National Museum of American Diplomacy
United States State Department
Washington, D.C.
Sự sụp đổ của Sài Gòn (1975):
Sự dũng cảm của các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và
người tị nạn Việt Nam
Ngô Bắc dịch
April 29, 2021
Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thủ đô Sài Gòn của miền Nam Việt Nam rơi vào tay Quân đội Bắc Việt Nam, thực sự kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Trong những ngày trước, các lực lượng Hoa Kỳ đã di tản hàng ngàn người Mỹ và Nam Việt Nam. Các nhà ngoại giao Mỹ đã ở tiền tuyến, tổ chức cuộc di tản bằng máy bay trực thăng tham vọng nhất trong lịch sử.
Công tác tiếp vận cấp thị thực và di tản những công dân Hoa Kỳ và Việt Nam này không hào nhoáng nhưng rất cần thiết. Các nhà ngoại giao Mỹ đứng sau mọi chi tiết. Một số nhà ngoại giao đã thể hiện sự dũng cảm đặc biệt khi cứu những công dân Việt Nam, những người lẽ ra sẽ phải đối mặt với sự ngược đãi dưới chế độ mới.
Những hiện vật và hình ảnh này trong bộ sưu tập của chúng tôi cung cấp một cái nhìn thoáng qua về những gì các nhà ngoại giao và người tị nạn đã trải qua trong sự sụp đổ của Sài Gòn. Nhìn rộng hơn, chúng biểu thị những hoàn cảnh thử thách và nguy hiểm mà các nhà ngoại giao có thể gặp phải khi thực hiện công việc của mình.
Một nhân viên của CIA giúp người di tản leo thang lên trực thăng của Air America trên nóc số 22 đường Gia Long, một khách sạn cách Đại sứ quán nửa dặm, ngày 29 tháng 4 năm 1975, ngay trước khi Sài Gòn thất thủ trước sự tiến công của quân Bắc Việt.
***
Sài Gòn tháng 4 năm 1975
Mặc dù Hoa Kỳ đã rút các lực lượng quân sự khỏi Việt Nam sau khi ký kết Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973, vẫn còn khoảng 5.000 người Mỹ ở lại - bao gồm cả các nhà ngoại giao vẫn làm việc trong đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Trong khi Tổng thống Nixon đe dọa sẽ đáp trả mạnh mẽ đối với việc vi phạm hiệp ước, nhiều yếu tố, bao gồm sự thiếu ủng hộ trong nước và sự phân tâm của vụ bê bối Watergate, đã tạo cơ hội cho Cộng quân mở cuộc tấn công.
Trong suốt tháng 3 và tháng 4 năm 1975, Quân đội Bắc Việt ngày càng chiếm được nhiều thành phố miền Nam. Công dân miền Nam Việt Nam bắt đầu chạy trốn với số lượng lớn. Sự thất thủ của thành phố lớn thứ hai, Đà Nẵng, đã làm dấy lên nhiều hơn những người tị nạn rời đi.
Người Mỹ và những thân nhân miền Nam Việt Nam của họ xếp hàng chờ đợi bên ngoài đại sứ quán Hoa Kỳ để xin thị thực tại Sài Gòn, Việt Nam, Thứ Bảy, ngày 5 tháng 4 năm 1975. (Ảnh AP)
Tại Sài Gòn, những người Nam Việt Nam xếp hàng dài tại đại sứ quán để được nhập cảnh vào Hoa Kỳ. Patti Morton, một Đặc vụ An ninh Ngoại giao tiên phong với tư cách là Nhân viên An ninh Khu vực ở Sài Gòn - người phụ nữ đầu tiên đảm nhiệm vai trò như vậy - đã ghi lại cảnh tượng trong khuôn viên đại sứ quán trong đoạn phim dưới đây, được thh hình vào một ngày không xác định trong tháng Tư.
Những ngày cuối cùng:
Sự sụp đổ của Sài Gòn
Trong bức ảnh hồ sơ ngày 29 tháng 4 năm 1975 này, thường dân miền Nam Việt Nam đã leo qua bức tường 14 bộ Anh (foot) của đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn, cố gắng tiếp cận trực thăng di tản khi những người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam. (AP Photo/File)
Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, quân đội Bắc Việt pháo kích vào Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt của Sài Gòn. Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin sau đó đã ra lệnh di tản khỏi Sài Gòn. Như một tín hiệu cho người Mỹ ở Sài Gòn rằng cuộc di tản đã bắt đầu, Đài Phát thanh Lực lượng Quân Sự bắt đầu phát thanh lập đi lập lại bài hát “White Christmas”.
Đến thời điểm này, các tuyến đường biển bị phong tỏa và máy bay không thể hạ cánh xuống Sài Gòn, chỉ còn một phương án di tản: trực thăng vận.
Sau khi tòa nhà tùy viên quốc phòng bị tấn công, đại sứ quán Hoa Kỳ trở thành điểm khởi hành duy nhất của trực thăng. Các kế hoạch ban đầu yêu cầu chỉ sơ tán người Mỹ, nhưng Đại sứ Martin nhất quyết yêu cầu di tản các viên chức chính phủ Nam Việt Nam và nhân viên địa phương của đại sứ quán.
Trong khi đó, 10.000 người Nam Việt Nam đã đợi ở cổng đại sứ quán với hy vọng có thể leo lên một chiếc trực thăng.
Từ ngày 29 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4, máy bay trực thăng đã hạ cánh cách nhau 10 phút một trong đại sứ quán, bao gồm cả việc đáp xuống nóc đại sứ quán. Với một số phi công bay trong 19 giờ liên tục, hơn 7.000 người đã được sơ tán, trong đó có 5.500 người Việt Nam, trong vòng chưa đầy 24 giờ.
Người Mỹ và người Việt Nam chạy đến một chiếc trực thăng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở Sài Gòn trong cuộc di tản khỏi thành phố, ngày 29 tháng 4 năm 1975. (Ảnh AP)
***
Nhà ngoại giao Wolfgang J. Lehmann và
Giờ cuối cùng tại Đại sứ quán
Một nhà ngoại giao đang làm việc để tạo điều kiện thuận lợi cho việc di tản là Wolfgang J. Lehmann, người từng là Phó Trưởng phái bộ tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Lehmann là một trong những người cuối cùng rời đại sứ quán vào ngày 30/4.
Ảnh sổ Thông Hành của Wolfgang J. Lehmann Bảo tàng Ngoại giao Hoa Kỳ Quốc gia
Ảnh sổ Thông Hành của Wolfgang J. Lehmann, 1973. Quà tặng là tài sản của Wolfgang J. Lehmann.
Sau khi chứng kiến Đại sứ Martin rời đi trên một chiếc trực thăng và sau đó khởi hành trên chuyến tiếp theo cùng với khoảng sáu nhân viên khác của đại sứ quán, Lehmann nhớ lại chuyến bay đến một con tàu di tản đang chờ sẵn:
“Chúng tôi có thể nhìn thấy ánh đèn của các đoàn xe Bắc Việt đang tiến đến thành phố… Trực thăng chở đầy nhân viên và vệ binh dân sự còn lại… và nó hoàn toàn im lặng ngoại trừ cánh quạt của động cơ. Tôi không nghĩ rằng tôi đã nói một lời trên đường đi và tôi không nghĩ có ai khác đã nói gì. Cảm xúc tràn ngập là nỗi buồn vô cùng ”.
Quyển sổ ghi công việc hàng ngày này được sử dụng bởi Wolfgang Lehmann, Phó Trưởng phái bộ tại Sài Gòn. Quyển sổ tay này đã được tặng cho bảo tàng vào năm 2019 bởi cháu trai của Wolfgang, Walter Lehmann.
Trên trang ghi lại ngày 30 tháng 4 năm 1975, bạn có thể thấy rằng Lehmann đã ghi hai chú thích: "05:20 rời Sài Gòn" và "06:10 đến tàu USS Denver."
Biểu đồ "Các mối quan hệ chính trị" của Nhân viên Ngoại Giao James Nach. Biểu đồ này là một trong những vật phẩm cuối cùng rời khỏi đại sứ quán trong cuộc di tản, được phụ tá của Đại sứ Martin, Ken Moorefield, mang đi. Món quà của James Nach, với sự hỗ trợ của Kenneth Moorefield.
Tổng thống Ford cảm ơn các nhà ngoại giao
về cuộc di tản lịch sử
Bản sao có khung của thông điệp cá nhân này được gửi vào ngày 5 tháng 5 năm 1975 từ Tổng thống Ford cho Đại sứ Graham Martin
Một bản sao đóng khung của thông điệp cá nhân này được gửi vào ngày 5 tháng 5 năm 1975 từ Tổng thống Ford đến Đại sứ Graham Martin. Món quà thuộc tài sản của Wolfgang J. Lehmann.
Lehmann đã lưu giữ và đóng khung một bản sao của thông điệp cá nhân này được gửi vào ngày 5 tháng 5 năm 1975 từ Tổng thống Ford tới Đại sứ Graham Martin, cảm ơn ông và toàn bộ nhân viên đại sứ quán vì nỗ lực di tản thành công.
Bức điện có nội dung:
“Graham thân mến: Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đến ông và toàn thể nhân viên của ông vì cuộc di tản thành công người Mỹ và người Việt Nam khỏi Sài Gòn. Sự cống hiến không mệt mỏi cho sứ mệnh của ông và khả năng thực hiện khéo léo của nó dưới áp lực khắc nghiệt nhất là yếu tố trọng yếu để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn và tế nhị nhất này. Xin hãy chấp nhận những lời khen ngợi cá nhân chân thành của tôi. Sự can đảm và kiên định của ông trong giai đoạn nguy kịch này đã giúp chúng ta di tản những công dân của chính mình và một số lượng rất lớn người Việt Nam đang gặp nguy hiểm. Tôi hy vọng ông sẽ chuyển đến toàn thể nhân viên của ông lòng biết ơn sâu xa của tôi và của người dân Hoa Kỳ cho một công tác được hoàn thành tốt đẹp. Trân trọng, Gerald R. Ford ”
***
Nhà ngoại giao di tản hàng trăm người Việt tị nạn ở Cần Thơ
Trong khi Sài Gòn thất thủ, phần còn lại của miền Nam Việt Nam cũng đang di tản nhanh nhất có thể. Cách xa khoảng 100 dặm ở Cần Thơ, một nhà ngoại giao đã cứu hàng trăm người tị nạn Việt Nam bằng cách sắp đặt và dẫn đầu một cuộc di tản đầy rủi ro.
Francis Terry McNamara từng là Tổng Lãnh sự tại Cần Thơ, Việt Nam vào thời điểm Hoa Kỳ di tản. Trong những ngày bận rộn trước đợt rút quân cuối cùng, các mệnh lệnh cho McNamara từ Đại sứ quán Hoa Kỳ là chỉ sơ tán người Mỹ; họ sẽ chỉ cung cấp cho máy bay trực thăng đủ chỗ để di tản khoảng 18 nhân viên Mỹ - vì lý do an ninh và hiệu quả.
McNamara biết rằng ông không thể bỏ rơi những nhân viên Việt Nam trung thành của mình hoặc gia đình của họ, vì họ có thể sẽ phải đối mặt với việc giam cầm hoặc thậm chí tử hình vì làm việc cho người Mỹ.
McNamara đã từ chối chỉ di tản người Mỹ khỏi lãnh sự quán, cũng như các chỉ thị của điều phối viên di tản ở Sài Gòn. Sài Gòn rất cần trực thăng của Cần Thơ, điều phối viên tiếp lời.
Sử dụng kỹ năng đàm phán của mình, McNamara cho biết họ có thể có trực thăng của lãnh sự quán ngay bây giờ, thay vì trong sáu giờ sau khi di tản người Mỹ, nếu McNamara có thể di tản tất cả mọi người, kể cả nhân viên Việt Nam, bằng thuyền.
Sau khi họ bị ngắt kết nối, McNamara đã có thể gọi lại điện thoại cho Jacobsen. Ông nhớ lại,
“Một cách miễn cưỡng, ông ấy đồng ý,“ Ông được phép đi bằng đường thủy,” ông ấy đồng ý. "Chỉ cần ra khỏi địa ngục ở đó." Cuối cùng thì tôi cũng đã khiến ông ấy mòn mỏi. Cả thế giới đang kết thúc xung quanh ông ấy, và ông ấy không thể khiến tôi rời khỏi cuộc điện thoại ”.
Sử dụng các kỹ năng của mình với tư cách là một cựu thủy thủ, McNamara đã chỉ huy một số sà lan với sự giúp đỡ của một đồng nghiệp thuộc cơ quan USAID và nhanh chóng tải những người Mỹ còn lại, nhân viên Việt Nam và gia đình của họ đi di tản.
Một người Mỹ giữ cột cờ trên sà lan chở hàng trăm người Việt và Mỹ tị nạn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tổng lãnh sự McNamara kiên quyết yêu cầu di tản không chỉ nhân viên người Mỹ của mình khỏi Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Cần Thơ. Ông đã sắp đặt và thực hiện một cuộc di tản đầy mạo hiểm và táo bạo bằng thuyền, đã thành công trong việc đưa khoảng 300 người đến nơi an toàn. McNamara đã tặng lá cờ cho Bảo tàng Quốc gia về Ngoại giao Hoa Kỳ.
McNamara chỉ huy đoàn tàu vận tải xuôi theo một nhánh sông ở Đồng bằng sông Cửu Long, nơi bị Hải quân Nam Việt Nam chặn lại tại một địa điểm và bị quân Việt Cộng bắn súng. Hải quân Hoa Kỳ được giả định là sẽ gặp họ ở cửa Biển Đông, nhưng một con tàu đã không bao giờ đến nơi.
Tổng lãnh sự Francis Terry McNamara (đứng sau hai vệ sĩ vũ trang) lái một sà lan chở người Mỹ và Việt Nam tị nạn rời Cần Thơ. Ảnh được phép của Bảo tàng Quốc gia về Ngoại giao Hoa Kỳ.
Chiếc sà lan nhấp nhô trên biển trong vài giờ cho đến khi họ nhìn thấy một số ánh sáng. Đó là một tàu chở hàng của Mỹ do CIA ký hợp đồng để di tản. Tuy nhiên, họ không biết McNamara và đoàn khoảng 300 người Việt và Mỹ của ông là ai. Cuối cùng họ đã được thuyết phục để đưa mọi người trên tàu đến nơi an toàn.
Vào năm 2019, Đại sứ McNamara đã tặng lá cờ Hoa Kỳ và cờ tòa Lãnh sự, được lấy từ tòa nhà lãnh sự khi họ di tản và sau đó được trương trên sà lan do ông chỉ huy trong quá trình di tản. Trong những năm qua, màu xanh dương của các lá cờ đã chuyển sang màu đỏ đậm do phản ứng hóa học xảy ra trong một số vật liệu làm từ nhựa cũ hơn, kể cả sợi vải.
Đại sứ McNamara (phải) mô tả cuộc di tản ở Cần Thơ cho các nhân viên Bảo tàng Ngoại giao Hoa Kỳ. McNamara đã tặng những lá cờ có hình ở đây cho bảo tàng, những lá cờ được lấy từ tòa nhà lãnh sự quán và sau đó ông đã trương lên trên sà lan.
Cận cảnh hình ảnh cờ lãnh sự của Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Cần Thơ và Cờ Hoa Kỳ gấp lại
Hình ảnh cận cảnh lá cờ lãnh sự của Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Cần Thơ tung bay trên xà lan di tản vào tháng 4 năm 1975. Quà tặng của Đại sứ Terry McNamara.
***
Lòng dũng cảm và sự kiên cường của người Việt tị nạn
Không ai tỏ ra dũng cảm trong cuộc di tản này hơn những người Việt Nam đã chấp nhận rủi ro cực độ để di tản gia đình ra khỏi vùng chiến sự, liều mình leo lên trực thăng càng nhanh càng tốt.
Một số người tị nạn sẽ trở thành công dân Mỹ và phục vụ đất nước của họ, bao gồm cả việc phục vụ với tư cách các nhà ngoại giao.
Một câu chuyện như vậy là của Anne D. Phạm, hiện là nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, người đã di tản khỏi Việt Nam khi còn nhỏ.
“… Những cá nhân dũng cảm như các nhân viên USAID Joseph Gettier và Mel Chatman đã tìm kiếm các phương tiện thay thế, phương tiện cuối cùng để giải cứu mọi người. Họ đã chỉ huy các sà lan vận tải quân sự được sử dụng để chở đồ tiếp liệu trong chiến tranh… Đó là cách cha mẹ tôi rời quê hương cùng sáu đứa con thơ của họ. Cuộc trốn chạy của chúng tôi xuống sông Sài Gòn, với bóng tối bao trùm, là một con đường nguy hiểm. Gần Cảng Vũng Tàu, nơi con sông mở ra Thái Bình Dương, chúng tôi bị bắn hỏa tiễn. Rất may, khi tôi chỉ mới 3 tuổi, tôi chỉ có những ký ức mờ nhạt về cuộc hành trình. Khi chiếc sà lan trôi ra khơi, đầy ắp những người tị nạn, cha tôi ôm tôi lại gần và nghiêm nghị nói với anh cả của tôi: “Hãy nhìn lại đất nước của con. Đó sẽ là lần cuối cùng con nhìn thấy nó ”. Ngày hôm sau, chúng tôi được đưa ra khỏi đại dương từ chiếc sà lan của mình và lên tàu U.S.S. Sgt. Andrew Miller. ”
Sau đó Phạm gia nhập ngành Ngoại giao và trở thành giảng viên của trường Đại học Quốc phòng. Cô đã có cơ hội gặp gỡ và tôn vinh “những người anh hùng của mình” đã đóng góp một phần trong cuộc di tản. Cô kể lại:
“Bằng cách cứu tôi vào ngày định mệnh đó, họ đã gieo mầm sức mạnh và hy vọng giúp tôi đạt được ước mơ làm việc cho Bộ Ngoại Giao… Trong khi tôi là sản phẩm của một chương đau thương trong lịch sử, tôi cũng là sản phẩm của sự vĩ đại của nước Mỹ, với xã hội đa dạng, lý tưởng dân chủ và cơ hội cho tất cả mọi người. Chỉ ở Mỹ, một đứa trẻ từng là người tị nạn mới có thể trở thành một cố vấn cấp cao làm việc cho cùng một cơ quan giống như các nhân viên Bộ Ngoại giao đã cứu cô ấy ”.
Các Tài Liệu Tham Khảo
Tears Before the Rain: An Oral History of the Fall of South Vietnam
—--
Nguồn:
https://diplomacy.state.gov/u-s-diplomacy-stories/fall-of-saigon-1975-american-diplomats-refugees/
Ngô Bắc dịch
2022
gio-o.com