Ngô Văn Tao

 

Tuân Nguyễn,  

Bạn Của Phùng Quán

 

 

Osip E. Mandelstam (1891-1938), thi sĩ tiếng nga, năm 1933 trước nạn đói khủng khiếp ở Liên Xô, hậu quả của  chính sách độc đoán thiết lập Xă Cộng Đồng Nông Trường (Kolkoze) của  J. Staline, đă dám viết một bài thơ 16 câu mạt thị Staline:

 

“Chúng tôi sống, không c̣n trên quê hương nữa

Đứng bên nhau không có quyền được nghe lẫn nhau….”

 

C̣n thêm câu ở nơi khác “Chỉ ở nước Nga (nước Nga của Staline), thi ca thật là trang trọng, có thể đưa dẫn người lên tử đài. Không đâu hết như ở nước Nga, một câu thơ có thể là một cái cớ để giúp  họ hại nhau.”

 

O.E. Mandelstam tức khắc bị bắt giam ra vào những nhà tù chính trị (Goulag), để chết năm 1938 trên đường đi đầy  tới  Sibérie.

 

Tuân Nguyễn (1933-1983)*, là nhà thơ Việt Nam. Tuy chứng kiến cái hoạ tàn bạo tố khổ và đói khát của phong trào Cải Cách Ruộng Đất, Tuân Nguyễn may không liên lụy với tội phạm Nhân Văn, nhưng công khai là bạn của Phùng Quán. Năm 1964, tuy đương làm chức vụ trách nhiệm mục  “Tiếng Thơ” của đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, đă phạm hai tội:

 

1) Đưa lên đài tiếng nói Việt nam, những ư kiến làm sao chặn đứng được việc của một số ít đồng chí trong ngành thuỷ lợi thông đồng với ban chỉ huy công trường thuỷ lợi tại nông trường Rạng Đông, tỉnh Nam Định, nghiệm thu khống việc đào đắp để ăn chặn công nhân và dân công, lấy tiền bỏ túi chia nhau.(Mai Niệm)

 

2) Chỉ trích thơ Xuân Diệu, Tố Hữu (những lời đó phải đă ghi trong nhật kư). Quyển nhật kư của Tuân Nguyễn ghi rơ tâm tư của tác giả, bị lục lấy cắp đưa lên cho bề trên (ban tuyên huấn, Tố Hữu, Trường Chinh, Lê Đức Thọ???).

 

Ngay sau đó, không bản án ngoài trừ cái án miệng : “phản cách mạng” , Tuân Nguyễn bị c̣ng tay ngay ở cơ quan Tiếng Nói Vit Nam đưa vào trại tù lao động cải tạo hơn chín năm. Khi về lại Hà Nội năm 1973, không hộ khẩu , không biên chế phải làm phu đánh xi giầy, làm phu khiêng thùng phân để tồn tại. Chỉ sau 1975, đổi lai lịch, vào trong Nam, t́m được chân dạy học, nhưng than ôi, chỉ vài năm sau bị tai nạn xe cán chết năm 1983.

 

Cao Xuân Hạo từng nói: “…khi có ai đó kêu lên “trời, sao mà tôi khổ thế?”, th́ hăy nh́n vào Tuân Nguyễn sẽ thấy ḿnh không phải là người khổ.”

 

Nguyễn B́nh Vợi viết: “cái thời ấy, một số thanh niên có chút kiến thức, tài năng đă hoang tưởng, nghĩ ḿnh có thể cầm đuốc đốt trời! Thiếu kiến thức cuộc đời, thừa kiến thức sách vở, cậu nào cậu nấy bị nạn, nhưng không ai đau đớn oan khuất bằng Tuân Nguyễn”.

 

*(Theo tài liệu được công bố trong tập sưu tầm biên soạn: Trần Phương Trà, “Nhớ tuân Nguyễn”. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội 2008)

 

 

Dưới đây hai bài thơ:

 

Le Bagnard” (trích từ tập “Papyrus”, thơ tiếng Pháp, nhà Xuất Bản Văn Nghệ, Saigon 2000), tôi đă viết  năm 1999 dựa trên mấy câu thơ của chính O.E. Mandelstam.

 

“Tù Chính Trị lao động cải tạo” là bài tôi phỏng dịch lại bài tiếng Pháp trên. Nhưng phỏng dịch với tâm tư hướng về nhân thế ca nhà thơ Tuân Nguyễn.

 

Kết luận hai bài đều là lời gào thét của chính tôi làm sao đây chúng ta không c̣n cái cảnh người hại người v́ những hoang tưởng, oan khiên độc tài gian dối…

 

Ngô Văn tao

 

LE BAGNARD 

(O. MANDELSTAM)

 

 

Loin de la mer, loin des embruns et loin des vagues

Du vol d’albatros à la ligne d’horizon

Plus rien que silence tout au fond de mon bagne

Larmes d’une caresse ancienne sur mon front

 

On m’a tout enlevé sauf le vol des nuages

Et la poésie qui est toujours dans mon coeur

On fixe un lieu pour y terminer mon voyage

Et solitude au petit reste du bonheur

 

Ce matin un oiseau au-devant de ma hutte

Il a sifflé la mélodie que j’ai oubliée

Envol et murmure d’un haut chant de la flûte

 

Je revois dans l’étang ma propre ombre émaciée

Et à elle, je parle en secret de ma peine

Des mots interdits à la liberté si vaine

 

2.8.1999

Extrait du recueil de poésie:

Ngô Văn tao -  PAPYRUS,   Nhà xuất bản Văn Nghệ , Saigon  2000

 

 

 


 

 

 

TÙ CHÍNH TRỊ LAO ĐỘNG CẢI TẠO

(TUÂN NGUYỄN)

 

 

Xa biển xa hơi sương và ngọn sóng

Với cánh chim âu ở tận cuối trời

Âm u lạnh lẽo khổ lao tù đầy

Những hàng lệ thầm lăn trên hai má

Người ta tịch thâu hết - c̣n ǵ đâu

C̣n mây đen với đêm dài tuyệt vọng

Và trong tôi bài thơ không giấy viết

Tôi không c̣n được nghĩ đến t́nh yêu

Được nhớ dù chỉ th́ thầm không tiếng

Ôi! Hạnh phúc nào khi nói “Yêu em!”

 

Trên thành tù không ánh nắng b́nh minh

Con chim xanh hót một điệu nhạc buồn

Như tiếng sáo tự tận cùng thế giới

Bay vi vút dao động cả hồn tôi

Tôi nh́n lại bóng tôi trong vũng lầy

Chiếc bóng hay h́nh hài con ma đói

Biết chia sẻ cùng tôi  niềm u uất

Mất tự do mất cả phận làm người.

 

14.7.2008

Ngô Văn Tao

 

 

http://www.gio-o.com/ngovantao

 

 

 

© 2008 gio-o