ho hen trên lầu sáu trong khu Harlem đầu nóng như lửa trong không khí lao phổi bao quanh bởi ảo vọng chữa bệnh nhờ sức mạnh thiêng liêng, (44)
những kẻ viết vội vă suốt đêm cho kịp hứng khởi dồn dập lúc lên cao xuất thần để khi nắng vàng ban mai chiếu rơ thấy những đoạn thơ lẩm cẩm,
những kẻ nấu xúp bằng phổi tim chân đuôi thú vật chết śnh ăn với bánh tráng ngô rồi mơ đến vương quốc chay tịnh rau cải,
những kẻ lao vào gầm xe tải chở thịt để t́m một quả trứng, (45)
những kẻ quăng đồng hồ đeo tay khỏi nóc nhà như bỏ phiếu chọn lựa sự Bất Diệt ngoài Thời Gian v́ đồng hồ báo thức đập vào đầu họ mỗi ngày cho đến thập niên sau,
những kẻ cắt cổ tay ba lần liên tiếp không thành công, chán nản đành mở tiệm bán đồ cổ chờ đợi chết già và than thở, (46)
những kẻ bị thiêu sống trong bộ đồ nỉ dạ vô tư trên đại lộ Madison giữa những bùng nổ của câu thơ năo nề & tiếng ồn ào náo loạn từ đám đông cứng ngắt theo thời trang & tiếng cười khích thích từ những mỹ nhân quảng cáo & hơi ngạt năng nổ bởi những chủ bút thông minh đầy sát khí, hoặc bị rượt đuổi đến tận cùng bởi đám tắc xi say xỉn của Thực Tại Tuyệt Đối,
những kẻ nhảy khỏi cầu Brooklyn chuyện xảy ra có thật nhưng biến mất biệt tăm bị quên lăng vào mê muội ma ám trong các hẻm bán ḿ ở phố tàu & xe chửa lửa, thậm chí không một chai bia nào miễn phí,
những kẻ thất vọng hát từ cửa sổ, ngă ra khỏi cửa xe điện ngầm, nhảy xuống khúc sông Passaic dơ bẩn, nhảy lên trà trộn đám da đen, khóc lóc khắp phố phường, múa với ly rượu bể trên chân đất giậm nát đĩa nhạc Jazz Đức năm 1930 thâu nỗi buồn Âu Châu nốc cạn rượu mạnh rồi nôn mửa trong bồn cầu bẩn thỉu, nghe đầy than văn và hồi c̣i của tàu dềnh dàng chạy hơi nước,
những kẻ phóng xe nhanh trên các xa lộ qua hành tŕnh dài đến cùng nhau ngắm nh́n xe tân trang h́nh Núi Sọ như cô đơn trong tù (47) hoặc sự xuất hiện của nhạc Jazz Birmingham,
những kẻ lái xe băng ngang đất nước trong bảy mươi hai giờ để t́m hiểu tôi có tuệ nhăn hoặc anh có tuệ nhăn hoặc hắn có tuệ nhăn nh́n thấu sự Bất Diệt,
những kẻ đến Denver, những kẻ chết ở Denver, những kẻ trở về từ Denver & mong chờ vô ích, những kẻ theo dơi Denver & thao thức & đơn độc tại Denver rồi cuối cùng ra đi t́m kiếm Thời Cơ, & bây giờ Denver bơ vơ chờ đợi những anh hùng,
những kẻ qú gối trong các đại thánh đường cầu nguyện cho nhau được cứu rỗi được trí khôn được t́nh thương, cho đến khi linh hồn thoáng một giây tự dưng tỏa sáng,
những kẻ tự đào sâu vào tâm trí lúc trong tù chờ đợi những tội ác không hề xảy ra trong đầu óc quí báu và sức hấp dẫn của thực tế trong tim những kẻ hát nhạc Blues trầm ấm trong ngục Alcatraz,
những kẻ về hưu đến Mễ Tây Cơ tu dưỡng tính t́nh, hoặc lên dăy núi Rocky cầu nguyện với Phật hoặc đi phố cảng Tangiers t́m bạn thân hoặc đến Nam Thái B́nh Dương t́m nguồn sinh lực da đen hoặc đến đại học Harvard t́m hoa Thủy Tiên t́m khu Woodlawn t́m vườn hoa Cúc và mộ phần, (48)
những kẻ đ̣i hỏi các phiên ṭa công chính, kết án đài phát thanh tội thôi miên rồi họ bỏ đi trong trạng thái điên rồ và bàn tay họ như treo cổ bồi thẩm đoàn,(49)
những kẻ quăng món xà lách khoai tây vào giảng viên đại học công đồng New York (50) phản đối phong trào Dada (51) rồi sau đó tự thú ở thang cấp đá hoa cương vào nhà thương điên với đầu cạo trọc và nói năng càn dở đ̣i tự tử, cần phải giải phẫu năo ngay lập tức,
những kẻ được nhận lănh thay v́ thật sự thiếu thốn năng lượng Isulin Metrazol chữa bệnh bằng ngâm nước chữa bệnh tâm lư chữa bệnh nghề nghiệp chóng đổi & chứng mất trí nhớ,(52)
những kẻ không có ư đùa giỡn phản đối xô ngă tượng trưng chỉ một bàn ping-pong, bị điều dưỡng ngắn hạn v́ bị rối loạn tâm thần,
vài năm sau quay về thấy đầu trọc lóc ngoại trừ một mảng tóc giả màu máu và nước mắt và ngón tay, rơ ràng là thân phận người điên bị giam cầm trong phố điên miền Đông, (53)
những đại sảnh hôi hám ở Rockland đất hành hương (54) và ở Greystone, căi lăng nhăng với tiếng vọng của linh, tiếp tục hứng khởi trên ghế dài đơn độc lúc nửa khuya giữa vương quốc mộ đá cho ái t́nh, chiêm bao đời ác mộng, thân xác hóa đá nặng nề như vầng trăng,
sau hết với bà mẹ******, và cuốn sách lạ thường cuối cùng quăng ra từ cửa sổ chung cư, cánh cửa cuối cùng đóng lúc 4 giờ sáng, chiếc điện thoại cuối cùng ném vào tường thay v́ trả lời, căn pḥng với đồ đạc cuối cùng bị dọn trống cho đến món đồ kỹ niệm cuối cùng, một cành hoa hồng giấy vàng xoắn trên móc kẽm treo trong tủ quần áo, và cho dù tưởng tượng, chẳng đáng ǵ ngoài một chút hy vọng trong ảo giác--
này, Carl, trong lúc bạn không an toàn tôi không an toàn, bây giờ bạn thật sự ở rong nồi xúp của thời gian nấu toàn thú vật --
v́ vậy những kẻ chạy qua đường xá đông đá bị ám ảnh bởi ánh sáng bất ngờ lóe lên hóa thành lạ lùng (55) từ nơi mặt phẳng cong (56) cuốn thư mục (57) đồng hồ đo & mặt phẳng rung động,
những kẻ ước mơ rồi tạo nên những khoảng cách cụ thể giữa Thời Gian và Không Gian qua những h́nh tượng sắp gần nhau, rồi đặt thần khí linh hồn vào giữa hai h́nh tượng đang nh́n thấy rồi nối những động từ chủ yếu, sắp đặt danh từ và dấu gạch ngang bằng ư thức để ḥa hợp tuôn vào cảm xúc từ Đức Chúa Cha toàn năng hằng có đời đời,(58)
để tái tạo cú pháp và đo lường văn xuôi tầm thường của nhân loại rồi xuất hiện trước bạn im lặng, thông thái và run rẫy v́ mặc cảm, bị từ chối dù sao linh hồn đă thú tội để thích nghi với nhịp điệu của ư tưởng trong chiếc đầu hói mà sâu sắc, (59)
kẻ điên loạn lêu lỏng là thiên thần Beat của thời đại, vô danh, hơn nữa đang viết xuống chốn này đúng lúc những điều sẽ tồn tại sau khi chết,
và đầu thai trở lại mặc y phục ma quái của nhạc Jazz giữa bóng kèn đồng trong ban nhạc và thổi lên niềm thống khổ trong tâm trí trần trụi của người Mỹ cho t́nh yêu vào tiếng kèn saxo than văn Lạy cha lạy cha sao cha nở bỏ con (60) làm rùng ḿnh phố xá cho đến chiếc radio cuối cùng,
với trái tim nguyên vẹn trong bài thơ bị cắt xẻ từ thân xác của họ đủ ngon để ăn suốt một ngàn năm sau.
Ghi Chú Cho Howl
Phần 1
(1) Best minds: Ginberg dùng cụm từ này, cụ thể là ám chỉ những người bạn nghệ sĩ tài hoa của ông nhưng không được xă hội chấp nhận nên trở thành những người nghiện ngập chết dần ṃn theo thời gian; ở một tầm nh́n rộng hơn, vào thời điểm đó với ảnh hưởng của ma túy cần sa, với chiến tranh Việt Nam đang leo thang, những người trẻ rơi vào t́nh trạng khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng và trở thành một thế hệ âm u, buồn chán và tiêu cực.
(2) Generation: Nghĩa xa là thế hệ. Nghĩa gần là The beat Generation. Cụm từ do thi sĩ Jack Kerouac đặt ra cho sự nổi loạn của thế hệ trẻ buồn chán ở Hoa Kỳ năm 1948.
(3) Những khu da đen thông thường bán cần sa, ma túy, nhóm hip-py t́m cơn say thuốc như một lối thoát
(4) Angelheaded hipster: Có nghĩa, trong phong trào hip-py, nhiều người tin tưởng đến quyền lực thiêng liêng họ t́m kiếm một thứ tín ngưỡng riêng nhưng không có ǵ nhất định. Trong nghĩa cụ thể là những hip-py đeo ṿng hoa trên đầu, trông như thiên thần, hành hương về thánh địa.
(5) Heaven: Thiên đường của The Beat Generation là tinh thần trong trắng, một thần khí siêu nhiên, khác với ư niệm thiên đường của Thiên Chúa giáo. Câu này nói về một thế hệ đang rời xa ảnh hưởng ngự trị của Thiên Chúa giáo và họ đi t́m một niềm tin khác, có thể Hồi giáo chỉ là một.
EL: Cũng có nghĩa Elevated railroad, đường rầy sắt treo cao, cầu tàu điện. Câu này có thể nói về một kinh nghiệm của những người ngồi dưới cầu nh́n lên trời. Tuy nhiên, tôi chọn nghĩa EL là Thượng Đế trong cổ ngữ Do Thái v́ thiên đường của Thượng Đế và thiên đường của Beat khác nhau và câu tiếp theo liên quan đến thiên thần Mohammed của Hồi giáo. Một vế đối chọi cho thấy sự lạc lơng trong niềm tin của phong trào Beat.
(6) Cụm từ trong bản nháp trước là "eyes hallucinating anarchy". Về sau, ông đổi lại "eyes hallucinating Arkansas". Cả hai chữ anarchy và Arkansas đều khó hiểu trong nguyên câu thơ. Ông nói, ông muốn dùng chữ Arkansas cho cụ thể hơn thay v́ quá trừu tượng qua chữ anarchy (Hỗn loạn / vô chính phủ / không tin vào chính quyền). Tuy cụ thể là tiểu bang Arkansas nhưng không có một liên hệ hoặc tượng trưng nào của tiểu bang này, để có thể giải thích câu thơ. Dân Hip-py thường không đặt niềm tin vào chính phủ nên chữ Anarchy có sự liên quan hữu lư hơn. Chữ Arkansas th́ không giải thích được.
Câu này nói về ông Ginsgerg và bạn ông Kerouac vào đại học Columbia nhưng không học, chỉ chơi bời trác táng.
Có đề nghị là ư nghĩa của On the Road. câu thơ này nếu thay thế chữ Arkansas, có lẽ sẽ là: " những kẻ học qua đại học với đôi mắt tỏa rực ảo giác tiếp tục trên đường đời....." Không lấy làm ǵ chắc chắn cho sự giải thích này.
(7) Nói về thi sĩ William Blake (1757-1827), người đă ảnh hưởng Ginsberg một cách nh́n mới về tôn giáo. Ginsberg đă có lần mgủ mơ thấy thi sĩ William Blake đọc thơ của ông.
(8) Đa số nnhững thành viên của Beat đều bị đuổi ra khỏi trường hoặc khỏi nơi làm việc. Kerouac bị đuổi khỏi hải quân Hoa Kỳ v́ bệnh tâm trí; Burroughs bị đuổi khỏi trường trung học Los Amos Ranch; Bản thân Ginsberg bị đuổi khỏi đại học Columbia v́ phạm kỷ luật.
Câu này liên quan việc Ginsberg tin rằng không nên lau kính cửa sổ theo tín ngưỡng đạo Do Thái. Trên kính dơ, ông viết những lời lẽ tục tằn và vẽ h́nh bộ phận sinh dục nên bị kết tội phạm qui luật của đại học xá.
(9) Câu này nói về bạn ông, Lucien Carr, người đốt tiền.
(10) Uống dầu thông để say xỉn v́ không mua nổi rượu. Paradise Alley là khu ổ chuột trong khu phố New York.
(11) Những khi bị ảnh hưởng sức thuốc cần sa, ma túy, tác giả sáng tác theo ảo giác, ra khỏi thế giới 3 chiều.
(12) H́nh ảnh chập chờn trong cơn say thuốc.
(13) Nói về chung cư của Bill Keck trên East 2nd street góc 2nd Avenue.
(14) Phong trào hip-py thường lên mái nhà nghe chim hót và uống rượu đỏ.
(15) Teahead: Tea, trà là một thức uống rất quen thuộc với cần sa trong thời điểm đó. Teahead, sau này gọi là pothead. Ư ông nói lái xe dạo chơi quanh New York trong lúc hút cần sa.
(16) Đây là một trong những câu thơ viết kể lại chuyện nửa tỉnh nửa say lái xe lú lẩn trong khi phê thuốc đến lúc sực tỉnh th́ thấy sở thú.
(17) Bickfords là một loại nhà hàng dây ở New York. Nơi các thi sĩ Beat Generation thường tụ tập vào chiều tối sau cơn say ma túy.
(18) Hydrogen Jukebox: Máy thùng để nghe nhạc. Dùng kỹ thuật hypertrophic. Nhạc có thể xâm nhậm vào thần kinh, có thể làm xương cốt rung động như bị ảnh hưởng của bom hydrogen.
Hydrogen Jukebox: Nhạc thơ kịch do nhạc sĩ Phillip Glass sáng tác với Allen Ginberg trong lần gặp gỡ năm 1988.
(19) Eyeball kicks: Cụm từ do nhà văn Rudy Rucker đặt thành. "Những chi tiết kể ra lập tức tạo nên h́nh ảnh, cảnh tượng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến người nghe." Rudy Rucker nói về phương pháp viết văn: Deliver an eyeball kick for effective writting.
(20) Synagogue: Có nghĩa là Nhà Cầu Nguyện thuộc về đạo Do Thái hoặc các hội đoàn thuộc đạo này. Allen Ginsberg gốc người Do Thái.
(21) Nói về chuyến khởi hành của nhóm Beat đi t́m năng lượng siêu nhiên như Thiền bắt đầu ở New Jersey.
(22) Nói về nhóm bằng hữu này hút thuốc phiện ở Á Châu và những loại cỏ gây mê ở Trung Đông. Họ đă từng có mặt ở đây. Họ làm những cuộc hành hương qua tận Ấn Độ. Sau khi "junk" say thuốc tan dần, không đủ thuốc họ bị những cơn bệnh của người ghiền hành hạ.
" Migraines of China under junk-withdrawal" có thể nói về cái giá đau đầu phải trả sau cơn nghiện nha phiến toàn quốc rồi sự trở ḿnh của đất nước này dưới chế độ cộng sản do mao Trạch Đông đă tàn sát hàng tỷ người.
Junk c̣n có nghĩa thông dụng là chiếc ghe buồm ở Trung Hoa; nghĩa lóng của Hoa Kỳ là cần sa ma túy.
Newark là khu phố mà Allen Ginsberg lớn lên. Phố nghèo, tồi tàn và nhiều tội ác.
(23) Grandfather night: Ám chỉ một thời đại nghèo nàn tăm tối của các nông trại, nhất là ở miền Nam Hoa Kỳ.
(24) Plotinus là một triết gia thờ cổ đại, sáng lập phái Neoplatonism. Phối hợp triết học PLaton, Judaic và Thiên Chúa Giáo.
(25) Thi sĩ Edgar Allan Poe (1809-1849)
(26) St. John of the Cross là vị thánh người Tây Ban Nha trong đạo Thiên Chúa , giáo hội La mă
(27) Kabbalah: Một phái học thuật Do Thái có tính cách huyền bí. Ginsberg sinh ra trong gia đ́nh Do Thái và chịu ảnh hưởng sâu đậm về những tập truyền tôn giáo.
(28) Kansas được xem như đất thánh Mecca (của đạo hồi) nhưng là đất thánh của Jazz và Bebop. Một loại Mecca cho hip-py.
(29) Nói về một người bạn John Hoffman và cuốn tiểu thuyết Under The Volcano của Malcolm Lowry.
(30) Dungaree: Một loại quần yếm Overalls dùng mặc lúc công nhân làm việc. Hoặc một loại áo quần ở Ấn Độ làm bằng vải đặc biệt.
(31) Nói về sự sợ hăi của dân Hoa Kỳ về sự bành trướng của Cộng sản. Tiếng c̣i được dùng như tiếng than khóc vang dội.
(32) Cảnh trong nhà thương tâm thần.
(33) Câu "bit detectives in the neck.." Cũng có thể là một kinh nghiệm thật, có xảy ra. Những người say thuốc thường có những hành vi ngoài sự kiểm soát. Chữ Bit cũng có một nghĩa khác là "lừa bịp, dối trá..". Bit in the neck: Ngang nhiên lừa bịp.
(34) Những đoàn người chuyên lái xe gắn máy lớn thường là các đảng hoặc các nhóm thích bạo động. Người ta gọi họ là Thiên Thần Xa Lộ.
(35) Seraphim: Nói chung ngoài tôn giáo là Thiên Nhân, người nhà trời.
Câu này dùng động từ blew (blow), nghĩa: thổi, nguyền rủa. Nhưng nghĩa lóng là bú, hợp với t́nh trạng các thủy thủ đồng nam tính. " những kẻ bú và được bú bởi người nhà trời, thủy thủ....."
(36) Nói về một cách tắm hơi nước hoặc hơi than để tịnh dưỡng, phổ thông dưới thời Victoria. Và ngụ ư sự quan hệ dâm dục đồng nam với, những nam nhân tóc vàng.
(37) Ba chị em trong chuyện thần thoại, dùng một mắt duy nhất để xem chung và có khả năng thấy chuyện tương lai. Câu này nói về những người vợ v́ đời sống vật chất đă làm cho người chồng không thể phát huy tài năng và bị trói cột vào khả năng tài chánh.
(38) Nói về Neal Cassady, một người ảnh hưởng đến phong trào Beat nhưng có nhiều h́nh phạm từ trẻ, nhất là tội ăn cắp xe.
(39) Adonis: Vị thần đẹp trai và cường lực trong thần thoại Hy lạp.
(40) Nghĩa bóng là chơi bời.
(41) Solipdism: là triết thuyết tin tưởng vào sự hiện hữu của cá thể. Ví dụ, thuyết của Decartes: Tôi suy tư, tôi hiện hữu. Không rỏ ư của Ginsberg trong phần cuối nơi trạm xăng nhưng có lẽ ông muốn nói những kẻ đă thủ dâm hoặc làm t́nh trong nhà vệ sinh hoặc ở các con hẻm như một cách hiện hữu. Cần tra cứu thêm. Chờ sửa chữa.
(42) câu này nói tới Herbert Huncke, kẻ tội phạm nhưng có ảnh hưởng sâu đậm tới phong trào The Beat.
(43) Những hip-py và người vô gia cư thường ngồi hoặc nằm ngủ trong thùng giấy lớn cho bớt lạnh.
(44) Câu này nếu giữ sát ư, sẽ rất khó hiểu. Xin xem câu chuyển sát nghĩa. Nói về một cảnh sống nghèo tại khu Harlem. Bệnh tật không có thuốc chữa, chỉ trôn cậy vào ơn trời đất. Chờ sửa chữa.
(45) Chuyện này có thật. Những hip-py quá đói, lăn vào dưới xe tải chở gà, hy vọng t́m được trừng gà đẻ rớt.
(46) Có thể nói về mẹ của tác giả, bà đă từng tự tử và Ginsberg chứng kiến khi c̣n trẻ.
(47) Hotrod-Golgotha jail-solitude watch: Cụm từ này khó hiểu ông muốn nói ǵ? jial-solitude có thể hiểu là cô đơn vây khốn. Golgotha là Núi Sọ nơi Chúa Giê Su bị đóng đinh. Hotrod là xe thời cũ được tân trang chạy nhanh. Watch ở đây có nghĩa là nh́n ngắm.
" ngắm nh́n xe tân trang h́nh Núi Sọ như cô đơn trong tù..." Không rơ có đúng không. Câu này cần được nghiên cứu thêm, cần có thêm tài liệu để giải thích. Chờ sửa chữa.
(48) Nói vê thi sĩ William Burroughs.
(49) Câu này cần thêm tài liệu để phân tích chặt chẻ hơn. Xin xem câu chuyển sát nghĩa. Chờ sửa chữa.
(50) CCNY: City College of New York.
(51) Dadaism: Phong trào nghệ thuật "nổi loạn" trong thế kỷ 20.
(52) Cây này cần thêm tài liệu để phân tích kỹ hơn. Chờ sửa chửa.
(53) Chuyện có thật xảy ra cho thành viên trong Beat Generation.
(54) Rockland: địa danh của bệnh viện tâm thần nơi bạn ông carl Solomon điều trị.
(55) Câu này có nhiều tượng trưng rất tối nghĩa. Alchemy: ngoài nghĩa thuật luyện kim, c̣n có nghĩa khác là làm cho tốt hơn, từ b́nh thường làm cho khác thường.
(56) Ellipses: Toán học. Mặt phẳng cong, không song song với trục Hoành của quả đất.
(57) Catalog: Allen Ginsberg dùng một thư mục dài ghi chép chi tiết mà ong dùng sáng tác bài thơ Howl.
(55, 56, 57) Có thể đây là một kinh nghiệm có từ ảo giác bị ảnh hưởng bởi cơn say, cũng có thể là kinh nghiệm thành thơ khi thấy đường đông đá cong xuống (dốc) bị phản chiếu ánh sánh, trở thành bất ngờ và thích thú. Câu này cần kiểm chứng và so sánh tài liệu khác. Co thể sẽ ra một nghĩa khác hơn. Chờ sửa chữa.
(58) Pater Omnipotens Aeterna, tiếng La tinh có nghĩa: Eternal Father God.
(59) Nói về cách viết của chính ông, cách sử dụng gạch ngang và ráp chữ... một loại văn phạm thơ của phong trào Beat ví dụ: Hotrod-Golgotha jail-solitude mà ông đă viết ở câu trên.
(60)Eli eli lamma lamma sabacthani, tiếng Do Thái Cổ có nghĩa: My God, my God, why have you forsaken me?
Tóm Lược
về Tiếng Hú
· Howl, Hú, là thi phẩm của thi sĩ Allen Ginsberg sáng tác vào năm 1954, chấm dứt trong năm 1955. Ấn hành trong tác phẩm Howl and Other Poems năm 1956 bởi Lawrence Ferlinghertti, chủ nhân của nhà xuất bản Lights Press. Được xem như là một trong những tác phẩm quan trọng trong văn chương Hoa Kỳ và Âu Châu.
Howl là một tác phẩm đại diện cho nhóm thi ca Beat Generation mà Allen Ginsberg cùng với Jack Kerouac và William S. Burroughs thành lập.
Howl vừa ra đời đă bị kết án là một tác phẩm khiêu dâm, tục tĩu khiến cho chủ nhà xuất bản và chủ tiệm sách bị bắt phạt. Măi đến ngày 3 tháng 10 năm 1957, thẩm phán Clayton W. Horn mới giải trừ tội án cho tác phẩm này.
· Giai thoại:
Ginsberg đưa bài thơ Howl cho nhà thơ bạn Kenneth Rexroth xem khi vừa mới làm xong phần đầu. Rexroth nhận xét rằng bài thơ Howl bị tùng túng. Ông khuyên Ginsberg nên thả lỏng sáng tác để thần khí thơ được tự do và viết từ những kinh nghiệm tận đáy tim. Ginsberg theo lời của Rexroth viết lại bài thơ Howl và ông đă thành công.
Khi mới bắt đầu, ḍng thơ Howl bị ảnh hưởng bởi thi sĩ William Carlos và thi sĩ bạn của ông Jack Kerouac nhưng vào khoảng giữa đường, Ginsberg bắt đầu tiếng nói riêng của ḿnh.
Allen Ginsberg được mời đọc phần một của bài thơ Howl, lúc đó mới vừa viết xong, tại pḥng triển lăm Six Gallery ở San Francisco, tiểu bang California, ngày 7 tháng 10 năm 1955.
Khi người ta giới thiệu đến phiên ông lên bục đọc thơ, không thấy ông đâu cả. Ông đang ở trong nhà vệ sinh, nằm sau lưng khán giả. Nghe gọi, ông vội đá cửa mở ra, quần vẫn c̣n tụt dưới chân. Ông tự nhiên giải quyết cho xong rồi kéo quần lên trước mặt mọi người đang nh́n ông. Ông đi một mạch thẳng lên bục, đọc thơ. Lần đầu tiên, người ta được nghe một loại thơ viết bằng những câu dài, đọc mỗi câu trong hơi.
· Kỹ thuật trong Howl:
Allen Ginsberg sử dụng hai loại kỹ thuật chính:
1- Thể thơ tự do để câu không bị giới hạn (free verse). Ông sử dụng thể thơ Triadic-line do thi sĩ William Carlos Williams khởi xướng, về sau trở thành thông dụng. Có thể tạm gọi là câu thơ nhiều chân và xuống ba thang cấp. Allen áp dụng câu thơ nhiều chân nhưng kéo dài hơn. Chủ yếu là mỗi câu dài bằng chiều dài khi đọc trong một hơi thở.
Ông pha lẩn lối làm thơ văn xuôi của thi sĩ Kerouac và sử dụng nhịp điệu của nhạc Jazz, nhất là những lúc bốc đồng trong cảm hứng.
2- Thuận ḍng tri thức (Stream of Consciousness), một cách viết tự động, thả lỏng cho ư thức được tự do.
Bài thơ Howl dài ba đoạn và một đoạn cước chú (footnote). Đa số xem cước chú cũng là một phần của bài thơ.
Bài thơ được đề tặng Carl Solomon. Người bạn mà Allen Ginsberg đă quen biết trong bệnh viện tâm thần. Ginsberg đă t́m thấy những tài năng thiên phú của Solomon trong một đời sống đầy bi kịch. Nhiều đoạn của bài thơ liên quan đến Carl Solomon. Solomon không chỉ là cái cớ mà là một thực tế đặc thù khiến Ginsberg tác tạo vào tác phẩm Hú.
Nhiều nghiên cứu từ những đại học chuyên ngành văn chương đồng ư bài thơ Howl mang rất nhiều tính chất sáng tạo. Nhiều h́nh tượng vượt ngoài thực tế để diễn đạt những cảm tưởng tối mù trong ư thức của tác giả. Nhưng cùng một lúc, Ginsberg đă dàn trải kinh nghiệm riêng tư của ông khắp bài thơ: bề rộng cũng như bề dày.
Cũng nên t́m hiểu sơ lược bối cảnh của ông, với chứng "bệnh" thần kinh di truyền từ những đời trước, với những ảo giác đến từ ma túy, qua sự xung đột mâu thuẫn trong nội tâm, phát nổ ra tiếng Hú. Một vài tư liệu khác cho thấy ông có thể bị ảnh hưởng bởi thuốc điều chỉnh tâm lư Psycodelic Peyote mà ông đă uống trong thời gian sáng tác Howl.
Hú giận dữ ngay từ câu thơ đầu tiên: Tôi chứng kiến những trí tuệ tuyệt hảo của thế hệ tôi bị hủy hoại bởi điên cuồng, phẫn nộ nghèo đói chết trần trụi. Kinh nghiệm của ông nh́n thấy những bạn bè tài hoa đang lần lược ngă xuống v́ ma túy, rượu chè, v́ xă hội v́ nghèo đói...Bạn ông, những tài hoa thiên phú: Carl Soloman điên cuồng, William S Burroughs nghiện ma túy, Jack Kerouac nghiện rượu... Những kinh nghiệm sống gây ra cuồng nộ kéo dài suốt cả bài thơ. Trong thời điểm đó, Howl đă như một tiếng chuông lớn đánh thức sự suy sụp của một thế hệ.
Hú không chỉ kêu gọi đồng bạn, thế hệ của ông, mà kêu to cả chính quyền, xă hội đang ch́m ngộp, khó thở v́ vật chất. Những công ty lạnh lẽo, những nhà máy âm u, tập đoàn con người bị chế ngự bởi những phát minh kỹ nghệ. Người giàu, giàu thêm; người nghèo, nghèo dần; một vũng lầy không có ngày khô. Hú c̣n nói lên bản năng t́nh dục, sức mạnh đ̣i hỏi của thân thể trần truồng. Tự do đồng tính luyến ái. Phủ nhận những ngăn cấm đạo đức, tôn giáo đă vây khốn tâm hồn.
Ginsberg và Hú đă phải chiến đấu với một xă hội da trắng, lúc bấy giờ, khắc khe, đầy cả đe dọa. Câu hỏi của Hú mang tới là: Hoa Kỳ sẽ như thế nào? Allen Ginsberg đă cống hiến một đời để đi t́m câu trả lời chưa có kết luận.
Ghi: Cách chuyển thơ:
- Hàng đầu là nguyên tác của Allen Ginsberg.
- Hàng hai là câu chuyển sát nghĩa.
- Hàng ba, chữ nghiêng, là câu chuyển thơ theo ư riêng.
Chủ ư chuyển thơ Howl:
· Trong hàng thứ ba, chuyển ư, tứ, cách diễn tả của Howl theo cách dùng ngôn ngữ của người Việt. Gia giảm sự chính xác để dễ hiểu và dễ cảm trong tiếng Việt. Nếu phải chọn giữa sát nghĩa mà khó hiểu và thoát ra để dễ cảm nhận, tôi xin chọn vế sau.
· Cố giữ nét thô tục, trần trụi và phẫn nộ của tác giả và những chữ nghĩa khi bốc đồng, xuất thần, nhất là khi say thuốc hoặc phê ma túy.
· Tác giả kể lại rất nhiều những kinh nghiệm riêng, chuyện riêng, những nhân vật có tên hoặc không tên, đa số là bằng hữu của ông và trong nhóm Beat Generation. Vi vậy có rất nhiều đoạn khó hiểu, nhất là khi ông bay bổng trong cần sa , thuốc phiện, bạch phiến và rượu mạnh. Xin xem ghi chú.
· Những chuyện ông kể lại ít có liên hệ trực tiếp với nhau. Có khi là những chuyện trong hành tŕnh của nhóm the Beat. Có khi là những chuyện xảy ra chung quanh. Có khi là chuyện thật. Có khi là chuyện tượng trưng. Phần Một của bài thơ nối nhau bằng chữ WHO (những kẻ) ở đầu mỗi câu.
· Nếu quí vị và quí bằng hữu thấy nơi nào chuyển thơ chưa đúng, chưa chỉnh, chưa hay xin cứ tùy nghi chỉ điểm. Ngu Yên xin được học hỏi thêm, xin liên lạc trực tiếp: nguyen112052@gmail.com. Nhờ vậy, tác phẩm Howl sẽ đến người đọc tiếng Việt thêm giá trị. không có bản quyền, nếu được, xin làm chung cho vui. Xin chân thành biết ơn và cảm tạ.
Đọc thêm phân tích chi tiết:
- Howl, and Other Poems by Allen Ginsberg l Summary & Study Guide.
- http://www.sonoloco.com/txt/howl/howlenglish.html
- http://poetry.rapgenius.com/Allen-ginsberg-howl-annotated#note-1662529
Howl
For Carl Solomon
Hú.
Phần 1
I saw the best minds (1) of my generation (2) destroyed by madness, starving hysterical naked,
Tôi thấy những trí tuệ tuyệt hảo của thế hệ tôi bị hủy hoại bởi điên cuồng, chết đói kích động trần truồng,
Tôi chứng kiến những trí tuệ tuyệt hảo (1) của thế hệ tôi (2) bị hủy hoại bởi điên cuồng, phẫn nộ nghèo đói chết trần trụi,
dragging themselves through the negro streets at dawn looking for an angry fix, (3)
họ lê bước qua những con đường trong khu da đen cho đến b́nh minh t́m cách thỏa măn giận dữ
họ thất thiểu qua đường phố da đen cho tới b́nh minh t́m trác táng xoa dịu ḷng giận dữ, (3)
angelheaded (4) hipsters burning for the ancient heavenly connection to the starry dynamo in the machinery of night,
nhóm hip-py đầu óc thiên thần đang nôn nóng liên kết siêu nhiên xưa cổ với thiên tạo đầy sao sáng trong cơ trời đang đêm,
nhóm hip-py tâm tưởng cao siêu nôn nao hướng thượng t́m siêu nhiên nguyên thủy (4) trong cơ trời ban đêm lấp láy đầy sao,
who poverty and tatters and hollow-eyed and high sat up smoking in the supernatural darkness of cold-water flats floating across the tops of cities contemplating jazz,
Những kẻ nghèo hèn và rách rưới và mắt trũng sâu và say sưa ngồi hút trong bóng tối huyền bí của cơn mưa lạnh băng ngang qua phố xá thưởng thức nhạc jazz.
những kẻ nghèo hèn rách rưới mắt thất thần đang hút say lờ ngờ ngồi chồm hổm khật khù hưởng thụ nhạc Jazz trong bóng tối huyền ảo khi làn mưa lạnh trải dài qua phố xá,
who bared their brains to Heaven (5) under the El and saw Mohammedan angels staggering on tenement roofs illuminated,
Những kẻ lột trần trí năo nh́n thiên đường từ dưới cầu xe điện treo và nh́n thấy thiên thần của Mo-ha-mét lảo đảo trên nóc chung cư chiếu sáng,
những kẻ lột trần trí tuệ đối với thiêng đường (5) của Thượng Đế rồi trông thấy thiên thần Hồi Giáo lao xao soi sáng trên dăy nóc chung cư,
who passed through universities with radiant eyes hallucinating Arkansas (6) and Blake-light tragedy (7) among the scholars of war,
những kẻ băng ngang đại học với đôi mắt sáng ngời ảo giác Arkansas và bi kịch ánh sáng của Blake giữa đám học giả về chiến tranh,
những kẻ học qua đại học với đôi mắt tỏa rực ảo giác tiếp tục trên đường đời (6) và bi kịch tri thức của Blake (6) trong đám học giả chuyên nghiệp chiến tranh,
who were expelled from the academies for crazy & publishing obscene odes on the windows of the skull, (7)
những kẻ bị đuổi khỏi đại học v́ điên cuồng & phổ biến những bài tục tĩu trên cửa sổ của đầu lâu,
những kẻ bị đuổi khỏi đại học v́ điên cuồng & truyền bá những lời ca tục tĩu trên cửa sổ vẽ đầu lâu, (8)
who cowered in unshaven rooms in underwear, burning their money in wastebaskets and listening to the Terror through the wall, (9)
những kẻ nằm co ro trong pḥng bừa băi mặc quần lót, đốt tiền trong giỏ rác và nghe Bạo động qua vách tường,
những kẻ c̣n mặc quần lót nằm co ro trong pḥng bề bộn, đốt tiền trong giỏ rác rồi lắng nghe Bạo động qua vách tường,(9)
who got busted in their pubic beards returning through Laredo with a belt of marijuana for New York,
những kẻ bị khám lông mu trở về qua Laredo với lưng quấn cần sa đến New York,
những kẻ bị lục soát lông háng, đi về từ Laredo đến New York, giấu cần sa quấn lưng ruột tượng,
who ate fire in paint hotels or drank turpentine in Paradise Alley (10), death, or purgatoried their torsos night after night
những kẻ nuốt lửa trong khách sạn rẻ tiền hoặc uống dầu thông trong khu Paradise Alley, đă chết, hoặc hành hạ thân xác từng đêm
những kẻ hút lửa trong khách sạn rẻ tiền hoặc say dầu thông trong khu Paradise Alley (10), đă chết, hoặc trừng phạt thân xác từng đêm
with dreams, with drugs, with waking nightmares, alcohol and cock and endless balls,
bằng mộng mơ, bằng ma túy, bằng mộng du, rượu chè và cu dái và ăn chơi liên tục,
bằng hoang tưởng, ma túy, mộng du, rượu chè, dâm dục đồng tính và chơi bời trác táng,
incomparable blind streets of shuddering cloud and lightning in the mind leaping towards poles of Canada & Paterson, illuminating all the motionless world of Time between. (11)
những đường mây vô cùng mờ mịt đang rung động và sấm chớp trong tâm trí nhảy về hướng hai cực Gia-nă-đại và Pateson, chiếu sáng toàn thế giới bất động trong Thời Gian ở giữa,
những đường mây vô cùng mờ mịt đang giao động với sấm chớp trong trí tưởng nhảy vọt về hướng Gia Nă Đại & Paterson, chiếu sáng toàn thế giới bất động trong thời gian khoảnh khắc. (11)
Peyote solidities of halls (12), backyard green tree cemetery dawns (13), wine drunkenness over the rooftops (14), storefront boroughs of teahead (15) joyride neon blinking traffic light, sun and moon and tree vibrations in the roaring winter dusks of Brooklyn, ashcan rantings and kind king light of mind,
pḥng ốc vững chắc trong ảo giác Peyote, cây xanh sân sau dưới b́nh minh nghĩa trang, uống rượu say trên mái nhà, cửa tiền hàng phố bán cần sa tưng bừng chưng đèn nê-on chớp nháy như đèn giao thông, mặt trời và mặt trăng và cây rúng động trong chạng vạng chiều đông gió gào ở Brooklyn, thùng rác bộng kêu vang và ánh sánh vương triều tốt lành của trí tuệ,
Những tường pḥng vững chắc thấy mờ ảo (12), những b́nh minh tang tóc (13) trên cây xanh sau sân, những say xỉn trên mái nhà (14), những mặt cửa hàng trong phố bán cần sa (15) treo đèn nê-ông tưng bừng chớp nháy như đèn giao thông, mặt trời mặt trăng và cây lá rúng động trong chiều đông chạng vạng gió gào ở Brooklyn, thùng rác bộng kêu và ánh sáng tuyệt đỉnh bừng lên tâm trí,
who chained themselves to subways for the endless ride from Battery to holy Bronx on benzedrine until the noise of wheels and children brought them down shuddering mouth-wracked and battered bleak of brain all drained of brilliance in the drear light of Zoo, (16)
những kẻ tự cột ḿnh vào đường xe điện ngầm chạy bất tận từ Battery đến thánh địa Bronx trong cơn say thuốc benzedrine đến khi tiếng rít bánh xe và trẻ em hạ họ xuống hả miệng giật ḿnh và đập vào đầu óc trống trải đă chảy cạn trí khôn dưới ánh đèn ảm đạm của Sở thú,
những kẻ bám sát theo đường xe điện ngầm chạy bất tận từ Battery hướng về thánh địa Bronx trong cơn say thuốc benzedrine cho đến khi tiếng bánh xe thắng và đám trẻ em làm họ tỉnh thức rùng ḿnh hả miệng như đập vào đầu óc trống rỗng đă chảy cạn trí khôn, dưới ánh đèn ảm đạm bên sở thú,(16)
who sank all night in submarine light of Bickford's (17) floated out and sat through the stale beer afternoon in desolate Fugazzi's, listening to the crack of doom on the hydrogen jukebox (18),
những kẻ ch́m suốt đêm trong ánh đèn mờ từ quán ăn Bickford hắt ra và ngồi suốt chiều uống bia hết hơi trong quán ăn tồi tàn Fugazzi, lắng nghe sự rạn vỡ của số phần qua thùng máy nhạc hyddrô,
những kẻ ch́m đắm suốt đêm dưới ánh đèn tù mù hắt ra từ quán ăn Bickford (17) và ngồi suốt chiều uống bia nhạt nhẽo trong quán Fugazzi tồi tàn, lắng nghe rạn vỡ của mệnh đời từ thùng máy nhạc hyddrô,(18)
who talked continuously seventy hours from park to pad to bar to Bellevue to museum to the Brooklyn Bridge,
những kẻ nói liên miên suốt bảy mươi hai giờ từ công viên ra đường cái qua quán rượu Bellevue qua bảo tàng viện đến cầu Brooklyn,
những kẻ nói không ngừng suốt bảy mươi hai giờ từ công viên ra đường phố qua quán rượu Belevue qua bảo tàng viện đến cầu Brooklyn,
a lost battalion of platonic conversationalists jumping down the stoops off fire escapes off windowsills off Empire State out of the moon,
một tàn quân lạc lơng gồm những người hùng biện lư tưởng nhảy xuống thang cấp rời lối thoát hỏa hoạn rời ngưỡng cửa sổ rời lầu Empire State khỏi mặt trăng,
đám tàn quân lang bang nhiều kẻ hùng biện lư tưởng nhảy xuống thang cấp rời lối thoát hỏa hoạn rời ngưỡng cửa sổ rời lầu Empire State ra khỏi mặt trăng,
yacketayakking screaming vomiting whispering facts and memories and anecdotes and eyeball kicks (19) and shocks of hospitals and jails and wars,
ba hoa la hét nôn mửa th́ thầm những chuyện thật và chuyện kỷ niệm và chuyện vặt vănh và chuyện giựt gân và chuyện kích động trong bệnh viện và nhà tù và chiến tranh,
huênh hoang la hét nôn mửa phều phào những chuyện thật, chuyện kỷ niệm, chuyện tào lao, chuyện bắt mắt (19), chuyện khó tin trong bệnh viện, nhà tù và chiến tranh,
whole intellects disgorged in total recall for seven days and nights with brilliant eyes, meat for the Synagogue cast on the pavement, (20)
toàn đám trí thức mửa ra để nhớ lại toàn bộ bảy ngày và bảy đêm với mắt sáng ngời, thịt thà cho hội đạo Do Thái quăng trên vỉa hè,
cả đám người trí thức mửa ra để nhớ lại toàn bộ bảy ngày đêm mắt vẫn tỉnh táo, thịt cho Hội đạo Do Thái quăng bên lề đường, (20)
who vanished into nowhere Zen New Jersey leaving a trail of ambiguous picture postcards of Atlantic City Hall, (21)
những kẻ biến dạng vào vô định Zen tới New Jersey để lại dấu vết bằng những h́nh ảnh tối nghĩa trên bưu thiếp về Ṭa Thị Chính Atlantic,
những kẻ vào vô định t́m Zen tới New Jersey để lại dấu vết qua h́nh ảnh mơ hồ trong những bưu thiếp về Ṭa Thị Chính Atlantic (21),
suffering Eastern sweats and Tangerian bone-grindings and migraines of China under junk-withdrawal in Newark's bleak furnished room, (22)
đau khổ v́ mồ hôi Đông Phương và bệnh nhức xương Tangerian và bệnh đau đầu đông Trung Hoa dưới cơn say -rút lui vào căn pḥng trống ở Newark,
đau khổ v́ mồ hôi Đông Phương, bệnh nhức xương Tangerian, bệnh đau đầu đông Trung Hoa khi tan cơn say thuốc trong căn pḥng tồi tàn ở Newark, (22)
who wandered around and around at midnight in the railway yard wondering where to go, and went, leaving no broken hearts,
những kẻ lang thang ḷng ṿng lúc nửa đêm trong sân ga xe lửa băn khoăn không biết đi đâu, vẫn đi, không có ai thương nhớ,
những kẻ lang thang quanh quẩn trong sân ga xe lửa băn khoăn không biết đi đâu, vẫn đi, không có ai luyến tiếc,
who lit cigarettes in boxcars boxcars boxcars racketing through snow toward lonesome farms in grandfather night, (23)
những kẻ đốt thuốc lá trong các toa hàng toa hàng toa hàng trôi dạt theo tuyết về phía những trang trại quạnh hiu trong đêm của ông nội,
những kẻ hút thuốc lá trong các toa hàng toa hàng toa hàng trôi dạt theo tuyết đưa về hướng những trang trại hẩm hiu của ông bà thời nghèo nàn, (23)
who studied Plotinus (24) Poe (25) St John of the Cross (26) telepathy and bop kabbalah (27) because the universe instinctively vibrated at their feet in Kansas, (28)
những kẻ nhiên cứu Plotinus Poe Thánh John Thập Tự thần giao cách cảm và lực phép thuật bởi vũ trụ theo bản năng rung động ở dưới chân họ tại Kansas,
những kẻ học hỏi triết của Plotinus (24) thơ của Poe (25) tôn giáo của Thánh John Thập Tự (26) phép thần giao cách cảm và pháp thuật kabbalah (27) bởi vũ trụ rung động theo bản năng dưới chân họ tại thánh địa Kansas,(28)
who loned it through the streets of Idaho seeking visionary indian angels who were visionary indian angels,
những kẻ một ḿnh băng qua đường phố Idaho t́m kiếm thiên thần da đỏ hư ảo đă có lần là thiên thần da đỏ hư ảo,
những kẻ cô độc băng qua đường phố Idaho t́m kiếm thiên thần da đỏ hư ảo đă có lần là thiên thần da đỏ trong huyền thoại,
who thought they were only mad when Baltimore gleamed in supernatural ecstasy,
những kẻ tưởng rằng họ chỉ nổi điên khi Baltimore phát sáng lập ḷe trong thiêng liêng ngây ngất,
những kẻ tưởng rằng họ chỉ ngất trí khi phố Baltimore đèn sáng mập mờ ngây ngất thiêng liêng,
who jumped in limousines with the Chinaman of Oklahoma on the impulse of winter midnight streetlight smalltown rain,
những kẻ nhảy vào xe limousine với người Trung Hoa ở Oklahoma trong cơn thôi thúc của đèn đường nửa đêm mùa đông thành phố nhỏ dưới mưa,
những kẻ chui vào xe limousine với người Tàu ở Oklahoma trong cơn thôi thúc dưới ánh đèn đường giữa đêm mùa đông mưa rơi trên thành phố nhỏ,
who lounged hungry and lonesome through Houston seeking jazz or sex or soup, and followed the brilliant Spaniard to converse about America and Eternity, a hopeless task, and so took ship to Africa,
những kẻ lang thang đói khát và cô độc băng qua Houston t́m kiếm nhạc Jazz hoặc t́nh dục hoặc canh xúp, và đi theo người Tây Ban Nha tài hoa tṛ chuyện về Hoa Kỳ và Sự Bất Diệt, một việc vô vọng, và v́ vậy lên tàu thủy đi Châu Phi,
những kẻ lang thang đói khát đơn độc băng qua Houston t́m nhạc Jazz, t́nh dục, xúp nóng rồi theo chân người Tây Ban Nha đàm luận về Hoa Kỳ và Vĩnh Cửu, một việc vô vọng, thôi th́ lên tàu đi Châu Phi,
who disappeared into the volcanoes of Mexico (29) leaving nothing behind but the shadow of dungarees (30) and the lava and ash of poetry scattered in fireplace Chicago,
những kẻ biến mất vào núi lửa ở Mễ Tây Cơ không để lại điều ǵ ngoài h́nh bóng của quần áo vải thô và nham thạch và tro bụi của thi ca rải rắc trong ḷ sưởi ở Chicago,
những kẻ biến mất vào núi lửa Mễ Tây Cơ (29) không để lại dấu vết nào ngoài trừ chiếc bóng bộ quần áo vải thô (30), nham thạch và tro bụi thi ca tung hê trong ḷ sưởi ở Chicago,
who reappeared on the West Coast investigating the FBI in beards and shorts with big pacifist eyes sexy in their dark skin passing out incomprehensible leaflets,
những kẻ xuất hiện lại ở Vùng Biển Tây bị FBI điều tra để râu và mặc quần sọt có đôi mắt lớn ấn tượng ḥa b́nh làn da ngâm gợi cảm phân phát những truyền đơn khó hiểu,
những kẻ thường xuất hiện ở Vùng Biền Tây, bị FBI theo dơi, để râu mặc quần sọt có đôi mắt lớn hiền ḥa làn da ngâm đen gợi cảm, phân phát những truyền đơn đọc khó hiểu,
who burned cigarette holes in their arms protesting the narcotic tobacco haze of Capitalism,
những kẻ đốt thuốc lá lủng lỗ trên tay để phản đối khói thuốc lá gây mê của chủ nghĩa tư bản,
những kẻ đốt thuốc lá lủng lỗ trên tay phản đối khói thuốc hút gây hại của chủ nghĩa tư bản,
who distributed Supercommunist pamphlets in Union Square weeping and undressing while the sirens of Los Alamos wailed them down, and wailed down Wall, and the Staten Island ferry also wailed, (31)
những kẻ phân phối sách bỏ túi Siêu Cộng Sản trong Công trường Union khóc lóc và cởi áo quần trong lúc tiếng c̣i hụ của Los Alamos rền rĩ trấn áp họ, rền rĩ trấn áp phố Wall, và c̣i phà Staten Island cũng rền rĩ,
những kẻ truyền bá sách bỏ túi Siêu Cộng Sản trong Công Trường Union đang khóc lóc và cởi hết áo quần khi tiếng c̣i từ Los Alamos như than khóc trấn áp họ, than khóc trấn áp phố Wall, tiếng c̣i phà Staten Island cũng than khóc, (31)
những kẻ xúc động bật khóc trong pḥng thể dục sơn trắng, trần truồng và run rẩy trước máy móc của các bộ xương khác,
những kẻ xúc động bật khóc trong pḥng thể dục trần truồng run rẩy nh́n thiết bị cho những người da bọc xương, (32)
who bit detectives in the neck (33) and shrieked with delight in policecars for committing no crime but their own wild cooking pederasty and intoxication,
những kẻ cắn vào cổ đám công an và sung sướng hét la trong xe cảnh sát không phạm tội ǵ nhưng tự họ phóng túng khai mang dâm dục đồng tính và say rượu,
những kẻ ngang nhiên lừa bịp đám công an (33) và sung sướng hét la trong xe cảnh sát không phạm tội ác ǵ chỉ tự họ phóng túng khai man dâm dục đồng tính và say rượu,
who howled on their knees in the subway and were dragged off the roof waving genitals and manuscripts,
những kẻ qú gối hú trong xe điện ngầm và bị kéo ra khỏi nóc c̣n vẩy dương vật và bản thảo,
những kẻ qú gối tru tréo trong xe điện ngầm, bị lôi kéo ra khỏi nóc ga, giăy giụa ḷi cu tay vùng vằng bản thảo,
who let themselves be fucked in the ass by saintly motorcyclists (34), and screamed with joy,
những kẻ tự ư để chơi hậu môn bởi những thiên thần lái mô-tô, và rên xiết khoái lạc,
những kẻ tự hiến thân cho đám thiên thần lái xe mô-tô lắp đít (34) và rên xiết khoái lạc,
who blew and were blown by those human seraphim (35), the sailors, caresses of Atlantic and Caribbean love,
những kẻ thổi và bị thổi bởi người nhà trời, đám thủy thủ, những âu yếm của Đại Tây Dương và biển Ca-ri-bê t́nh tự,
những kẻ bú và được bú bởi người nhà trời (35), đám thủy thủ, Đại Tây Dương âu yếm và biển Ca-ra-bê t́nh tự,
who balled in the morning in the evenings in rosegardens and the grass of public parks and cemeteries scattering their semen freely to whomever come who may,
những kẻ chơi bời cả buổi sáng cả buổi chiều trong vườn hoa hồng và trên thảm cỏ công viên và nghĩa trang rải rắc tinh trùng tự do vào bất cứ người nào đến gần người nào thuận tiện,
những kẻ chơi bời suốt sáng suốt chiều ngoài vườn hoa trên đám cỏ công viên hoặc ngoài nghĩa địa, tinh trùng tung tóe vô tư vào bất kỳ ai đến gần bất cứ ai thuận tiện,
who hiccuped endlessly trying to giggle but wound up with a sob behind a partition in a Turkish Bath when the blond & naked angel came to pierce them with a sword, (36)
những kẻ nấc liên miên cố gắng cười nhưng bị tổn thương khóc thổn thức sau liếp ngăn trong pḥng tắm Thổ Nhĩ Kỳ khi thiên thần tóc vàng lơa thể xuất hiện đâm lưỡi kiếm vào họ,
những kẻ nấc lên không ngừng khi cố gắng cười nhưng đau quá khóc thổn thức sau vách che pḥng tắm hơi Thổ Nhĩ Kỳ khi thiên thần tóc vàng khỏa thân tiến vào tuốt kiếm đâm (đít) họ,(36)
who lost their loveboys to the three old shrews of fate (37) the one eyed shrew of the heterosexual dollar the one eyed shrew that winks out of the womb and the one eyed shrew that does nothing but sit on her ass and snip the intellectual golden threads of the craftsman's loom,
những kẻ mất bồ trai v́ ba mụ già đanh ác trong chuyện thần thoại bà ác độc nhăn của tiền Đô-la giao hợp người khác giới bà ác độc nhăn ra hiệu từ tử cung và bà ác độc nhăn không làm ǵ cả chỉ ngồi một chỗ cắt tỉa cuộn chỉ vàng trí tuệ từ bóng mù mờ của thợ thuyền,
những kẻ mất t́nh trai v́ ba mụ già hắc ám trong chuyện thần thoại (37), bà ác độc nhăn chuyên nhận tiền phụ cấp của đàn ông, bà ác độc nhăn dùng tử cung ra lệnh và bà bà ác độc nhăn rỗi công vô nghề ngồi tại chỗ cắt dần sợi chỉ trí tuệ quí giá từ những thợ thuyền chỉ c̣n là chiếc bóng lờ mờ,
who copulated ecstatic and insatiate with a bottle of beer a sweetheart a package of cigarettes a candle and fell off the bed, and continued along the floor and down the hall and ended fainting on the wall with a vision of ultimate cunt and come eluding the last gyzym of consciousness,
những kẻ giao cấu say mê và không bao giờ thỏa măn với một chai bia một t́nh nhân một gói thuốc lá một cây đèn cầy và rớt khỏi giường ngủ, và tiếp tục trên sàn nhà và kéo ra hành lang và kết thúc muốn ngất xỉu dựa vách tường với ảo mộng cái lồn cuối cùng và xuất tinh tránh né tinh dịch sau cùng từ ư thức,
nhưng kẻ chơi bời say mê không hề thỏa măn, chỉ cần chai bia t́nh nhân thuốc lá đèn cầy, chơi rớt xuống giường tiếp tục trên sàn nhà lăn ra hành lang, kết cuộc mệt muốn xỉu dựa vào vách tường c̣n mơ ṃng cái lồn lần cuối để xuất tinh tống cho ra hết khí khi c̣n tỉnh táo,
who sweetened the snatches of a million girls trembling in the sunset, and were red eyed in the morning but prepared to sweeten the snatch of the sunrise, flashing buttocks under barns and naked in the lake,
những kẻ dịu dàng bắt một triệu thiếu nữ run sợ giữa hoàng hôn, và mắt đỏ vào rạng đông nhưng sửa soạn để dịu dàng bắt mặt trời lên, khoe bày bờ mông trong trạm xe và trần truồng tắm hồ,
những kẻ bắt dễ dàng một triệu thiến nữ run sợ lúc hoàng hôn, thức đỏ mắt đến b́nh minh nhưng được sữa soạn để dễ dàng bắt lấy mặt trời, khoe mông nơi các trạm xe và trần truồng tắm hồ.
who went out whoring through Colorado in myriad stolen night-cars (38), N.C., secret hero of these poems, cocksman and Adonis (39) of Denver--joy to the memory of his innumerable lays (40) of girls in empty lots & diner backyards, moviehouses' rickety rows, on mountaintops in caves or with gaunt waitresses in familiar roadside lonely petticoat upliftings & especially secret gas-station solipsisms (41) of johns, & hometown alleys too,
những kẻ t́m chơi đĩ băng qua Colorado trong vô số xe ăn cắp ban đêm, tiểu bang North Carolina, vai chính bí mật trong những bài thơ, đĩ đực và thần Adonis ở Denver-- khoái trá trong trí nhớ quá nhiều lần chơi gái trong băi đất trống & vườn sau quán ăn, hàng ghế rung rinh trong rạp chiếu bóng, trên đỉnh núi trong hang hoặc với cô hầu bàn đanh đá bên đường quen thuộc cô đơn vén váy lót & nhất là trạm xăng kín đáo duy ngă trong nhà vệ sinh & trong ngơ hẻm quê nhà cũng vậy,
những kẻ t́m chơi đĩ băng qua Colorado bằng vô số xe ăn cắp về đêm (38), qua North Carolina, vai chính trong các bài thơ là đĩ đực như thần Adonis ở Denver (39)--- khoái trá khi nhớ lại nhiều lần chơi gái không kể xiết (40) trong băi đất trống & vườn sau quán ăn, hàng ghế rung rinh trong rạp chiếu bóng,trên núi cao trong hang động hoặc với đám hầu bàn đanh đá cô đơn vén váy lót dọc đường quen thuộc & nhất là nơi trạm xăng kín đáo chứng tỏ hiện hữu trong pḥng vệ sinh (41) & cũng như trong những ngơ hẻm quê nhà,
who faded out in vast sordid movies, were shifted in dreams, woke on a sudden Manhattan, and picked themselves up out of basements hungover with heartless Tokay and horrors of Third Avenue iron dreams & stumbled to unemployment offices,
những kẻ mờ dần vào cơi phim dâm dục mênh mông, thâm nhập vào chiêm bao, giật ḿnh thức giấc giữa Mahattan, và ngồi dậy lê thân ra khỏi hầm nhà c̣n say nhừ bởi rượu Tokay vô t́nh và những ghê rợn trên Third Avenue những giấc mơ nhẫn tâm & vấp ngă khi đi tới sở thất nghiệp.
những kẻ đắm ḿnh vào cơi phim dâm dục mênh mông, thấm vào chiêm bao, giật ḿnh thức giấc giữa Manhattan, gượng dậy lê thân ra khỏi hầm nhà, say nhừ bởi rượu ToKay bất cần và những giấc mơ tàn nhẫn trên đường Third Avenue khiếp đảm & loạng choạng đi tới sở thất nghiệp,
những kẻ đi suốt đêm mang đôi giày đẫm máu trong băi tàu đậu đầy tuyết chờ đợi cánh cửa East River mở vào pḥng hơi nóng và thuốc phiện,
những kẻ đi suốt đêm mang giày bê bết máu trên bến tàu đậu đầy tuyết, chờ cánh cửa East River mở ra để vào pḥng hơi ấm rồi hút thuốc phiện, (42)
who created great suicidal dramas on the apartment cliff-banks of the Hudson under the wartime blue floodlight of the moon & their heads shall be crowned with laurel in oblivion,
những kẻ bày ra thảm kịch tự tử trong chung cư bên bờ sông thành phố Hudson dưới ánh trăng xanh sáng trong thời chiến tranh & đầu họ cần được đội ṿng nguyệt quế trong ân xá,
những kẻ bày ra thảm kịch tự tử trong chung cư trên bờ sông thành phố Hudson dưới ánh trăng xanh sánh như đèn pha thời chiến tranh và họ cần được ân xá để đội lên đầu ṿng nguyệt quế,
who ate the lamb stew of the imagination or digested the crab at the muddy bottom of the rivers quanh vùng Bowery,
những kẻ ăn thịt cừu hầm trong tưởng tượng hoặc tiêu hóa thịt cua từ bùn nơi đáy sông vùng Bowery,
những kẻ tưởng tượng ăn thịt cừu hầm hoặc chờ tiêu thịt cua từ đáy bùn dưới sông vùng Bowery,
who wept at the romance of the streets with their pushcarts full of onions and bad music,
những kẻ khóc v́ chuyện cường điệu ngoài đường với xe đẩy của chợ chứa đầy hành tây và nhạc tồi,
những kẻ hay khóc v́ những chuyện bao đồng ngoài đường, đẩy xe chợ chứa đầy hành tây và nhạc loại tào lao,
who sat in boxes (43) breathing in the darkness under the bridge, and rose up to build harpsichords in their lofts,
những kẻ ngồi trong các thùng hít thở trong bóng tối dưới gầm cầu, và trở dậy làm cây đàn Clavico trong những căn gác xép,
những kẻ ngồi trong thùng (43) hít thở trong bóng tối dưới gầm cầu, rồi chui lên sáng chế cây đàn Clavico trong những căn gác nhỏ,
who coughed on the sixth floor of Harlem crowned with flame under the tubercular sky surrounded by orange crates of theology, (44)
những kẻ ho trên lầu sáu trong khu Harlem đội ṿng lửa dưới bầu trời lao phổi bao quanh bởi màu cam tạo ra từ thần học,
những kẻ ho hen trên lầu sáu trong khu Harlem đầu nóng như lửa trong không khí lao phổi bao quanh bởi ảo vọng chữa bệnh nhờ sức mạnh thiêng liêng, (44)
những kẻ viết vội suốt đêm hứng khởi không ngừng nhập bùa mê cao độ đến sáng mai vàng là những đoạn thơ viết sai,
những kẻ viết vội vă suốt đêm cho kịp hứng khởi dồn dập lúc lên cao xuất thần để khi nắng vàng ban mai chiếu rơ thấy những đoạn thơ lẩm cẩm,
who cooked rotten animals lung heart feet tail borsht & tortillas dreaming of the pure vegetable kingdom,
những kẻ nấu xúp phổi tim chân đuôi thú vật śnh thối & bánh tráng bắp mơ mộng vương quốc rau cải tinh khiết,
những kẻ nấu xúp bằng phổi tim chân đuôi thú vật chết śnh ăn với bánh tráng ngô rồi mơ đến vương quốc chay tịnh rau cải,
who plunged themselves under meat trucks looking for an egg, (45)
những kẻ lao vào gầm xe tải chở thịt để t́m một quả trứng,
những kẻ lao vào gầm xe tải chở thịt để t́m một quả trứng, (45)
who threw their watches off the roof to cast their ballot for Eternity outside of Time, & alarm clocks fell on their heads every day for the next decade,
những kẻ quăng đồng hồ đeo tay khỏi mái nhà để bỏ phiếu chọn sự Bất Diệt ngoài Thời Gian & đồng hồ báo thức đổ xuống đầu họ mỗi ngày cho tới mười năm sau,
những kẻ quăng đồng hồ đeo tay khỏi nóc nhà như bỏ phiếu chọn lựa sự Bất Diệt ngoài Thời Gian v́ đồng hồ báo thức đập vào đầu họ mỗi ngày cho hết thập niên sau,
who cut their wrists three times successively unsuccessfully, gave up and were forced to open antique stores where they thought they were growing old and cried, (46)
những kẻ cắt cổ tay ba lần liên tục không thành công, bỏ cuộc và đưa đẩy mở tiệm bán đồ cổ nơi họ biết sẽ già nua và khóc kể,
những kẻ cắt cổ tay ba lần liên tiếp không thành công, chán nản đành mở tiệm bán đồ cổ chờ đợi chết già và than thở, (46)
who were burned alive in their innocent flannel suits on Madison Avenue amid blasts of leaden verse & the tanked-up clatter of the iron regiments of fashion & the nitroglycerine shrieks of the fairies of advertising & the mustard gas of sinister intelligent editors, or were run down by the drunken taxicabs of Absolute Reality,
những kẻ bị thiêu sống trong bộ đồ nỉ dày hồn nhiên trên đại lộ Madison giữa những bùng nổ của câu thơ nặng nề & tiếng ồn ào rối loạn từ những trung đoàn cứng ngắt thời trang & những tiếng cười nitroglyxerin từ những tiên nữ quảng cáo & hơi ngạt hăng say từ những chủ bút thông minh đầy sát khí, hoặc bị rượt đuổi tận cùng bởi đám tắc xi say xỉn của Thực Tại Vô Điều Kiện,
những kẻ bị thiêu sống trong bộ đồ nỉ dạ vô tư trên đại lộ Madison giữa những bùng nổ của câu thơ nặng nề & tiếng ồn ào náo loạn từ đám đông cứng ngắt theo thời trang & tiếng cười khích thích từ những mỹ nhân quảng cáo & hơi ngạt năng nổ bởi những chủ bút thông minh đầy sát khí, hoặc bị rượt đuổi đến tận cùng bởi đám tắc xi say xỉn của Thực Tại Tuyệt Đối,
who jumped off the Brooklyn Bridge this actually happened and walked away unknown and forgotten into the ghostly daze of Chinatown soup alleyways & firetrucks, not even one free beer,
những kẻ nhảy ra khỏi cầu Brooklyn chuyện này thật sự xảy ra và bị bỏ rơi biệt tăm và quên lăng vào mê muội ma ám trong các hẻm hóc bán ḿ ở phố Tàu & xe chửa lửa, thậm chí không chai bia nào miễn phí,
những kẻ nhảy khỏi cầu Brooklyn chuyện xảy ra có thật nhưng biến mất biệt tăm bị quên lăng vào mê muội ma ám trong các hẻm bán ḿ ở phố tàu & xe chửa lửa, thậm chí không một chai bia nào miễn phí,
who sang out of their windows in despair, fell out of the subway window, jumped in the filthy Passaic, leaped on negroes, cried all over the street, danced on broken wineglasses barefoot smashed phonograph records of nostalgic European 1930s German jazz finished the whiskey and threw up groaning into the bloody toilet, moans in their ears and the blast of colossal steamwhistles,
những kẻ hát lớn từ cửa sổ trong thất vọng, ngă ra khỏi cửa xe điện ngầm, nhảy xuống khúc sông Passaic dơ bẩn, nhảy lên đám da đen, khóc khắp con đường, múa trên ly rượu bể chân đất giậm nát đĩa hát thu nhạc jazz của Đức 1930 về thời buồn thảm ở Âu Châu nốc cạn rượu whiskey rồi nôn mửa rên rỉ trong bồn cầu bẩn thỉu, than văn vào tai họ và hồi c̣i của chiếc tàu chạy hơi nước đồ sộ,
những kẻ thất vọng hát từ cửa sổ, ngă ra khỏi cửa xe điện ngầm, nhảy xuống khúc sông Passaic dơ bẩn, nhảy lên lẫn lộn đám da đen, khóc lóc khắp phố phường, múa với ly rượu bể trên chân đất giậm nát đĩa nhạc Jazz Đức năm 1930 thâu nỗi buồn Âu Châu nốc cạn rượu mạnh rồi nôn mửa trong bồn cầu bẩn thỉu, nghe đầy than văn và hồi c̣i của con tàu dềnh dàng chạy hơi nước,
who barreled down the highways of the past journeying to the each other's hotrod-Golgotha jail-solitude watch (47) or Birmingham jazz incarnation,
những kẻ phóng xe trên các xa lộ từ hành tŕnh quá khứ đến cùng nhau nh́n ngắm xe tân trang-Núi Sọ nhà tù-cô đơn hoặc sự hiện thân nhạc jazz Birmingham,
những kẻ phóng xe nhanh trên các xa lộ qua hành tŕnh dài đến cùng nhau ngắm nh́n xe tân trang h́nh Núi Sọ như cô đơn trong tù (47) hoặc sự xuất hiện của nhạc Jazz Birmingham,
những kẻ lái xe băng ngang đất nước trong bảy mươi hai tiếng đồng hồ để t́m thử nếu tôi có nhăn lực hoặc anh có nhăn lực hoặc hắn có nhăn lực để khám phá sự Bất Diệt,
những kẻ lái xe băng ngang đất nước trong bảy mươi hai giờ để t́m hiểu tôi có tuệ nhăn hoặc anh có tuệ nhăn hoặc hắn có tuệ nhăn nh́n thấu sự Bất Diệt,
những kẻ du hành đến Denver, những kẻ chết ở Denver, những kẻ trở về từ Denver & đợi chờ vô ích, những kẻ theo dơi Denver & trầm tư & đơn độc tại Denver và cuối cùng bỏ đi xa t́m kiếm Thời Cơ, & Denver bây giờ bơ vơ cho những anh hùng,
những kẻ đến Denver, những kẻ chết ở Denver, những kẻ trở về từ Denver & mong chờ vô ích, những kẻ theo dơi Denver & thao thức & đơn độc tại Denver rồi cuối cùng ra đi t́m kiếm Thời Cơ, & bây giờ Denver bơ vơ chờ đợi những anh hùng,
who fell on their knees in hopeless cathedrals praying for each other's salvation and light and breasts, until the soul illuminated its hair for a second,
những kẻ qú gối vô vọng trong những đại thánh đường cầu nguyện cho nhau được cứu rỗi và trí tuệ và t́nh cảm, cho đến khi linh hồn sáng ngời tự nhiên trong một giây,
những kẻ qú gối trong các đại thánh đường cầu nguyện cho nhau được cứu rỗi được trí khôn được t́nh thương, cho đến khi linh hồn thoáng một giây tự dưng tỏa sáng,
who crashed through their minds in jail waiting for impossible criminals with golden heads and the charm of reality in their hearts who sang sweet blues to Alcatraz,
những kẻ tự đột nhập vào tâm trí trong tù chờ đợi những tội ác không thể xảy ra trong đầu óc vàng son và sức quyến rũ của thực tại trong con tim những kẻ hát nhạc blues ngọt ngào trong ngục Alcatraz,
những kẻ tự đào sâu vào tâm trí lúc trong tù chờ đợi những tội ác không hề xảy ra trong đầu óc quí báu và sức hấp dẫn của thực tế trong tim những kẻ hát nhạc Blues trầm ấm trong ngục Alcatraz,
who retired to Mexico to cultivate a habit, or Rocky Mount to tender Buddha or Tangiers to boys or Southern Pacific to the black locomotive or Harvard to Narcissus to Woodlawn to the daisychain or grave, (48)
những kẻ về hưu ở Mễ Tây Cơ để tu dưỡng tính t́nh, hoặc dăy núi Rocky để cầu Phật hoặc hải cảng Tangiers để t́m bạn thân hoặc Nam Thái B́nh Dương để t́m sức mạnh của da đen hoặc đại học Havard t́m hoa Thủy Tiên t́m khu Woodlawn t́m dăy hoa Cúc hoặc nấm mộ,
những kẻ về hưu đến Mễ Tây Cơ tu dưỡng tính t́nh, hoặc lên dăy núi Rocky cầu nguyện với Phật hoặc đi phố cảng Tangiers t́m bạn thân hoặc đến Nam Thái B́nh Dương t́m nguồn sinh lực da đen hoặc đến đại học Harvard t́m hoa Thủy Tiên t́m khu Woodlawn t́m vườn hoa Cúc và mộ phần, (48)
who demanded sanity trials accusing the radio of hypnotism & were left with their insanity & their hands & a hung jury, (49)
những kẻ đ̣i hỏi những phiên ṭa đúng đắn kết án đài phát thanh tội thôi miên & bỏ đi trong t́nh trạng điên rồ & những bàn tay của họ & một đoàn bồi thẩm treo cổ,
những kẻ đ̣i hỏi các phiên ṭa công chính, kết án đài phát thanh tội thôi miên rồi họ bỏ đi trong trạng thái điên rồ và bàn tay họ như treo cổ bồi thẩm đoàn,(49)
who threw potato salad at CCNY (50) lecturers on Dadaism (51) and subsequently presented themselves on the granite steps of the madhouse with shaven heads and harlequin speech of suicide, demanding instantaneous lobotomy,
những kẻ quăng món xà lách khoai tây vào giảng viên đại học cộng đồng New York chống lại phong trào Dada rồi sau đó tự thú ở thang cấp đá hoa cương vào nhà thương điên với đầu trọc lóc và nói năng hài hước đ̣i tự tử, yêu cầu giải phẫu năo ngay lập tức,
những kẻ quăng món xà lách khoai tây vào giảng viên đại học công đồng New York (50) phản đối phong trào Dada (51) rồi sau đó tự thú ở thang cấp đá hoa cương vào nhà thương điên với đầu cạo trọc và nói năng càn dở đ̣i tự tử, cần phải giải phẫu năo ngay lập tức,
and who were given instead the concrete void of insulin Metrazol electricity hydrotherapy psychotherapy occupational therapy pingpong & amnesia, (52)
và những kẻ được ban cho thay v́ thiếu thốn cụ thể Isulin Metrazol điện lực chữa bệnh bằng ngâm nước chữa bệnh tâm lư chữa bệnh nghề nghiệp thường xuyên thay đổi & chứng mất trí nhớ,
những kẻ được nhận lănh thay v́ thật sự thiếu thốn năng lượng Isulin Metrazol chữa bệnh bằng ngâm nước chữa bệnh tâm lư chữa bệnh nghề nghiệp chóng đổi & chứng mất trí nhớ,(52)
who in humorless protest overturned only one symbolic pingpong table, resting briefly in catatonia,
những kẻ không giỡn chơi phản đối lật nhào chỉ một bàn ping pong tượng trưng, điều dưỡng ngắn hạn v́ rối loạn tâm thần,
những kẻ không có ư đùa giỡn phản đối xô ngă tượng trưng chỉ một bàn ping-pong, bị điều dưỡng ngắn hạn v́ bị rối loạn tâm thần,
returning years later truly bald except for a wig of blood, and tears and fingers, to the visible madman doom of the wards of the madtowns of the East, (53)
vài năm sau về lại thấy đầu thật sự trọc ngoại trừ một mảng tóc giả màu máu, và nước mắt và ngón tay, rơ ràng là thân phận của kẻ điên bị giam giữ trong phố điên ở miền Đông,
vài năm sau quay về thấy đầu trọc lóc ngoại trừ một mảng tóc giả màu máu và nước mắt và ngón tay, rơ ràng là thân phận người điên bị giam cầm trong phố điên ở miền Đông, (53)
Pilgrim State's Rockland's (54) and Greystone's foetid halls, bickering with the echoes of the soul, rocking and rolling in the midnight solitude-bench dolmen-realms of love, dream of life a nightmare, bodies turned to stone as heavy as the moon,
những sảnh đường hôi hám ở Rockland tiểu bang hành hương và ở Greystone, căi vả với tiếng vọng của linh hồn, hưng phấn tiếp tục trên ghế dài- cô đơn lúc nửa khuya mộ đá- vương quốc ái t́nh, chiêm bao cuộc đời ác mộng, thân xác hóa đá nặng nề như vầng trăng,
những đại sảnh hôi hám ở Rockland đất hành hương (54) và ở Greystone, căi lăng nhăng với tiếng vọng của linh, tiếp tục hứng khởi trên ghế dài đơn độc lúc nửa khuya giữa vương quốc ái tinh như mộ đá, chiêm bao đời ác mộng, thân xác hóa đá nặng nề như vầng trăng,
with mother finally ******, and the last fantastic book flung out of the tenement window, and the last door closed at 4 a.m. and the last telephone slammed at the wall in reply and the last furnished room emptied down to the last piece of mental furniture, a yellow paper rose twisted on a wire hanger in the closet, and even that imaginary, nothing but a hopeful little bit of hallucination--
cuối cùng với bà mẹ ******, và cuốn sách lạ thường cuối cùng ném ra từ cửa sổ chung cư, và cánh cửa cuối cùng đóng lúc 4 giờ sáng và cái điện thoại cuối cùng ném vào tường thay v́ trả lời và căn pḥng có đồ đạc cuối cùng dọn trống đến món đồ tâm thần cuối cùng, một cành hoa hồng giấy vàng cột xoắn trên móc treo đồ trong tủ quần áo, và ngay cả tưởng tượng, không có ǵ nhưng hy vọng một chút ảo giác --
sau hết với bà mẹ******, và cuốn sách lạ thường cuối cùng quăng ra từ cửa sổ chung cư, cánh cửa cuối cùng đóng lúc 4 giờ sáng, chiếc điện thoại cuối cùng ném vào tường thay v́ trả lời, căn pḥng với đồ đạc cuối cùng bị dọn trống cho đến món đồ kỹ niệm cuối cùng, một cành hoa hồng giấy vàng xoắn trên móc kẽm treo trong tủ quần áo, và cho dù tưởng tượng, chẳng đáng ǵ ngoài một chút hy vọng trong ảo giác--
ah, Carl, while you are not safe I am not safe, and now you're really in the total animal soup of time--
này, Carl, trong khi bạn không an toàn tôi không an toàn, và bây giờ bạn thật sự trong nồi xúp của thời gian nấu toàn là thú vật --
này, Carl, trong lúc bạn không an toàn tôi không an toàn, bây giờ bạn thật sự ở rong nồi xúp của thời gian nấu toàn thú vật --
and who therefore ran through the icy streets obsessed with a sudden flash of the alchemy (55) of the use of the ellipse (56) the catalog (57) the meter & the vibrating plane,
và những kẻ v́ vậy chạy qua những đường đông đá ám ảnh bởi ánh sáng bất ngờ lóe lên hóa lạ lùng từ định luật Elip nơi mặt phẳng cong cuốn thư mục đồng hồ đo & mặt phẳng rung chuyển,
v́ vậy những kẻ chạy qua đường xá đông đá bị ám ảnh bởi ánh sáng bất ngờ lóe lên hóa thành lạ lùng (55) từ nơi mặt phẳng cong (56) cuốn thư mục (57) đồng hồ đo & mặt phẳng rung động,
who dreamt and made incarnate gaps in Time & Space through images juxtaposed, and trapped the archangel of the soul between 2 visual images and joined the elemental verbs and set the noun and dash of consciousness together jumping with sensation of Pater Omnipotens Aeterna Deus (58)
những kẻ mơ mộng và làm nên những khoảng cách một cách cụ thể giữa Thời Gian & Không Gian qua những h́nh tượng sắp gần nhau, và đặt bẫy bồ câu thiên sứ (Đức thánh thần?) của linh hồn giữa hai h́nh tượng trông thấy và nối lại với nhau những động từ cốt yếu và đặt danh từ và gạch ngang với ư thức cùng nhau tuôn vào với cảm xúc từ Đức Chúa Cha toàn năng hằng có đời đời
những kẻ ước mơ rồi tạo nên những khoảng cách cụ thể giữa Thời Gian và Không Gian qua những h́nh tượng sắp gần nhau, rồi đặt thần khí linh hồn vào giữa hai h́nh tượng đang nh́n thấy rồi nối những động từ chủ yếu, sắp đặt danh từ và dấu gạch ngang bằng ư thức để ḥa hợp tuôn vào cảm xúc từ Đức Chúa Cha toàn năng hằng có đời đời,(58)
để tái tạo cú pháp và cân đo văn xuôi yếu kém của loài người và đứng trước mặt bạn không nói năng và thông thái và run rẫy v́ mặc cảm, bị gạt bỏ dù sao linh hồn thú tội để thích nghi với nhịp điệu của ư tưởng trong cái đầu hói và vô tận,
để tái tạo cú pháp và đo lường văn xuôi tầm thường của nhân loại rồi xuất hiện trước bạn im lặng, thông thái và run rẫy v́ mặc cảm, bị từ chối dù sao linh hồn đă thú tội để thích nghi với nhịp điệu của ư tưởng trong chiếc đầu hói mà sâu sắc, (59)
the madman bum and angel beat in Time, unknown, yet putting down here what might be left to say in time come after death,
kẻ điên loạn lang thang và thiên thần beat của thời đại, vô danh, hơn nữa viết xuống chốn này những điều c̣n lại có thể nói đúng lúc sau khi chết,
kẻ điên loạn lêu lỏng là thiên thần Beat của thời đại, vô danh, hơn nữa đang viết xuống chốn này đúng lúc những điều sẽ tồn tại sau khi chết,
and rose reincarnate in the ghostly clothes of jazz in the goldhorn shadow of the band and blew the suffering of America's naked mind for love into an eli eli lamma lamma sabacthani (60) saxophone cry that shivered the cities down to the last radio
và đầu thai trở lại mặc y phục ma quái của nhạc Jazz trong bóng kèn đồng của ban nhạc và thổi niềm đau khổ trong trí tuệ trần trụi của người Mỹ cho t́nh yêu vào Lạy cha lạy cha sao cha nở bỏ con tiếng kèn saxo than văn rùng ḿnh các thành phố cho đến chiếc máy phát thanh cuối cùng,
và đầu thai trở lại mặc y phục ma quái của nhạc Jazz giữa bóng kèn đồng trong ban nhạc và thổi lên niềm thống khổ trong tâm trí trần trụi của người Mỹ cho t́nh yêu vào tiếng kèn saxo than văn Lạy cha lạy cha sao cha nở bỏ con (60) làm rùng ḿnh phố xá cho đến chiếc radio cuối cùng,
with the absolute heart of the poem butchered out of their own bodies good to eat a thousand years.
với hoàn toàn trái tim của bài thơ bị mổ ra từ thân xác của họ đủ ngon để ăn một ngàn năm.
với trái tim nguyên vẹn trong bài thơ bị cắt xẻ từ thân xác của họ đủ ngon để ăn suốt một ngàn năm sau.
Allen Ginsberg Reading Howl (Part 1) Allen Ginsberg đọc Hú -Howl (phần 1)
(c̣n tiếp phần II và III)
Ngu Yên
http://www.gio-o.com/NguYen.html
© gio-o.com 2014