Geoff Wade
BÊN NGOÀI CÁC BIÊN GIỚI PHÍA NAM:
ĐÔNG NAM Á TRONG
CÁC VĂN BẢN TRUNG HOA
CHO ĐẾN THẾ KỶ THỨ CHÍN
(sẽ lên 3 kỳ)
kỳ 1
Ngô Bắc dịch
Các lịch sử mà chúng ta có ngày nay về các chính thể và các xã hội Đông Nam Á trong thiên niên kỷ thứ nhất Sau Công Nguyên (SCN) vẫn còn sơ sài, phôi thai, và không chính xác. Song chúng sẽ còn thô sơ và mong manh hơn nữa nếu không có các sự tham chiếu đến vùng này được ghi chép trong các nguồn tài liệu Trung Hoa cổ điển. Bài khảo luận này giới thiệu một số trong các văn bản đó, chiếu sáng những gì chúng có thể nói cho chúng ta về các chính thể và các thời khoảng tồn tại của chúng, các quan hệ của chúng với các thể chế khác, các đặc điểm văn hóa của chúng, và các xu hướng tôn giáo của chúng. Các sự tường thuật theo sau không có ý định trở thành các sử ký bao quát, hay cũng không phải là các lịch sử cá biệt nhất thiết phải mạch lạc. Đúng hơn, chúng nhằm soi sáng các xã hội ban sơ trong một cách đại lược, bằng việc trích xuất từ một loạt nguồn tài liệu to lớn, các dự kiện liên hệ nhiều nhất với các truyền thống được trình bày trong ấn phẩm này.
Khung Cảnh Cho Sự Hiểu Biết
Của Trung Hoa Thời Ban Sơ Về Đông Nam Á
Trong thiên niên kỷ đầu tiên SCN, sự dính líu của Trung Hoa, và theo đó là kiến thức, về Đông Nam Á đã tiến triển theo nhiều đường hướng. Sự giao chiến chính trị và quân sự với các chính thể sát phía nam cung cấp một số hiểu biết; các phái bộ ngoại giao mang lại các thông tin khác; các nhà mậu dịch từ các địa điểm ngang qua vùng Âu-Á đã mang các sự tường thuật đến Trung Hoa; và các kẻ hành hương Phật Giáo vùng Đông Á thường du hành đến quê hương của Đức Phật theo đường biển dọc bờ biển của vùng Đông Nam Á lục địa và xuyên qua các lãnh địa hàng hải bao quanh. Cho đến thế kỷ thứ mười, sự hiểu biết của Trung Hoa về Đông Nam Á rõ ràng được hạn chế đến vùng đất liền, Bán Đảo Mã Lai, và vùng Sumatra-Java. Ba vùng này sẽ được dùng làm sự phân loại sắp xếp cho các văn bản Trung Hoa khảo sát dưới đây.
Sự đề cập lịch sử sớm nhất của Trung Hoa đến các chính thể vùng Đông Nam Á hàng hải xem ra có thể được tìm thấy trong Hán Thư (Han shu 漢 書: Lịch Sử Nhà Tiền Hán), một văn bản có niên kỳ vào khoảng năm 100 SCN. Quyển sử có trình bày một cuộc du hành đến Đông Nam Á cũng như các chính thể-hải cảng được thăm viếng trong cuộc du hành. 1 Các sự xác định tất cả các địa danh được đề cập tới trong văn bản vẫn còn bị tranh nghị (xem Hình 30) [số được đánh thứ tự trong nguyên bản, chú của người dịch]. Trong khi nơi đến rất có thể là Kanchi (puram)/Conjeevaram, kinh đô Pallava tại miền nam Ấn Độ, và cuộc du hành nhiều phần liên hệ đến một lộ trình xuyên bán đảo ở một nơi nào đó gần Eo Đất (Isthmus of) Kra, tên gọi và vị trí của các chính thể Đông Nam Á thì khó hiểu. Các văn bản khác nêu ý kiến rằng các sự nối kết mậu dịch hàng hải ban sơ giữa Trung Hoa, Ấn Độ, và Trung Đông diễn ra trong thế kỷ thứ nhì hay sớm hơn. 2
Hoạt động thương mại giữa Nam Á Châu và Đông Nam Á Châu đã tăng trưởng trong thời trị vì của các nhà lãnh đạo Gupta (thế kỷ 4 – 6) tại miền bắc Ấn Độ và dưới các triều đại Pallava (thế kỷ thứ 4 – 9) và Pandya (thế kỷ 6 – 10). Sự bành trướng thương mại hàng hải tại Vịnh Bengal và Biển Nam Trung Hoa trong suốt các thời kỳ này cũng đã mang lại các hải lộ mới cho các giáo sĩ Phật Giáo Trung Hoa du hành sang Ấn Độ. Các thế kỷ thứ bảy và thứ tám đã chứng kiến công cuộc mậu dịch hàng hải được bành trướng lớn lao giữa Ấn Độ, Đông Nam Á và Trung Hoa, cùng với sự tham dự gia tăng bởi các nhà mậu dịch Ba Tư và Ả Rập, bất kể các biến cố phức tạp chẳng hạn như sự hạ sát tổng đốc Quảng Châu bởi các thương nhân từ Kunlun (昆 侖: Côn Luân) trong một vụ tranh chấp mậu dịch hồi năm 684; 3 cuộc lục soát Quảng Châu hồi năm 758 bởi dân đi biển được mô tả trong các văn bản Trung Hoa là các người Ba Tư ( 波 斯: Persians) và Ả Rập (大 食 Đại Thực, Great Food); sự hạ sát hàng nghìn nhà mậu dịch Ba Tư (波斯) tại hải cảng của Trung Hoa ở Dương Châu (Yangzhou) năm 760; 4 và sự thiêu đốt và cướp bóc Quảng Châu bởi quân nổi loạn Huang Chao (Hoàng Sào) năm 878. Các thương nhân từ các chính thể Đông Nam Á cũng đã tham gia vào mậu dịch này, và các vai trò của họ được thảo luận dưới đây. Chính trong khung cảnh của hoạt động mậu dịch hàng hải đường trường này, được thực hiện bằng các chiếc thuyền của Đông Nam Á và Nam Á (chứ không phải của Trung Hoa) trong suốt thời kỳ này, nhiều sự tham chiếu bằng Hán ngữ về các chính thể Đông Nam Á có thể được xác định vị trí.
Các Chính Thể Đông Nam Á Lục Địa
Tổng quan này bắt đầu với các chính thể tọa lạc tại vùng Đông Nam Á lục địa, do sự gần gủi nhất về mặt địa dư với các nhà quan sát Trung Hoa.
Champa: Chàm
Lâm Ấp (Linyi 林 邑) / Hoàn Vương (Huanwang 環 王) /
Chiêm Bà (Zhanpo 占 婆)
Chiêm Bất Lao (Zhanbulao 占 不 勞) /
Chiêm Thành (Zhancheng: 占 城)
Lâm Ấp, Hoàn Vương, và Chiêm Bà là các tên gọi liên tiếp nhau trong Hán tự để chỉ một chính thể (hay nhiều chính thể) mà các sử gia nói chung gọi là Champa (Chàm hay Chăm, tiếng Phạn là Campa), được thành lập bởi một giới tinh hoa thuộc ngữ hệ Austronesian. Lãnh thổ của nó nằm ngay phía nam của các khu vực do Trung Hoa quản trị, thuộc phần ngày nay là miền bắc Việt Nam, trải dài xuống phía nam dọc theo bờ biển miền trung cho đến châu thổ sông Mekong.
Lâm Ấp xem ra đã hiện diện tại khu vực này khoảng thế kỷ thứ nhì hay sớm hơn, và thủ đô của nó nhiều phần tọa lạc, cho đến thế kỷ thứ bảy, gần Trà Kiệu trong thung lũng của sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam ngày nay. 5 Các sứ giả của chính thể này đã xuất hiện tại triều đình nhà Tấn (Jin) gần Nam Kinh, Trung Hoa ngày nay, giữa các năm 280 và 290.
Xã hội chắc chắn có trình độ học thức hồi thế kỷ thứ tư, khi một sứ giả, được phái đến triều đình nhà Tấn vào giữa thế kỷ đó, đã đệ trình một văn thư được viết bằng một “văn tự ngoại quốc: foreign script: 胡 字 Hồ Tự) 6 Văn tự nêu ra rõ ràng là tiếng Ấn Độ (Indic), và đây là một trong các sự tham chiếu sớm nhất về sự sử dụng bất kỳ văn tự nào tại Đông Nam Á. 7 Các ảnh hưởng Ấn Độ khác hiển nhiên đã thẩm nhập vào xã hội hồi thế kỷ thứ năm; chúng ta được nói cho hay rằng tại Lâm Ấp thế kỷ thứ năm, các vị thày giáo đáng kính được gọi là Brahmans (Bà La Môn: 婆 羅 門), và rằng chính các vị giáo sĩ Bà La Môn này đã cử hành các hôn lễ. 8
Các sự gia nhập tôn giáo của người dân Lâm Ấp trong thế kỷ thứ năm được trình bày trong các văn bản Trung Hoa. Quyển Nan Qi shu (南 齊 書 Nam Tề thư, Sử Ký Nhà Nam Tề), biên soạn năm 537, ghi chép rằng quốc vương Lâm Ấp là một đi theo đường lối của nirgranthas (事 尼 乾 道: sự ni can đạo) 9, có thể là một sự đề cập đến các giáo sĩ phái Bà La Môn khổ hạnh chẳng hạn như Saiva Pasupatas, và rằng ông cho đúc các hình tượng nhân thần (anthropomorphic) bằng vàng và bạc có chu vi vòng tròn mười wei: vi. 10 Kim loại vàng, theo các văn bản Trung Hoa, thì rất phong phú tại Lâm Ấp, lôi cuốn sự chú ý từ cả các nhà mậu dịch lẫn các kẻ xâm lược. 11
Danh hiệu bằng tiếng Ấn Độ đầu tiên được hay biết dành cho một quốc vương Lâm Ấp xuất hiện trong một tham chiếu có niên đại năm 529, trong đó tước hiệu được ghi là Gao-shu-lu-tuo-luo-ba-mo (nhiều phần là Ku Sri Rudravarman), hiển nhiên kết hợp cả các thành phần của tiếng Chàm lẫn tiếng Phạn. 12 Vào cuối thế kỷ thứ sáu, tên và tước hiệu tiếng Ấn Độ, vốn cũng kết hợp với các thành phần của cả tiếng Phạn lẫn ngôn ngữ của Đông Nam Á, được phổ biến khắp xã hội, kể cả trong cơ cấu hành chính. 13 Sự nắm giữ quyền lực của một triều đại thống nhất tại Trung Hoa, nhà Tùy, trong năm 581 một lần nữa cho phép đẩy các hoạt động quân sự xuống phía nam. Trong năm 605, hoàng đế nhà Tùy ra lệnh một cuộc tấn công bằng hải quân khác vào Lâm Ấp. Trên đường tiến vào thủ đô, các lực lượng của viên tướng lĩnh Trung Hoa, Lưu Phương (Liu Fang 劉 方) đã tịch thu mười tám bức hình tượng đền đài chính yếu, tất cả được đúc bằng vàng và được tường thuật tượng trưng cho mười tám vị vua liên tiếp của Lâm Ấp; 14 các đội quân cũng lấy đi 1,350 bộ Kinh Phật, cho thấy rằng Lâm Ấp vào lúc này đã là một trung tâm quan trọng của việc học hỏi Đạo Phật
Ngoại giao và mậu dịch giữa triều đình nhà Đường và Lâm Ấp, giờ đây dưới ảnh hưởng của Trung Hoa, kế đó đã nảy nở, với các sứ bộ sang Trung Hoa và sự trao đổi các sản phẩm được ghi nhận trong các năm 686, 691, 695, 699, 702, 703, 706, 707, 709, 711, 712, 713, và 731. 15 Lâm Ấp đã gửi sứ bộ ngoại giao cuối cùng của nó sang Trung Hoa năm 749. 16
Đên giữa thế kỷ thứ tám, một sự thay đổi đã xảy ra trong tên gọi theo đó chính thể Chàm được hay biết đối với phía Trung Hoa. Về Lâm Ấp, Tang Hui yao (唐 會 要, Đường Hội Yếu: Lịch Sử Định Chế Nhà Đường, được đệ trình lên triều đình năm 961) ghi nhận: “Sau thời trị vì Zhide [756-58], nó đã thay đổi tên thành vương quốc của Huanwang (Hoàn Vương) và không còn dùng tên Lâm Ấp nữa”. Chính thể xem ra đã di chuyển hay mở rộng nền hành chính của nó về hướng nam trong thời kỳ này, và rõ ràng đã có sự tranh chấp với các lực lượng Đông Nam Á khác, như được làm bằng bởi hai bia ký. Một trong hai, bản khắc trên bia tại Po Nagar từ Nha Trang, trung phần Việt Nam, có niên đại là 784, ghi chép rằng “các người da sậm, hung bạo, độc ác của các thành phố khác … đến bằng các chiếc thuyền và mang đi mất linga (dương vật) của vị thần” đã được dựng lên tại vương quốc Kauthara. 17
Tên gọi Chàm dường như đã xuất hiện lần đầu tiên trong văn liệu Trung Hoa vào năm 658, được mô tả là Zhanbo (瞻 博, Chiêm Bác)18 và Tân Đường thư (Xin Tang shu 新 唐 書, Sử Ký mới của nhà Đường, biên soạn năm 1060) ghi nhận rằng chính thể của Hoàn Vương cũng còn được biết đến là Zhanbulao (Campapura hay Cam Pulau) cũng nhu Zhanpo (Campa). 19 Tuy nhiên, chính vào năm 877, tên gọi theo đó xứ Chàm (Champa) được hay biết đối với phía Trung Hoa trong bảy trăm năm kế đó đã được ghi chép lần đầu tiên: Zhancheng: Chiêm Thành, dịch sát nghĩa là “thành phố Chàm”. 20 Chính thể này sẽ gửi các sứ bộ đến các triều đình thời Ngũ Đại của Trung Hoa trong các năm 951, 958 và 959.
Căm Bốt (Cambodia)
Phù Nam (Funan 扶 南) / Chân Lạp (Zhenla: 真 臘) /
Văn Thiền (?)(Wenchan 文 單)
Một chính thể khác, được biết trong các văn bản Trung Hoa là Phù Nam và tập trung quanh châu thổ của con sông Mekong vĩ đại, đã được chú ý bởi Trung Hoa trong các thế kỷ sớm sủa Sau Công Nguyên. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong các tác phẩm của Trung Hoa trong thập niên 220, ghi chép rằng nước Ngô (Wu) tại Trung Hoa đã gửi một, có lẽ hai sứ bộ đến đó để phát huy mậu dịch. 21 Trong khi các nguồn gốc của tên gọi vẫn tiếp tục được tranh luận, xem ra ít có sự nghi ngờ rằng “Funan: Phù Nam” là một cách trình bày bằng Hán Tự một từ ngữ Khmer. Trong thập niên 670, nhà sư Trung Hoa Yijing (義 淨Nghĩa Tịnh) có ghi nhận rằng “di hành về hướng tây nam trong một tháng [từ Lâm Ấp], người ta đến xứ Banan [跋 南 國 Bà Nam Quôc], trước đây được gọi là Phù Nam”. 22 Như thế, nơi đây chúng ta nhận thấy một lối trình bày khác của Trung Hoa về một danh xưng chắc chắn đến từ cùng từ ngữ Khmer, rất có thể là bnam/ phnom (núi hay đồi). Phần lớn các học giả liên kết chính thể này với các địa điểm ban sơ được biết đến ngày nay là Óc Eo (từ thế kỷ 1 – 6), 23 tại miền nam Việt Nam, và Angkor Borei (thế kỷ 4 -6), tại miền nam Căm Bốt. 24
Khá nhiều văn bản Trung Hoa đề cập đến Phù Nam, và nhiều phần đã được khám phá hồi đầu thế kỷ thứ hai mươi bởi sử gia và nhà văn bản học Paul Pelliot. 25 Tầm mức và nội dung của các sự tham chiếu khiến không còn mấy nghi ngờ rằng Phù Nam đã là một chính thể trội bật tại Đông Nam Á bắt đầu từ thế kỷ thứ ba hay sớm hơn nữa. 26 Rõ ràng rằng vào lúc đó, dân đi biển từ Phù Nam đã sẵn du hành sang Ấn Độ. 27 Biển cả cũng mang lại các khả tính của sự chinh phục cho Phù Nam, và ở một thời điểm nào đó trong thế kỷ thứ ba, chúng ta hiểu rằng một nhà lãnh đao tên gọi là Fan [shi] man 范 師 蔓Phạm Sư Man, kẻ, trong nhiều dịp, “đã sử dụng các binh sĩ để tấn công và khuất phục các vương quốc láng giềng, các nước tự nhận mình là các chư hầu của ông ta. Bản thân ông ta đã chấp nhận phong cách của “Vị Vua Vĩ Đại Xứ Phù Nam”. Khi đó ông đã ra lệnh xây dựng các chiếc thuyền vĩ đại và, băng ngang ngay cả Zhanghai(漲 海 Trướng Hải) [Vịnh Thái Lan], đã tấn công hơn mười vương quốc, kể cả Judukun 屈 都 昆Khuất Đô Côn, Jiuzhi 九 稚 Cửu Trĩ, và Diansun 典 孫 Điển Tôn”.
Cả Tấn Thư (Jin shu 晉 書, Sử Ký Nhà Tấn, biên soạn năm 648) và quyển Nan Qi shu Nam Tề Thư, đều tường thuật rằng Phù Nam có một tàng thư cất giữ tài liệu của nó và rằng văn tự của nó tương tự như văn tự của dân hu (văn tự “tây phương”), nơi đây có nghĩa Ấn Độ). Các văn bản cũng thuật lại một truyền thuyết nền tảng cho chính thể, rất giống như một biến thể của một truyền thuyết Ấn Độ về sự kết hôn của Kaundinya với con gái của vua Rắn (nagas: các con rắn). Thảo luận về thời ban sơ của thế kỷ thứ năm, một nguồn tài liệu sau này ghi nhận: “Vua Kaundiny憍 陳 如 nguyên gốc là một Brahman: tăng lữ từ Ấn Độ, và một giọng nói của thần linh nói với ông ta rằng ông phải cai trị xứ Phù Nam. Kaundinya vui mừng nhưng lại đi xuống phía nam đến Panpan. Người dân Phù Nam có nghe biết về điều này và đề cử ông làm vua. Ông đã thay đổi các hệ thống và sử dụng luật lệ Ấn Độ “. 28 Rất hiếm khi chúng ta tìm thấy được một sự tham chiếu rõ ràng như thế về các tiến trình Ấn Độ Hóa tại Đông Nam Á, ngay dù có thể chỉ nói một cách bóng gió.
Trong nửa thứ nhì của thế kỷ thứ năm, vua Phù Nam được tường thuật có mang “họ” Qiao-chen-ru 侨 陈 如 (tiếng Hokkien đọc là Giao-din-lu), 29 một lần nữa rõ ràng đại diện cho Kaundinya. Tên gọi của ông được nói là Qie-ye-ba-mo 朅 耶 跋 摩 (Jayavarman). Bản văn còn nói thêm rằng nhà lãnh đạo này đã phái chuyên viên tôn giáo Ấn Độ 天 竺 道人 Thiên Trúc Đạo Nhân tên là Na-jia-xian 那 伽 仙(Nagasena) đến triều đình Liu Song tại vùng ngày nay là Nam Kinh để dâng cống phẩm, gồm cả một hình tượng khảm vàng một vị vua rồng đang ngồi, 30 một một ảnh tượng bằng gỗ đàn hương trắng, và hai hộp hình tháp lăng (stupas) bằng ngà voi. 31 Các nhà biên niên sử Trung Hoa cũng mô tả các biểu tượng tôn giáo được sử dụng tại Phù Nam vào thời điểm này: “Cách hành đạo của họ là tôn thờ Thiên Thân (Heavenly Spirit 天神, và họ có các ảnh tượng bằng đồng của Thiên Thần, kẻ có hai mặt và bốn cánh tay, hay bốn mặt và tám cánh tay, và mỗi cánh tay cầm một thứ gì đó”. 32 Sự thờ phượng “Thiên Thần” ám chỉ tôn giáo Bà La Môn.
Hình 30: Các vị trí phỏng đoán của các chính thế được đề cập đến
trong các văn bản Trung Hoa cho đến thế kỷ thứ 9
Thế kỷ thứ bảy cũng được chứng tỏ là trọng yếu đối với Phù Nam. Nó đã phái sứ bộ cuối cùng của nó đến Trung Hoa giữa các năm 618 và 649. Trong khi đó, một chính thể khác, được biết đối với phía Trung Hoa là Chân Lạp (Zhenla), đã trổi lên trong khu vực. Nguồn gốc danh xưng này được tranh luận nhiều, nhưng có thể có ít sự nghi ngờ, với các từ ngữ đó được phát âm trong tiếng Hokkien mang lại một sự tương ứng gần như hoàn hảo với các từ “Tonle”, tên gọi bằng tiếng Khmer cho hồ (Tonle Sap) nằm tại trung tâm địa dư của nền văn hóa Khmer, rằng tên gọi phát sinh từ đặc tính đó”. 33 Chính thể Chân Lạp chính vì thế nhiều phần xuất hiện tại khu vực chung quanh Tonle Sap.
Chân Lạp bắt đầu gửi các sứ bộ đến kinh đô nhà Tùy, tọa lạc gần Xi’an (Tây An) ngày nay, trong năm 616. 34 Một trong các sự tường thuật sớm nhất về chính thể mới này được chứa đựng trong Sui shu 隋書 Tùy thư (Sử Ký Nhà Tùy), một lịch sử triều đại được hoàn tất trong năm 636, chỉ hai thập niên sau khi có sự đến nơi của phái bộ Chân Lạp đầu tiên tại Trung Hoa. Quyển sử này ghi nhận: “Vương quốc Chân Lạp nằm ở phía tây nam Lâm Ấp, và nguyên thủy lệ thuộc vào Phù Nam”. 35 Nhà vua có họ là Sha-li 剎 利 (Ksatriya) và tên gọi là Zhi-duo-si-na 質多斯那 (Citrasena). 36 Chính trong thời cai trị của Citrasena, Tùy thư cho chúng ta hay, rằng Chân Lap, đã sáp nhập Phù Nam. Sau khi từ trần, Citrasena được thay thế bởi con trai của ông Yi-she-na-xian 伊 奢 那 先 (Isanasena), kẻ đã sinh sống tại Isanapura伊奢 那 城 (Sambor Prei Kuk, Trung phần Căm Bốt.
Gần kinh đô thế kỷ thứ bảy là Núi Lingjiabopo (Linga-parvata) 5 chữ Hán) trên đỉnh núi là một ngôi chùa luôn luôn được canh gác bởi quân số năm nghìn người. 37 Tác giả quyển Tùy thư đã kết luận: “Họ tôn kính các vị thần của họ đến mức độ này. Họ tôn kính lớn lao Luật của Đức Phật và cũng rất tin tưởng nơi các đạo sĩ Bà La Môn 道 士. Cả tín đồ Phật Giáo lẫn Bà La Môn đều có đặt các hình tượng trong các ngôi đền, chùa”. 38
Không mấy thập niên sau đó, vào khoảng 707, theo Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường thư (Lịch Sử Cũ về nhà Đường; biên soạn năm 945), Chân Lạp được phân chia làm hai: Thổ Chân Lạp (Land Zhenla) hay Wenchan 文 單, 39 một khu vực núi non ở phía bắc, và Thủy Chân Lạp (Water Zhenla) ở phía nam. Phần kể sau, mà lãnh thổ có chu vi vào khoảng 800 lý (li: dặm), trải dài về hướng đông cho tới Panduranga, hướng tây tới Dvaravati, hướng nam xuống tới“tiểu đại dương” (Vịnh Thái Lan), và hướng bắc đến Thổ Chân Lạp. Nhà vua cư ngụ tại một thành phố được gọi là Poluotiba 婆 羅 提 拔. 40
Môi trường tôn giáo của Chân Lạp hồi thế kỷ thứ chín được trình bày bởi nhà biên soạn Jiu Tang shu (Cựu Đường Thư) như sau: “Xứ sở tôn kính Phật Giáo và Đế Thiên 天 神 Thiên Thần. Sự thờ phụng Đế Thiên trội bật nhất, và Phật Giáo đứng sau nhánh này về sự nổi bật”. 41 Một lần nữa, sự hỗn tạp tôn giáo của các xã hội Đông Nam Á Lục Địa trong thời kỳ này được phản ảnh một cách rõ ràng trong các văn bản Trung Hoa.
(còn tiếp 2 kỳ)
____________
Nguồn: Geoff Wade, “Beyond the Southern Borders: Southeast Asia in Chinese Texts to the Ninth Century”, Lost Kingdoms: Hindu-Buddhist Sculpture of Early Southeast Asia, biên tập bởi John Guy, Metropolitan Museum of Art, May 6, 2014, các trang 25-32.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
25.05.2015