Phạm Ngọc Lư

 

 

C  LÝ HÀNH

 

Chiều chết đuối trên sông ngờm ngợp

Nước đua chen đớp bọt nắng tàn

Đò qua sông đìu hiu bến đợi

Buồn rút lên bờ cây khai quang

Mây đổ xù lông như chó ốm

Trời bôi nhòe mặt ngóng đêm sang

Thôn ổ tiêu sơ gầy khói bếp

Đồng không mốc thếch lạnh tro tàn

 

Có biết ta về không cố lý ?
Mười năm chưa lạ mặt xóm làng

Sao phên giậu nghiêng đầu câm nín

Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han

Cổng khép rào vây vườn cỏ dại

Tường xiêu mái rách bóng nhà hoang

Ngõ vắng bàn chân như hụt đất

Tre già đang kể chuyện chôn măng

Nương rẫy đang phơi lòng dâu bể

Nói làm sao hết nỗi bàng hoàng ?

Khóc làm sao vừa lòng cố lý ?

Phải đây là cố lý ta chăng ?
Đâu bóng mẹ già sau khung cửa

Và những người em mặt trái soan

Đâu bóng chị hiền như hoa cỏ

Bên luống cà xanh liếp cải vàng !

Đất đá thở ra mùi u uất

Bốn bề hun hút rợn màu tang

Ai chết quanh đây mà cú rúc

Mà cơn gió lạnh réo hồn oan

Ai trong muôn dặm không về nữa

Cố lý mười năm mộng bẽ bàng

Cố lý mười năm ngày trở lại

Như ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian !

 

1972

 

TRÊN ĐÈO BÌNH ĐÊ

 Sau 40 năm… nhìn lại và cùng đọc lại

              tặng Trần Hoài Thư  &  Phạm Văn Nhàn     

 

Đứng trên đèo Bình Đê

Ngó về Trường Sơn xanh rờn bất trắc

Trường Sơn im lìm bí mật

Rừng sâu hiểm hóc mưu toan

Âm u triền núi cây đe dọa

Thăm thẳm truông dài lá ngụy trang

Khe suối quanh co nằm mai phục

Gò đống lăm le nuốt đồng bằng

Trời huyên náo bóng mây quần tụ

Mùa khô đang rục rịch mở đường

Đâu đây những bước chân rần rộ

Reo hò vang ngõ ngách xuyên sơn

 

Tháng tư

Lửa bùng lên đâu chợ

Lửa cháy quanh sông

Lửa vây Hoài Đức

Lửa đốt Bồng Sơn

Người người tan xác giữa đồng

Người người ngã gục bên dòng Lại giang

Người người bỏ thân trên đường chạy loạn

Đôi mắt trừng lên nỗi kinh hoàng

Đôi mắt ngó về đâu chòng chọc

Bốn bề khói lửa mù giăng

Bốn bề binh đao cuồng nộ

Bốn bề đổ nát tan hoang

Chạy mau chạy mau người mẹ Hoài Ân

Quang gánh trên vai chất đầy thống hận

Máu bầm vướng víu bàn chân

Chạy đi chạy đi người chị Hoài Nhơn

Sao cứ nằm ôm con thơ đùm trong tay nải

Máu khô đen khuôn mặt lạc thần

Pháo tràn lan xối xả

Lửa rần rật trên lưng

Chạy về đâu ?

Về đâu… ôi những bước chân vô hồn !

 

Đứng trên đèo Bình Đê

Ngó về Tam Quan tro than quằn quại

Ngó lại Sa Huỳnh gỗ đá phơii thây

Lơ ngơ dăm ngọn cờ bay

Trên khung nhà cháy trên cây cụt đầu

Còn gì đâu? Chẳng thấy gì đâu !

Bên nầy bên kia níu vai nhau xiêu ngã

Trông xuống trông lên đát trời man rợ

Núi vô tâm và biển lầm lì

Trông kìa,

Tai ương lởn vởn

Sau lớp lớp mây chì

Rợn người nghe tiếng quạ

Xao xác bay về kiếm tử thi

 

Thôi chẳng còn chi… còn chi mà trông mà ngó

Quê em đâu rồi người em gái nhỏ Tam Quan ?

Quê em nhà cháy hàng hàng

Rừng dừa cụt ngọn khóc oan hồn mình

Em thấy gì người em trai Sa Huỳnh lưu lạc ?

Quê em bây giờ tan tác thê lương

Cờ treo ruộng muối chết ươn

Đua chen khẩu hiệu trên tường nhà xiêu !

  

Tôi đứng đây giữa chiều

Lặng nghe hơi gió

Như tiếng ai tỉ tê nức nở

Phải tiếng người thịt nát xương tan

Tiếng âm hồn gào thét kêu than

Đêm côi cút giữa đất trời hung bạo

Khuya rét mướt rừng già An Lão

Chiều sụt sùi hang núi Ba Tơ

Nương thân gò mối cồn mồ

Về theo cát bụi bên bờ đìu hiu…

Tôi đứng đây giữa chiều

Ngó về đâu không rợn màu tang tóc

Ngó Nam ngó Bắc nuốt tiếng thở dài

Ai đến Tam Quan thương vay

Ai về Sa Huỳnh khóc mướn ?

Có nghe những oan hồn vất vưởng

Than van trên ngọn cờ bay

Kêu đòi thân thế hình hài

Trăm năm cát bụi miệt mài cơn đau…

 

1973 

Bình Đê là một đường đèo thấp trên Quốc lộ 1 chia ranh giới hai tỉnh

Quảng Ngãi và Bình Định. Các thị trấn Tam Quan và Bồng Sơn ở phía

Nam Bình Đê đã tan nát vì binh lửa trong mùa hè 1972. Còn cửa biển

Sa Huỳnh ở phía bắc ngọn đèo nầy thì trở thành một  “chiến trường

ném binh như vãi đậu”  để hai phe tranh giành chiếm đất cắm cờ ngay

sau khi Hiệp định Paris 1973 vừa ký kết.

 

 

ĐẤT TRÍCH

 

Mươi lít gạo trộn vài cân muối

Nấu với tình em ăn vẫn ngon

Tình em nước sông Ba đầy bát

Đời ta như nồi trống niêu trơn

 

Bốn phía rừng xanh mầu nước độc

Đông tây nam bắc núi chận đường

Một lũng đất bằng khu chén nhỏ

Trói chân ta vào chân Trường Sơn

 

Bó đời ta nửa manh chiếu rách

Đêm nằm mộng lớn nuốt mộng con

Chiêm bao cứ thấy mình mọc cánh

Bay với chim trời ra cố hương

 

Canh khuya cọp gầm vang núi Lá

Giật mình tưởng ai gọi đầu non

Nằm chi đây, thân tàn đất trích

Chờ ai đây, đói lã chết mòn

 

Mươi nắm gạo trộn vài vốc muối

Đeo lên vai nặng nghĩa đầy ơn

Mai ta bỏ thân ngoài sạn đạo

Xin tình em một mảnh đất chôn

 

Củng Sơn, 1971 

 

 

BÊN SÔNG

 

Chảy đi chảy đi

Hỡi sông buồn lắm

Nước thôi chờ chi

Thuyền xưa đã đắm

Người đi người đi

Trăm năm bến vắng

Xa hút bờ kia

Bóng người mây thoáng

 

Chảy mau chảy mau

Đời nông tình cạn

Mà nước quá sâu

Trăm chiều khổ nạn

Ta bơi qua sông

Mới hay đời nặng

Đời có như không

Tiếc gì tay trắng

Thôi thà rêu rong

 

Ta gieo xuống sông

Vỡ dòng nước chết

Nước đứng tim đêm

Ta còn thở hết ?

Chảy đi chảy đi

Người về đâu biết

Chảy mau chảy mau

Đời: con nước siết

Tình: vực nước sâu

Em: dòng ly biệt

Ta chiếc lá chìm

 

Chảy thôi chảy thôi

Còn trông còn ngóng

Nhớ ai gương xưa

Chờ ai cửa rộng

Đưa ai tiễn ai

Phai hình mất bóng

Khổ lắm người ơi

Qua sông mất nón

Sông trôi sông trôi

Về đâu mà đón

Thôi hẹn hò chi …

 

Với người xưa ấy

Đã khói sương che

Chút tình xa ngái

Đã cách bến bờ

Biết lòng không đậu

Trông chi thuyền về

Người như khung cửa

Khép lại hững hờ

Người như gương vỡ

Trăm năm lỗi thề

Người như phong vũ

Lạnh màu thê thê ...

 

Tuy Hòa 1972

 

 

VÔ TÌNH GP L.   ĐÀ LT

 

Gặp người một phút tình cờ

Gương chung soi mặt kẻo ngờ tình riêng

Nhìn ta đôi mắt láo liên

Cái môi kênh kiệu nói xiên xỏ hoài

Bóng người rợp bóng thiên tai

Ngất ngư nắng lạnh mệt nhoài gió khô

Đưa ta đi dạo quanh hồ

Lừa chân bước hụt giả vờ buông tay

 

Người đâu mắt mặn môi chay

Đầu hôm đường mật rạng ngày muối tiêu

Nồng nàn sớm lạnh nhạt chiều

Cái đau quấn quýt cái yêu hững hờ

Gặp người một phút tình cờ

Một ngày mưa bệnh một giờ nắng đau

Nhìn ta con mắt dao cau

Cái môi bạc bẽo tô màu đãi bôi

Đưa ta xuỗng lũng lên đồi

Mượn màu nắng quái vẽ vời tình suông

 

Chia tay người với khói sương

Với thông khô ngọn trái buồn rụng theo

Với đồi nghiêng bóng núi xiêu

Ngẩn ngơ nghe tiếng nước kêu đáy hồ...

 

8 - 1972

(đã chỉnh sửa)

 

Phạm Ngọc Lư