LÊ THỊ HUỆ
TRONG KHI SÁNG TẠO NHỮNG NHÂN MẠNG
tản mạn
MÔT
Tôi sanh con trai đầu lòng vào năm ba mươi sáu tuổi.
Không có biến cố cá nhân nào trong đời tôi lớn hơn kinh nghiệm này. Trước đây
tôi cũng trải qua một biến cố khá lớn lao. Là việc chứng kiến Miền Nam Việt Nam
sụp đổ vào năm tôi ngoài hai mươi tuổi. Dẫn đưa đến biến cố tôi rời bỏ Việt Nam
sụp đổ và sống ở ngoại quốc cho đến giờ phút này. Còn điều gì có thể lớn hơn việc
chứng kiến một quốc gia sụp đổ. Ðất đai, quyền lực, quốc kỳ, gia sản, căn cước,
lịch sử, bị xóa tẩy tên trên bản đồ!
Ðây là một biến cố quốc gia mang nhiều yếu tố ngoại tại mà dẫu sao đi nữa, một cô gái tầm thường như tôi chỉ góp phần tương đối nhỏ nhoi nào đó lên bức tranh vĩ đại của một dân tộc.
Về phương diện cá nhân hơn, tôi đã quyết định rời bỏ quê hương vào năm 1975.
Nhưng quyết định lớn tao nhất có lẽ là quyết định tôi có con vào năm 1989. Tôi
đã có con với một quyết định sau bao nhiêu năm sống độc thân. Tôi đã sanh con với
những tính toán sau những lần tính toán không muốn có và chưa muốn có. Khi quyết
định cho ra đời những đứa con tôi đã nghĩ. Nếu có một bí mật nhất trong đời tôi
là tại sao mình được sanh ra đời, thì cái cơ hội để tôi có thể tháo gỡ niềm bí
mật ấy chính là việc tôi sẽ được quyền chọn lựa và sanh ra đời một đứa con với
tất cả mọi dự tính, hiểu biết, và ý thức rõ rệt nhất.
Tôi đã muốn rằng đó là một điều tôi hoàn toàn chọn lựa.
Ðiều bí mật về định mệnh con người được sanh ra và quẳng vào đời sống thường được dành phần cho Thượng Ðế. Nhưng với vị trí làm Mẹ, có lẽ người đàn bà có cái tư cách gần gũi nhất để phát biểu về niềm bí mật này. English có chữ “Mother Earth – Mẹ Đất”
Tôi đã trăn trở từ khi có trí khôn về niềm bí mật của số mệnh con người. Tôi đã
từng ước muốn khi tôi cho ra đời một con người, tôi đã suy nghĩ, đã chuẩn bị kỹ
lưỡng, và không còn điều gì để thắc mắc nữa.
Tôi đã nghĩ mình có một sứ mạng lớn lao đến là dường nào.
Tôi đã nghĩ mình có thể cầm được hết chân lý của cuộc
Trong cái trực giác bén nhạy của một đứa con gái, trong cái tư thế tò mò của một
người trí thức, và trong cái nỗi tham lam tra hỏi của một người cầm bút bi
quan, tôi đã biết cho ra đời một mạng người là một biến cố hết sức vĩ đại. Tôi
đã từng không uống cà phê. Tôi đã từng không uống một tợp rượu bia.
Tôi đã từng khôn ngoan đủ để biết giữ gìn đất đai thân xác mình cho việc trồng
trọt những đứa con tương lai. Cả đời tôi chỉ uống tất cả bảy viên thuốc ngừa
thai. Mấy chục năm trước khi có con, tôi đã cố tránh dùng những chất “hóa học”
như thuốc thang. Tôi tránh ngay cả những viên Aspirin thần dược của những cơn
nhức đầu, một chứng bệnh thưởng xảy đến với tôi vào thời kỳ còn độc thân. Tôi
đã có thể ẩu tả về nhiều thứ khác nhưng tôi đã tính toán rất kỹ trong việc tôi
phải giữ gìn cơ thể tôi cho đến ngày sanh con trước đã.
Từ cái ý thức đây là một quyết định hoàn toàn có tính cách chọn lựa. Chọn lựa
thời gian để có con. Chọn lựa người để làm bố những đứa con của tôi. Chọn lựa
trong tính toán rằng đây là một trong những chọn lựa quyết liệt khác của đời
mình … Tôi đã chuẩn bị để sẵn sàng trả lời những câu hỏi nếu mai này con tôi sẽ
hỏi về cái ngày ra đời đinh mệnh của nó.
Tôi tưởng là mình đã tính toán mọi chuyện một cách rất hoàn hảo.
Tôi tưởng là tôi sẽ tìm được một câu trả lời hoàn hảo về định mệnh của con tôi.
Ðứa con đầu lòng của tôi ra đời nặng gần bốn ký. Mẹ nó phải mất gần hai ngày
đau đớn gần chết mới sanh được. Thằng bé rất dài, to xương, và đẹp trai. Người
bác sĩ Mỹ khi thấy con trai tôi đã buộc miệng nói: Cô có một cháu trai rất đẹp
và sau này cháu sẽ chơi bóng rổ được.
Con tôi là kết quả của những gì tôi chăm bón và chuẩn bị. Tôi đã tính toán từng
vitamin, từng chất Folic Acid, từng phân tử Iron trong mỗi bữa ăn để đủ phần
con đang thành hình người trong cơ thể tôi. Tôi đã đọc hàng trăm quyển sách từ
sách rẻ tiền cho đến sách chuyên môn của trưởng y khoa làm thế nào để chuẩn bị
sanh con cho hoàn hảo. Vào cái năm tháng già cả của cuộc đời con gái ấy, tôi ý
thức rằng đây là một niềm hạnh phúc lớn lao nhất đời. Cái ý thức chín chắn rằng
hạnh phúc là do tôi tự tìm lấy và đạt cho bằng được, chứ không ai cho, và cũng
không phải là một may măn bất ngờ. Tôi sanh con ra và ôm con vào lòng cùng một
lúc thấy mình chạm đến cái điều mà người ta định nghĩa thế nào là sự nắm bắt niềm
"tuyệt đối" và "tương đối" về ý nghĩa của đời sống.
HAI
Có lẽ biến cố nội tại lớn nhất xảy ra trong đời người đàn bà không phải là ngày
đầu có kinh nguyệt, hoặc cuộc hôn phối thứ nhất với người nam mà có lẽ là cái
kinh nghiệm đầu tiên về việc sinh con đẻ cái.
Cái ý thức lớn lao nhất đã chuyển biến tâm hồn người đàn bà đã xảy ra trong
giai đoạn để trở thành một người mẹ, là kinh nghiệm về tha nhân.
Trong công việc trực tiếp góp phần vào việc tạo dựng nên một sinh mạng, người
đàn bà đã bị cột làm một với tha nhân. Tha nhân không còn là một ngoại tại, mà
là một nội tại. Người đàn bà bị kinh nghiệm người khác là chính mình-mình là kẻ
khác - con là mình - mình là con. Một kinh nghiệm không do sự học hỏi mà là do
bản đlểmang đến. Một kinh nghiệm mà người đàn ông hoặc những người không sanh đẻ
không có được không hiểu nổi, không trải qua được.
Trong khi trải qua diễn biến này, cái tôi của người đàn bà bị thách thức. Một
cuộc thách thức rất lớn lao vì sự bất lực của bào thai và của đứa bé ở giai đoạn
những năm tháng đầu tiên của đời người. Người đàn bà thấy mình là kẻ hoàn toàn
mang lại đời sống cho một con người khác. Trong khi để trở thành mẹ, người đàn
bà bị ở vị thế chỉ có cho chứ không có nhận. Vào lúc này, muốn ích kỷ cũng
không được. Một người đàn bà phải trải qua giai đoạn mang thai và nuôi nấng ba
năm đầu tiên của một đứa bé chừng bảy lần , thì dù có muốn ích kỷ đến đầu cũng
không thề ích kỷ nổi, ích kỷ bị phải biệt tích ít nhất là tạm thời trong thời
gian người đàn bà trở thành mẹ.
Một người đàn ông khi bắt đầu có ý thức về tha nhân và muốn liên hệ với tha
nhân, thì đã quy định trong đầu óc họ một đối tượng hoặc mục tiêu như thế nào.
Tha nhân là một hữu thể tách biệt. Ơû đây tha nhân là một mục tiêu hay là một đối
tượng bên ngoài. Người đàn ông từ lúc sanh ra đời cho đến khi nhắm mắt lìa đời
đã kinh nghiệm về tha nhân như là một người thứ hai. Vì người đàn ông không trải
qua một kinh nghiệm đặc biệt như người đàn bà trong lúc tạo dựng nên một người
thứ hai ngay bên trong cơ thể mình. Vai trò làm cha cũng chỉ là một kinh nghiệm
gián tiếp. Tha nhân đối với người đàn ông là một kinh nghiệm tương đối. Là một
người khác nhỏ hơn, ngang hàng, hoặc lớn hơn mình, chứ người đó không thể là
chính mình.
Ðối với người đàn bà trong kinh nghiệm sanh và nuôi con, tha nhân là một kinh
nghiệm trực tiếp và bị trói buộc. Ở vị thế bị cưu mang con và nuôi sống con,
người đàn bà không có sự lựa chọn. Trong cái cách thế sống với tha nhân này người
đàn bà trải qua một kinh nghiệm nắm giữ một thứ quyền lực tuyệt đối trên tha
nhân. Tha nhân là kẻ bất lực trong bào thai và ít ra là trong những năm đầu
tiên khi vừa mới chào đời.
Sự bất lực của tha nhân lúc sơ sanh đã tạo ra kinh nghiệm để người đàn bà hành
xử một thứ quyền lực ban phát tuyệt đối. Một kinh nghiệm tuyệt đối với tha nhân
mà người ta chỉ có thể mường tượng Ơû người đàn ông trong vai trò thượng đế hay
vua chúa may ra mới trái qua kinh nghiệm này được.
Sống với tha nhân bất lực này, người đàn bà không phải trải qua cái kinh nghiệm
cạnh tranh với tha nhân như người đàn ông trải qua ở những kinh nghiệm trong
gia đình (anh, chị, em), nơi học đường (bạn học), hoặc trong công việc (đồng
nghiệp)..v...v...
Kinh nghiệm khác nhau về tha nhân này cũng có thể đã dễ khiến người đàn ông có
thể thông thường nhìn thấy mặt nổi bật, mặt xuất sắc của tha nhân đặng dùng đó
làm chuẩn so sánh và tranh đua để đạt những thành tích cá nhân. Trong khi người
đàn bà có thể lại dễ nhạy cảm với mặt yếu đuối hoặc hèn kém của tha nhân để
giúp đỡ, chấp nhận hoặc cộng tác.
Tôi thường đùa cợt với chính tôi, tha lỗi cho tôi nếu điều này sẽ xúc phạm đến
bạn rằng thượng đế có lẽ là một ý niệm đã được người đàn ông giới thiệu vào cuộc
đời này để tranh thủ cái khả năng sáng tạo ra thế giới này. Hãy nhìn những hình
ảnh Thượng Ðế Jesus Christ, Phật Thích Ca, và Ðức Mohamed, cả ba đều là những
hình tượng đàn ông.
Có lẽ người đàn bà có một chút gần gũi với thượng đế hơn người đàn ông trong ý
nghĩa sáng tạo nên đời sống. Ít ra trong ngôn ngữ việt Nam đã có một từ thể hiện
ý thức gần gũi này: Bà Trời. Ca dao Việt Nam có câu:
Ông Trăng mà lấy Bà Trời
Tháng năm ăn cưới. tháng mười chạp neo.
So sánh hai công việc sáng tác hoàn tất một tác phẩm nghệ thuật và sanh ra đời
một đứa con. Một mẫu mực thường được dùng để làm ví dụ tính chất "thai
nghén và sanh đẻ" của chúng. Người Việt vẫn thường gọi một quyển sách là
"một đứa con tinh thần". Hai kinh nghiệm này tôi đều trải qua.
Hoàn tất một quyển sách người sáng tác trải qua một kinh nghiệm sáng tạo rất
“thượng đế". Từ việc lựa chọn một nhân vật. Cho nhân vật ra đời ở lứa tuổi,
giống phái, giai cấp, tính tình, nhan sắc nào. Cho đến hoàn cảnh lịch sử, nơi
ăn chốn ở, không gian kỷ niệm, màu sắc áo quần, mối quen biết với nhân vật
khác. Tất cả đều là những tính toán và chọn lựa tài hoa hoặc năng lực dổm của
tác giả. Khi sáng tác, tác giả có khi cố trải qua những phút giây giống như đời
thật. Bởi để tạo dựng nên những đời sống thuyết phục độc giả bằng văn chương hạn
chế, tác giả phải ẩn chui vào những nhân vật và khua động văn chương trên mỗi
giác quan. Tác giả còn biết cách chui vào trong vô thức, tri thức, ký ức, và óc
tưởng tượng của độc giả để giới thiệu hoặc dẫn đưa người đọc đến với những đời
sống mà mình tạo dựng. Kinh nghiệm sanh đẻ ra "đứa con tinh thần" là
một kinh nghiệm "trả nợ đời". Là có thể một hoàn tất của một bắt đầu.
Là có thể một cuối củng của một phiêu lưu.
Trong khi đó sản xuất ra một con người, người đàn bà mới bắt đầu thấy mình
"vướng nợ đời". Là bắt đầu. Là không biết cái gì hết. Là chào đời một
lần nữa.
Kinh nghiệm lớn lao về mặt thể lý trong công việc sanh đẻ trước hết là một kinh
nghiệm máu.
Kinh nghiệm máu này là một kinh nghiệm sinh tử. Một cách thông thường, nhìn thấy
máu là nhìn thấy tính chất nguy kịch, là nhắc nhủ con người có thể sống hoặc chết
tức thời. Trong thời con gái, và trong thời gian không mang thai, người đàn bà
bị nhắc nhủ sự mong manh của sinh mệnh con người mười hai lần trong một năm vào
những lần kinh nguyệt.
Khi mang thai, người đàn bà chứng kiến việc máu không còn bị trục xuất ra ngoài
nữa, mà máu chảy vào trong. Máu ích lợi là đã tạo dựng và cưu mang mọt con người
trong cơ thể mình. Chín tháng câm nín. Rồi một ngày nọ máu đổ ra ào ào. Rồi một
mạng người lọt ra từ cơ thể mình. Rồi máu lại tiếp tục ra ở cửa mình liên tiếp
sáu tuần lễ sau khi sanh dậy. Sự đau đớn tột cùng của kinh nghiệm sanh đẻ. Nhìn
thấy thân xác mình phanh thây xẻ thịt trước mặt mọi người. Nhìn thấy máu me của
mình chảy ra lênh láng. Kinh nghiệm sanh đẻ là một kinh nghiệm nguy hiểm mà người
đàn bà thấy sinh mạng của mình rõ ràng là rất mong manh và thấy đó là giây phút
mình kề cận cái chết nhất. Ở giây phút ấy người đàn bà thấy sự của mình, của đứa
con sơ sanh có thể bị mất đi trong đường tơ kẽ tóc.
Có một kinh nghiệm tích cực trong kinh nghiệm này, là người đàn bà thấy sự đổi
thay máu. Sự làm cho mình tái tạo lại máu mới.
Nhưng nếu bị ép sanh đẻ liên tiếp sâu lần như vậy. Chắc chắn người đàn bà sẽ không
còn ở trạng thái thấy mình "mới mẻ" nữa, mà sẽ thấy mình "bị tước
đoạt" tất cả những sinh lực chưa kịp hồi phục.
“Mất sức lực" là một trạng thái mà người đàn bà quan tâm đến trong công việc
sanh nở và nuôi nấng con cái. Ðó là một sự tiêu dùng rất lớn lao số vốn liếng
thể xác và tinh thần của người đàn bà.
Kinh nghiệm "tái sinh" cùng với đứa con vừa do mình đưa vào đời đã
khiến người đàn bà bị chậm lại trong tiến trình đi tới và theo đuổi những kế hoạch
cho đời sống cá nhân.
Tiến trình và kế hoạch nói trên dựa theo sự trông đợi của xã hội. Tiến trình và
mục tiêu theo tiêu chuẩn thông thường là đạt được mức độ tối đa trên những mục
tiêu ở vị trí nào mà cá nhân đó đứng vào những năm hai mươi, ba mươi, bốn mươi
của một đời người. Xã hội vẫn đòi hỏi ở con người những mục tiêu như, có con
cái, có nhà cửa, có công việc, có địa vị, có tài sản, có danh vọng, có quyền lực,
để so đo mức độ hiệu quả và thành đạt của ý nghĩa tại sao con người ta sống.
Những mục tiêu này được xét đoán tùy theo bao nhiêu năm cá nhân đó đã hiện diện
trong đởi sống này. Chẳng hạn học hỏi là công việc của lứa tuổi hai mươi, tậu
nhà tậu cửa là của lứa tuổi ba mươi, thăng tiến nghề nghiệp là ở lứa tuổi bốn
mươi .v..v... Người Trung Hoa đặt tên tuổi ba mươi là tuổi “nhi lập”, tuổi
bốn mươi là tuổi "nhi bất hoặc", tuổi năm mươi là tuổi "tri
thiên mệnh".
Trong vài tiêu chuẩn phổ thông kể trên, để đạt được mỗi mục tiêu có con, người
đàn bà phải chậm lại những mục tiêu khác vì lý do thể lý.
Sanh đẻ là mất thời giờ, nuôi con lại còn mất thời giờ và mất sức lực hơn.
Về mặt thể lý, sự chung đụng của công việc làm mẹ đã bắt buộc người đàn bà hòa
nhập vào thế giới của trẻ con. Một người lớn tiếp xúc 24 tiếng đồng hồ một ngày
với một sinh vật không đòi hỏi những suy nghĩ lớn lao tức thời, không đòi hỏi
những di chuyển không gian khác biệt, không đòi hỏi những mặt kịch "ông
này bà nọ" khích lệ nỗ lực cá nhân, người lớn này chần chần sẽ thay đổi để
thích ứng cùng với cái sinh vật bé nhỏ và bất lực này.
Mặt trí năng sẽ tạm chậm lại vì những sinh hoạt thông thường của động vật có vú
này. Ru con, cho con ăn, dỗ con ngủ, thay tã cho con, ngồi trông con chơi, tập
cho con bờ, tập cho con đi ... những sinh hoạt hết sức quan trọng của đứa bé
này là những linh hoạt đơn giản, mất thời giờ có ảnh hưởng lớn lao trên mọi người.
Nhưng lại là những sinh hoạt không đòi hỏi đầu óc, và không mang lại bỗng lộc
kinh tế và bỗng lộc uy quyền mà xã hội mong ước một cá nhân ở lửa tuổi hai
mươi, ba mươi, bốn mươi nên thành đạt.
Sự xem thường công việc sanh đẻ và nuôi con từ xã hội đã tạo ra một "thành
kiến" trong nhiều xã hộ' tiến bộ hiện nay rằng sinh hoạt trên không mang lại
một thách đố về mặt trí năng. Hậu quả là người đàn bà được nuôi dưỡng trong một
môi trường khích lệ và tưởng thưởng những sinh hoạt trí tuệ sẽ không tìm thấy
những thách thức trí năng trong sinh hoạt hết sức quan trọng này của nhân loại.
Trong phần lớn các xã hội hiện nay mọi bé gái cũng như mọi bé trai được huấn
luyện để phát triển mặt trí năng vào khoảng 12 năm, từ mẫu giáo cho đến lớp mười
hai. Khi tốt nghiệp trung học, các thanh niên, các thiếu nữ này lại được khuyến
khích tiếp tục theo đuổi sự học hỏi trên đại học để được gọi là một người
"có giáo dục". Thành quả của những năm huấn luyện trí tuệ này tạo ra ở
con người có giáo dục một nhu cầu tìm kiếm những công việc sinh sống có thách
thức và được phần thưởng về mặt trí năng. Nếu những công việc này lại còn được
hưởng kèm những bổng lộc phụ trội như danh vọng, tiền bạc, khen thưởng thì loại
công việc này lại càng hấp dẫn hơn.
Công việc sanh đẻ và nuôi con là một công việc đáng lẽ ra là rất thách thức. Vì
không có con nào giống con nào. Cũng như không có một nhân mạng nào giống một
nhân mạng nào trên trái đất này. Trường hợp độc nhất vô nhị này xứng đáng đòi hỏi
một sự quan tâm góp vốn tương xứng với sự xuất hiện của mỗi cá nhân này. Nhưng
công việc này lại bị xem như là một công việc tự nhiên mà bất cứ người đàn bà
nào trên trái đất này cũng có thể trải qua được. Kết quả là sinh hoạt này đã
không được đánh giá cao như đáng lẽ nó nên là.
Cho đến giờ phút này, phần lớn các xã hội đều không đề cao đủ giá trị của công
việc này.
Lấy ví dụ xét về lợi lộc tiền bạc của một công nhân trung lưu sở hữu một căn
nhà và có một con tại Hoa Kỳ hiện nay, năm 1994. Mỗi cuối năm công nhân này có
thể khai thuế để có thể thu về được một món tiền khá lớn mà trước đây công nhân
này đã đóng cho chính phủ trong suốt năm. Công nhân này có thể thu được khoảng
hơn hai ngàn Mỹ kim trên mỗi đứa con. Trong khi đó công nhân này có thể thu về
được khoảng năm hay mười ngàn Mỹ kim từ tiền nợ nhà. Món tiền thu lại được từ nợ
nhà lớn hơn món tiền thu lại được từ việc có con đã phản ảnh sự kiện xã hội Hoa
Kỳ ưu đãi hành vi có nhà hơn là hành vi có con.
Sự đánh giá thấp việc sanh đẻ và nuôi con đã phản ảnh lên những xã hội như xã hội
Hoa Kỳ hiện nay. Sau cuộc “Cách Mạng Ðàn Bà” của thập niên 1960, người đàn bà Mỹ
ngày nay đã tỏ ra muốn tiêu dùng thời giờ của mình vào việc kiếm tiền, kiếm
danh vọng, kiếm nghề nghiệp, hơn là tiêu dùng vào việc sanh đẻ và nuôi con. Con
số thống kê mới nhất của đầu thập niên 1990 là có đến gần 60% phụ nữ Hoa Kỳ đi
ra ngoài làm việc Trong một cuộc thăm dò của báo New York Times và đài truyền
hình CBS Hoa Kỳ từ 26 tháng 5 cho đến ngày 1 tháng 6 năm 1994, 1,055 thiếu niên
nam nữ tuổi từ 13 đến 17 được phỏng vấn về đời sống gia đình. Có đến 86% các
thiếu nữ Mỹ trả lời là họ muốn đi ra ngoài làm việc ngay cả khi đã lập gia đình
rồi. Chỉ có 7% các thiếu nữ này tỏ ý muốn ở nhà sanh đẻ và nuôi con ("Gender
Gap in Teens Views on Family”, New York Times được San Jose Mercury News đăng lại,
July 11 , 1 994).
Trong một xã hội mà "thành công" là mục tiêu hàng đầu (achievement-oriented society), đối với các thiếu nữ này sanh đẻ và nuôi con không mang lại cho họ những bổng lộc như nghề nghiệp và danh vọng mang đến cho họ. Không những mặt trí năng phải chậm lại, mặt thành tích trên hồ sơ nghề nghiệp của người đàn bà cũng bị chậm chạp hẳn đi. Những kỳ nghỉ vì sanh nở. Những ngày nghỉ vì con bệnh. Cắt bớt thời giờ ở sở làm để có thể đưa con đi học. Ðinh hoãn công việc vì muốn dẫn con đi chơi ... Tất cả những thứ này sẽ làm chậm lại con đường tiến thân. Một sự nghiệp muốn tiến thăng, tiến nhanh, cần phải làm việc không ngừng. Cho đến giờ phút này, tất cả những quốc gia tiên tiến như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Ðức, ý, Nhật, đều đòi hỏi người đàn bà phải làm việc như người đàn ông để có thể thăng tiến nghề nghiệp như người đàn ông. Các xã hội này đều không cho một điểm nào vào hồ sơ cá nhân của người đàn bà về cái kinh nghiệm có con.
Cách nhìn phân biệt kinh nghiệm nghề nghiệp khác với kinh nghiệm có con đã khiến
các xã hội này cho rằng kinh nghiệm có con là một kinh nghiệm không tốt trên
công nhân. Khi căn cước của một công nhân chỉ cột chặt với nghề nghiệp thì kinh
nghiệm sanh và nuôi con không được tính là một kinh nghiệm lợi ích cho nghề
nghiệp.
Cho đến giờ phút này, kinh nghiệm sanh đẻ và nuôi con vẫn được tính là một thứ
kinh nghiệm liên hệ đến căn cước hiện thể (being) như làm cha, làm mẹ, và căn
cước sở hữu (having) như có vợ, có con, có chồng, có anh, có chị…
Khi sinh hoạt dưới những căn cước: có cha, có mẹ, làm con, làm anh, làm chị,
con người không có quyền chọn lựa. Nhưng khi hành xừ các căn cước: có vợ, có chồng,
có con, con người có quyền lựa chọn.
Trong hệ thống suy tưởng truyền thống của Tây Phương căn cước hiện thể đã được
tra vấn để cố tìm kiếm một thứ ý nghĩa cho sự hiện diện. Hoặc sự tự chứng nhận
rùng mình có mặt trong thế giới này (Shahan & Mohantyl 1 984/ trang 58). Sự
tlm kiếm này là một chứng minh có tính cách trừu tượng. Ðó là một sản phẩm của
suy tưởng. Ðó là một sinh hoạt hiện diện trong đầu óc, trên ngôn ngữ, hoặc
trong những cuộc bàn luận.
Sinh hoạt có con ở người đàn bà là một sự sống cũng để chứng minh ý nghĩa của
lá căn cước hiện thể. Những sinh hoạt này đă không xảy ra một cách trừu tượng
và gián tiếp mà là một sinh hoạt sống động và trực tiếp.
Lá căn cước hiện thể của người đàn bà trong sinh hoạt tạo dựng và trực tiếp
nuôi nấng một mạng người phôi thai này không còn là một sự tìm kiếm hướng nội
riêng về mình, mà là một sinh hoạt giao tiếp hướng ngoại giữa mình và tha nhân.
Ðứa con mà người đàn bà sanh đẻ ra là một sinh linh, một sinh mạng, chứ không
phải là một chủ thuyết hoặc là một sản phẩm của suy tưởng. Sự khác biệt ở đây
là người ta có thể độc quyền suy tưởng về một sản phẩm của trí óc nhưng người
ta không thể độc quyền tạo dựng một sinh mạng. Ðây không thể là một sinh hoạt bắt
đầu từ ở một người và chấm dứt cũng chính ở người đó. Mà là một sinh hoạt của
hai người. Bản chất của sinh hoạt hai người này đã đặt để người đàn bà sinh sống
trong tư thế không thể độc quyền sống và suy tư một mình. Như vậy sự tìm kiếm
lá căn cước hiện thể hoặc sự đi tìm ý nghĩa đời sống ở người đàn bà mang màu sắc
bản thể tập thể hơn là bản thể cá thể.
Trong tất cả căn cước hiện thể và căn cước sở hữu, có vợ có chồng, có anh có chị,
lâm cha, làm mẹ, có con, có cha mẹ ... thì chỉ căn cước cớ cha mẹ và căn cước
có con cái là hai căn cước đòi hỏi những sinh hoạt đặc biệt. Bởi vì những sinh
hoạt này xảy ra trong thời gian đầu và thời gian cuối của con người là lúc mà
con người bất lực về mặt thể lý, và chứng tỏ sự cần đến kẻ khác săn sóc hoặc
nuôi nấng.
Có anh chị không mất nhiều thời giờ.
Có vợ chồng, không thích hợp nữa, có thể ly dị.
Nhưng người đàn bà không thể chối bỏ công việc nuôi con. Cũng như con cái khi
gánh vác việc săn sóc cha mẹ già phải tiêu phí thời gian vì sự bất lực của người
già trong lúc yếu đuối.
Nuôi nấng con cái lúc còn nhỏ và săn sóc cha me lúc về già là hai sinh hoạt có
thể tính toán được về mặt kinh tế của con người. Ðó là những loại công việc có
giá trị thương mại. Dịch vụ giữ trẻ và viện dưỡng lão là những dịch vụ tạo ra
công ăn việc làm. Trên căn bản đó, nếu một người mẹ dùng thời gian để săn sóc
con cái, và nếu được sự ủng hộ của xã hội, người mẹ cớ thể tính toán kinh nghiệm
này vào hồ sơ kinh nghiệm cá nhân. Giả thử xã hội định giá một kinh nghiệm sanh
nở và ba năm nuôi con của một người đàn bà tương xứng với hai năm dạy tiểu học
(hai kinh nghiệm này tương đối có những liên hệ, vì tính chất giáo dục con người.
Nhưng cũng có thể tính toán ra những liên hệ khác, tùy theo hoàn cảnh của mỗi
cá nhân). Thì xã hội đã thiết lập được một giá trị kinh tế lên công việc nuôi nấng
con trẻ. Và như vậy khi người đàn bà dùng thời giờ để sanh nở và nuôi con, người
đàn bà vẫn có thể tính toán phần kinh nghiệm của mình vào con đường tiến thân.
Tạo cho sinh hoạt này một giá trị kinh tế tích cực.
Một kinh nghiệm nổi bật khác mang tính kinh tế mà công việc làm mẹ có ảnh hưởng
nặng trên cả mẹ lẫn con là tính tranh đua.
Tranh đua là một trong những sinh hoạt tinh thần khá căn bản của con người. Một
thứ sinh hoạt tinh thần mạnh mẽ đứng sau lòng thương yêu. Tranh đua là giềng mối
dẫn đưa đến sự thúc đẩy quan trọng ở mỗi cá nhân trong mối tương quan với tha
nhân khi cá nhân đó trưởng thành.
Tranh đua dẫn đưa đến thành công. Thiếu sự tranh đua, tài giỏi và cố gắng không
làm cho người ta trở thành vô địch. Tranh đua thúc đẩy sự tiến bộ. Xe hơi của
hãng Toyota tranh đua với xe hơi của hãng Ford để đưa đến những tiêu chuẩn về
xe cộ càng lúc càng cao hơn trong kỹ nghệ xe hơi. Tranh đua dẫn đưa đến tranh
chấp. Trong những năm chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Sô, hai quốc gia này
đã tranh đua ảnh hưởng của mình trên Việt Nam, Cuba, Ðại Hàn, kết quả là tranh
chấp tương tàn giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam vào những thập niên 50, 60,
70 của thế ký hai mươi.
Con người học hỏi kinh nghiệm tranh đua lần đầu tiên với người mẹ. Ngay cả khi
còn trong bụng mẹ, thai nhi đã tranh đua để tạo sự chú ý của người mẹ khi thai
nhi đói bụng cách quậy đạp vẫy vùng trong bụng. Khi đã chào đời, đứa trẻ sẽ học
hỏi rằng bố mẹ là một thứ quyền lực đã được thiết lập mà nó phải tranh đua để
có thể tạo nên cho chính nó một thứ quyền lực riêng.
Ðây là một diễn tiến học hỏi của đứa bé mà người mẹ thấy cái quyền bính làm mẹ
của mình thường xuyên bị thách thức bởi đứa bẻ. Khi còn nhỏ, đứa bé phải tranh
đua với những thế lực khác để được sự chú ý của người mẹ, tranh đua với bố để
được ngủ chung giường với mẹ, tranh đua với thời gian của mẹ để khỏi bị dẫn đến
nhà người giữ trẻ sớm khi mẹ phải đi làm lúc 8 giờ sáng .... Về phía người mẹ sự
tiêu phí sức lực trên công việc nuôi con đã làm giảm đi năng lực tranh đua.
Công việc làm mẹ là phải cho đi cả sức lực tinh thần lẫn thể xác từ lúc thức dậy
cho đến lúc đi ngủ. Một loại công việc 24/24. Sự tiêu phí năng lực lớn lao này
đã khiến cho trí óc người mẹ không the dục, làm chậm lại các sinh hoạt trí óc.
Sự chia bớt sức lực này "có thể" làm giảm bớt nhu cầu tranh đua.
Nhưng cũng chính vì sự chung đụng thường trực 24/24 giờ này, và vì ở vị thế đặc
biệt đã có cơ hội quan sát và kiểm sát sự hình thành bản tính này trên đứa trẻ,
kinh nghiệm lớn lao này ngược lại cũng có thể để lại một thứ gia sản "nghề
nghiệp” làm cho người đàn bà có thể có kinh nghiệm tâm lý hơn, trong những công
tác cần kinh nghiệm về tranh đua, tranh đấu, tranh giành quyền lực với tha
nhân.
Lý tưởng hơn là nếu người đàn bà có cái cơ hội tính toán kinh nghiệm làm mẹ dựa
trên căn bản được quyền chọn lựa. Ví dụ người đàn bà được quyền tính toán kinh
nghiệm này như một quyền lợi kinh tế. Hoặc người đàn bà được quyền chọn lựa
kinh nghiệm làm mẹ như là một theo đuổi giá trị tinh thần của nhu cầu phục vụ.
Phục vụ cá nhân hay phục vụ xã hội, mà kinh nghiệm này sẽ mang lại những phần
thưởng tinh thần hơn là những quyền lợi vật chất v.v… và v.v…
Về phương diện xã hội, công việc làm mẹ càng không được các xã hội hiện nay định
cho nó một giá trị cao. Căn cước nghề nghiệp, một động lực mạnh mẽ để hướng dẫn
đời sống con người ở các xã hội đương thời là vẫn nên trở thành bác sĩ chính trị
gia, giám đốc, giáo sư, tài tử truyền hình. Căn cước nghề nghiệp là căn cước bảo
vệ cá nhân vững vàng nhất trong đa số xã hội hiện nay.
Ðối với người đàn ông, sự hiện hữu được định giá trên những là căn cước. Người
đàn ông được thúc đẩy từ nhỏ rằng lớn lên là phải trở thành một loại căn cước
nghề nghiệp. Ðàn ông phải có công danh sự nghiệp, "Ðã trót sinh ra trong
trời đất. Phải có danh gì với núi sông" (Nguyễn Công Trứ). Ðể thiết lập
nên những lá căn cước này, người ta phải tiêu phí rất nhiều thời gian của một đời
người mới đạt được chúng.
Khi người đàn bà muốn theo đuổi những là căn cước nghề nghiệp trên, người đàn
bà sẽ không thể liên tục thiết lập được thành tích cá nhân một cách tối đa như
người đàn ông ở lứa tuổi 20, 30, 40. Vì đây cũng là lứa tuổi mà người đàn bà bận
sanh nở và nuôi con.
Và nếu người đàn bà đang trên đà thiết lập một thứ căn cước như những người đồng
lứa, phải dừng lại vài năm để sanh nở và nuôi con, người đàn bà không còn được
bảo vệ bởi thứ căn cước nghề nghiệp nữa. Ðiều này có thể tạo nên sự mất tự tin
và hoang mang nếu lá căn cước mới không vinh quang hơn lá cán cước cũ.
Ngoài ra khi dừng lại để sanh đẻ và nuôi con, nếu không còn tiếp tục kiếm tiền
được nữa người đàn bà cũng sẽ thấy bị tước đoạt sự độc lập về tài chánh mà trước
đây họ đã vui hưởng như bao nhiêu người đồng lứa khác.
Công việc làm mẹ không có những tác động lớn lao về phương diện tập thể. Nhưng
về phương diện phát triển cá nhân, nó là một sinh hoạt hai chiều có tác động lớn
nhất trên cả cuộc đời của hai cá nhân, mẹ và con. Có thể nói không có một sinh
hoạt cá nhân khác nào có thể lớn lao hơn mối sinh hoạt tương quan giữa mẹ và
con. Vì tính chất vĩ đại của sinh hoạt này, đáng lẽ nó nên được xã hội dành cho
một sự chiếu cố quan tâm hơn. Không có một xã hội nào vinh danh Anh Hùng Mẹ như
vinh danh Tổng Thống vinh danh Anh Hùng Dân Tộc … Thiếu vắng sự vinh danh hình ảnh
mẹ từ các xã hội, công việc làm mẹ chỉ còn là một sinh hoạt thường tình như ăn,
uống ngủ, nghỉ, riêng của mỗi cá nhân.
Sinh hoạt sanh đẻ và nuôi con cho đến hiện nay vẫn được xem như là một sinh hoạt
tự nhiên rất cá nhân. Ðây được xem là một truyền thống của nhân loại để lại từ
những xã hội săn bắn và nông nghiệp. Con người ở những xã hội bộ lạc và làng
xóm ấy có những sinh hoạt đơn sơ và đối diện với một không gian chật hẹp. Con
người ngày nay sống trong một thế giới phức tạp và đối diện với một môi trường
lớn rộng. Vì vậy mọi sinh hoạt của con người cũng phức tạp và có liên đới hơn.
Sự tiến bộ về kỹ thuật và khoa học lại còn mang đến cho đời sống nhân loại nhiều
dữ kiện và phương tiện sống dồi dào hơn nữa. Tuy thế, trong khi những sinh hoạt
như giáo dục, nghề nghiệp, việc nhà, hưởng thụ, đã có nhiều biến đổi và thích hợp
với thời đại mới, thì sinh hoạt sanh đẻ và nuôi con tương đối có ít biến đổi.
Trong khi trải qua kinh nghiệm sanh đẻ và nuôi con, tôi đã kinh ngạc để nhận ra
ràng cho đến giờ phút này, người đàn bà nhận được rất ít sự hổ trợ từ nhân loại
về sinh hoạt sanh đẻ và nuôi nấng con cái. Chỉ cách một thế hệ, mẹ tôi đã trải
qua tất cả mười lần sanh đẻ, so với tôi, chỉ có hai lần. Kinh nghiệm đau đớn và
mất sức lực vào công việc sanh đẻ đã làm cho tôi thấy thương xót về cái số mệnh
vắn số của mẹ tôi. Nếu bà không "bị" sanh đẻ mười lần và nuôi sống bảy
đứa chúng tôi, biết đâu bà đã sống thêm được vài chục năm hơn số tuổi 49. Tôi
thương nhớ Mẹ Tôi vô cùng tận. Con nhớ Mẹ suốt cả đời con !!!
Nhìn lại hai mươi mấy năm nhận được sự giáo dục của hai nền văn hóa Việt Nam và
Hoa Kỳ, tôi đã không hề nhận được một bài học nào về việc sanh đẻ và nuôi một đứa
con cho lành mạnh. Trong khi đó tôi nhận được rất nhiều năm học về toán, về lịch
sử, về ngôn ngữ, về nghề nghiệp. Cả hai nền giáo dục đều nghiên cứu kỹ lưỡng việc
chuẩn bị cho tôi thành một người hữu ích cho xã hội. Ðể đến khi "vượt cạn
một mình”, tôi đã thấy rằng tôi ước gì những người soạn ra chính sách giáo dục
của cả hai nền văn hóa cắt bớt những giờ nữ công gia chánh và những bài học lịch
sử, để dạy tôi một ít vốn liếng về sứ mạng sanh đẻ và nuôi con. Tôi biết những
nhà giáo dục khắp thế giới đã soạn giáo trình dựa trên nguyên tắc là con người
con dạy dỗ để phát triển khả năng ngôn ngữ và khả năng nhận thức v.v... (Rani
& Mohan Lall, Thomas 1983), trong cái mục tiêu rằng con người cần giúp vốn
để có khả năng đảm nhiệm những sinh hoạt giữa xã hội. Nếu như vậy thì rõ ràng
những giáo trình trên đã xem việc sáng tạo ra những nhân mạng nhẹ hơn việc phát
triển những nhân mạng.
Khi đo lường những phát minh của nhân loại, cho đến nay, có vẻ như các xã hội
ít đầu tư vào những nghiên cứu sanh đẻ và nuôi con như đã đầu tư vào những
nghiên cứu khác. Ví dụ một phát minh trong phương tiện giao thông là chiếc máy
bay. Chỉ trong vòng mấy chục năm, mà các chiếc máy bay đã hưởng được bao nhiêu
là công trình nghiên cứu. Ðể từ một chiếc máy bay thô sơ trở thành chiếc máy
bay khổng lồ đưa nhân loại đi từ lục địa này sang lục địa khác với kỷ lục thời
gian ngắn ngủi. Trong khi đó có được bao nhiêu cuộc nghiên cứu làm giảm bớt những
cơn đau sanh đẻ ở những đại học ở các quốc gia có khả năng thực hiện những cuộc
thực nghiệm này.
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho biết hiện nay ở Afghanistan và Sierra Leone con
số phụ nữ chết vì sanh con vẫn còn cao, 1/100 ("Men, Sex, And
Parenthood in An Overpopulating World" trong World Watch. 3/4 1994).
Trách nhiệm ngừa thai vẫn là trách nhiệm của người đàn bà. Những phương thức ngừa
thai vẫn nhắm vào bộ phận sinh dục của người đàn bà, từ viên thuốc ngừa thai,
cho đến đặt vòng xoắn IUD, cho đến thuốc Norplan gần dưới da. Theo tài liệu của
Hiệp Hội Kế Hoạch Sanh Ðẻ Quốc Tế The lnternational Planned Parenthood
Association (IPPF) đã ước lượng rằng chỉ có "8% ngân sách của kế hoạch ngừa
thai quốc tế được dùng vào việc phát triển một phương pháp ngừa thai cho đàn
ông." ("Men, Sex, And Parenthood ... như trên).
Sinh hoạt sanh đẻ và nuôi con là một sinh hoạt chậm tiến về phương diện "ý
thức". So với một sinh hoạt khác như sinh hoạt ăn uống. Trong tiến trình
phát triển “ý thức", việc con người dùng cây ná kiếm con thú (để ăn) của
thời xa xưa. Tiến đến việc xã hội bào chế những viên kẹo (cũng để ăn) trong một
nhà máy không lồ hiện nay. Là kết quả của bao công cuộc nghiên cứu và cải tổ ở
những cái máy làm ra kẹo và ở những chất hóa học cấu tạo nên kẹo. Từ con thú
cho đến viên kẹo, con người đã gia tăng "ý thức" về sinh hoạt ăn uống.
Ăn là để thỏa mãn bản năng thú tính sinh tồn khác xa với ăn là một sinh hoạt hưởng
thụ những tiến bộ của văn minh nhân loại.
Về phương diện “ý thức" sanh đẻ nhân loại có vẻ như không nhúc nhích trong
ngàn năm lịch sử. Sinh hoạt sanh đẻ và nuôi con, từ thời khai thiên lập địa đến
nay trước sau vẫn được xem là một sinh hoạt chính của bản thể nữ. Là một sinh
hoạt mà người nữ phải gồng gánh hết mọi bổn phận. Và nó chỉ có giá trị lớn lao
là duy trì nòi giống. Nhân loại đã không bận tâm đến nó nhiều như nhân loại đã
bận tâm đến các vấn đề lớn khác như tình yêu, hạnh phúc, chiến tranh, cái chết
v.v...
Vôi tôi, sanh đẻ và nuôi con xứng đáng để được xét lại dưới dạng thức nó không
chỉ là một sinh hoạt tự nhiên của động vật có vú mà nó là một sinh hoạt của con
người có ý thức lớn lao về biến cố vĩ đại này. Và sanh đẻ và nuôi con là một
sinh hoạt quan trọng nhất của con người chứa đựng nhưng giá trị liên đội xã hội
chứ không phải chỉ là cửa riêng một bản thể cá nhân
Tính chất hy sinh đời mình để phục vụ con cái, phục
vụ chồng, phục vụ gia đình nhà chồng của người đàn bà cổ truyền Việt Nam đã
choàng phủ lên vai trò mẹ của người đàn bà Việt Nam một màu sắc ít chất
"người" mà gần với chất "thánh" hơn. Hình ảnh mẹ Việt Nam
là hình ảnh những vị thánh sống. LÊ THỊ HUỆ (trích Khởi
Đi Từ Ngây Thơ Để Đến Gần Sự Thật, xuất bản năm 1995. Bản đưa lên trang Gió
O 3-2024 có sửa lỗi và thêm vài bổ túc nhỏ )
BA
Kinh nghiệm trở thành một người mẹ Việt Nam là một kinh nghiệm đặc biệt khác mà
tôi đã trải qua. Trước hết hình ảnh người đàn bà Việt Nam được ghi dấu bằng một
sự tích lâu đời nhất là hình ảnh Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng khai sinh ra
lịch sử Việt Nam vào năm 42 Tây Lịch. Những người đàn bà Việt Nam được nhắc nhở
nhiều vẫn là những anh hùng lịch sử, là do cái truyền thống ca ngợi tuyệt đối
vai trò anh hùng lịch sử mà không khuyến khích những đóng góp hoặc những sáng tạo
phát minh của những anh hùng khác của nền văn hóa Việt Nam ... Song song với
các nam anh hùng lịch sử, người Việt Nam vẫn biết đến những nữ anh hùng lịch sử
nhiều hơn những nữ lưu khác, đó là những anh hùng lịch sừ Bà Triệu, Huyền Trân
Công Chúa, Bùi Thị Xuân v.v...
Kế tiếp, có lẽ một truyền thống văn hóa khác của người Việt Nam là ca ngợi những
người học giỏi. Những vị nữ lưu nổi tiếng văn hay "học giỏi" có Ðoàn
Thị Ðiểm, Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương.
Ðây là những trường hợp cá thể. Trên phương diện đại thể, cái hình ảnh mà người
Việt Nam ca ngợi nhiều nhất về người đàn bà là hình ảnh tháo vác của người vợ
và người mẹ Việt Nam.
Hình ảnh Người Chinh Phu chờ chồng nuôi con trở thành một nữ lưu đã để lại bao
nhiêu là vần thơ nhạc ca ngợi. Nhà thơ Tú Xương ăn chơi nghiện ngập gái gú, đã
để lại những câu thơ bất hủ ca ngợi người vợ Việt Nam, được nhiều người đàn ông
Việt Nam dùng làm bình phong để “đổi đề tài” trách nhiệm làm chồng làm cha của
họ.
Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quảng vắng
Eo sèo mặt nước buổi trời đông.
Vợ của ông Phan Bội Châu, vợ của ông Phạm Duy cũng được các ông này làm thơ làm
nhạc ca ngợi sự đảm đang hy sinh vì chồng.
Vai trò làm vợ giỏi đã được ca ngợi, vai trò làm mẹ giỏi lại càng được ngợi ca
hơn. Không như truyền thống Hoa Kỳ chẳng hạn, người đàn bà được ngợi ca nhất
trong vai trò "sex symbol", biểu tượng dâm. Nữ hoàng dâm Marilyn
Monroe tuy không đi vào lịch sử Hoa Kỳ như Toni Morrion, một nhà văn nữ da đen
được giải Nobel văn chương; hoặc như Betty Friedian, một nhân vật tranh đấu cho
nữ quyền khai sanh từ thập niên 1960, nhưng Marilyn Monroe là một thần tượng
"ngầm" của văn hóa Hoa Kỳ. Ðàn ông Hoa Kỳ thì mê thân xác của
Marilyn. Ðàn bà Hoa Kỳ thì mơ có một tấm thân nẩy lửa như Monroe.
Vai trò mẹ trong văn hóa Việt Nam đóng vai trò một thứ thần tượng.
Vai trò mẹ lấn át tất cả những vai trò khác về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam.
Vai trò mẹ nổi bật vì đã được ca ngợi cái tính chất tuyệt đối của sự việc không
còn sống cho mình mà sống cho người khác. Người mẹ Việt Nam nổi tiếng là hy
sinh cả cuộc đời mình cho chồng cho con. Hy sinh không đặt câu hỏi, không đặt
điều kiện. Hy sinh quên hết bản thân mình:
Miếng nạc thì để phần chồng
Miếng xương mẹ gặm, miếng lòng phần con
Ca dao Việt Nam còn có những câu ca ngợi sự hy sinh này dưới hình ảnh một con
cò nặng nề bổn phận nuôi chồng nuôi con:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Hoặc:
Con cò mà đi ăn đêm
Gặp phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có /ông nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Ðừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Hình ảnh Mẹ "rất phổ biến trong tâm thức tôn giáo" của văn hóa công
nghiệp cổ truyền Việt Nam. Dân tộc Việt Nam tôn thờ những yếu tố Mẹ, như Mẹ
Lúa, Mẹ Ðất, Nữ Thần Thánh Mau. "Cuộc sống nông nghiệp coi trọng yếu tố
Ðất – Mẹ… Ý thức yêu nước (khi) rất đậm nét thường được biểu dương là (lòng
yêu) Ðất Mẹ, (lòng yêu) Mẹ Việt Nam, " (Ðặng Nghiêm Vạn, Việt Nam Ðất Nước
Lịch Sử Văn Hóa, 1991, trang 218).
Âm nhạc Việt Nam trong hậu bán thế kỷ Hai Mươi đầy dẫy những câu hát ca ngợi
tính chất thiêng liêng cao cả của mẹ Việt Nam. "Lòng mẹ bao la như biển
Thái Bình dạt dào " (Y vân), "Mẹ ... là ánh sáng trong đêm khi
lạc lối" (Nhất Hạnh, Phạm Thế Mỹ), "Trường ca mẹ Việt Nam"
(Phạm Duy), "(Mẹ) Dạy cho con tiếng nói thật thà. Dạy cho con chớ quên
màu da. Ôi lũ con cùng cha, quên hận thù." (Trịnh Công Sơn).
Tính chất "thánh sống" của người mẹ đã định để người đàn bà trong xã
hội Việt Nam ở một vị thế khác biệt so với xã hội Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ có ngày Lễ Mẹ
(Mother Day) đều ca ngợi vai trò mẹ. Nhưng trong truyền thống văn hóa của xứ sở
mới mẻ này, người mẹ của Hoa Kỳ không có chỗ nào lên gần lên đến vị thế người Mẹ
Việt Nam trong văn hóa Việt.
Truyền thống cá nhân chủ nghĩa của nước Hoa Kỳ trẻ trung chỉ mới hơn 200 năm lập
quốc, khuyến khích sự tự lập cánh sinh của mỗi cá nhân. Người đàn bà cũng được
khuyến khích là phải tự lo cho mình trước khi lo cho người khác. Con trai hay
con gái đều được khuyến khích là phải thiết lập niềm tự tin, tự lập, tự lo lấy,
từ nhỏ trong gia đình . Ðến mười tám tuổi là con cái nên dọn ra khỏi nhà bố mẹ
và bắt đầu tự lập một đời đống mới. Người đàn bà không cần phải hy sinh cho ai
cả. Truyền thống "độc lập" khuyến khích ai cũng như ai, phải tự lập,
không ai nên hy sinh cho ai.
Sanh con đầu lòng vào năm thứ ba mươi sáu của cuộc đời. Theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ,
tôi là người đã lo cho cái thân tôi trước. Tôi ích kỷ hạng nặng. Tôi đã học
xong những bằng cấp khả dĩ mang lại cho tôi loại công việc chuyên nghiệp có khả
năng ổn định về tài chánh. Tôi đã đi làm no nê những năm tháng con gái để có tiền
bạc tiêu xài rủng rỉnh. Tôi đã có đủ thời giờ để bồ bịch, tán dóc, ngủ trưa,
bát phố, và đi nghỉ hè một mình hoặc hai mình. Về phương diện cá nhân, tôi đã
thành đạt những điều mà mẹ tôi không đạt được một tí ti nào. Bà có một nhan sắc
trên trung bình, nhưng vì nhà nghèo nên mới mười lăm tuổi đã phải về làm vợ kế
cho một người đàn ông góa vợ hai con là bố tôi.
Chỉ đến khi có con tôi mới bắt đầu thấy mình thua xa Mẹ tôi về mức độ hy sinh
cho con cái. Tôi bắt đầu thấy mình phải cạnh tranh với Mẹ về cái hình ảnh mà nền
văn hóa Việt Nam đã mong chờ ở tôi.
Trong mớ hoa trái của đời sống tâm hồn chúng ta. Giữa tất cả những kết quả từ mối
quan hệ của cá nhân với tha nhân. Không có giá trị nào cao quý hơn sự hy sinh.
Hy sình lớn lao hơn cả bác ái và từ bi. Trong khi thực thi bác ái và từ bi, người
ta ban phát những tâm quả sẵn có. Từ bi và bác ái không đụng chạm đến quyền lợi
của kẻ ban phát mà thường đó là những thành quả do sự phong phú của tâm hồn sản
xuất ra. Nhưng hy sinh là cả một quyết định quyết liệt. Hy sinh có thể ăn mòn đến
xương tủy của những nhu cầu căn bản của con người. Hy sinh là trao phần căn của
mình cho phần căn của kẻ khác. Lấy ví dụ sau khi người chồng mất hoặc sau khi
ly dị, một người đàn bà quyết định ở vậy nuôi hai con bốn tuổi và năm tuổi. Khi
quyết định phục vụ đời sống của những đứa con (con còn nhỏ, chúng không thể tự
sống một mình), trước khi thỏa mãn đòi hỏi thể xác và đòi hỏi tình cảm của mình
(ai cũng có nhu cầu cả, dĩ nhiên). Người mẹ ở đây đã phải dẹp bỏ nhu cầu tìm kiếm
hạnh phúc cho chính nàng để nuôi con. Ðó gọi là hy sinh.
Nó vượt trội hơn cả tình yêu. Trong tình yêu người ta có thể cho và nhận một
cách thụ động. Nhưng hy sinh luôn đòi hỏi một sự ban phát chủ động và không
mong gì nhận trả lại công ơn. Chỉ khi một người mẹ quyết định "tôi sẽ hy
sinh đời tôi cho đời con", người mẹ mới vượt qua được những nhu cầu sống
cho mình trước. Người mẹ mới có thể nhin một giấc ngủ để dỗ con nín trong những
cơn mệt mỏi thân xác rã rời. Mới dẹp bỏ ước muốn cặp bồ khác để chạy trốn cô
đơn. Mới nghỉ học ở nhà nuôi con. Mới có thể cai những cơn ghiền xì-ke để dành
cái chi phiếu eo-phe mua sữa cho con. Không nhủ lòng hy sinh, người mẹ sẽ bị
nhu cầu muốn ăn ngon, bị nhu cầu muốn đi nằm ngủ cho sướng người, bị nhu cầu muốn
tìm một vòng tay nồng ấm, bị nhu cầu muốn học hành đỗ đạt cho bằng người ta,
chúng hành cho ! Những nhu cầu này được xem là những nhu cầu bình thường của
con người. Những người mẹ khắp năm châu từ trước đến nay đã hy sinh những nhu cầu
căn bản này cho con cái. Và nhân loại đã xem thường những hy sinh này. Tôi có
thể nhìn thấy một viễn tượng mà người đàn bà không còn muốn hy sinh đời sống
mình cho con cái nữa. Ngày đó nhân loại sẽ trải qua một thách đố lớn lao và sẽ
mất rất nhiều thời gian để mò mẫm ra một mô thức mới thay thế ơn hy sinh của những
người mẹ đã cứu rỗi nhân gian bấy lâu nay. Sự hy sinh của Mẹ tôi đã mang lại kết
quả tốt trên tôi ngày nay. Làm sao tôi có thể không ca ngợi về sự hy sinh của Mẹ
khi thấy rõ ràng lòng yêu người, sự tự tin, sự phấn đấu trên tôi là thành quả
do lòng hy sinh của Mẹ. Tôi cảm nhận được ân sủng yêu thương không điều kiện của
Mẹ đã mang lại những kết quả rất tích cực trên chính tôi. Tôi không thể đặt câu
hỏi về lòng hy sinh khi biết rằng đó là món quà quý báu nhất trần gian mà tôi
đã tiếp nhận từ kẻ tha nhân đầu tiên là Mẹ. Khi lớn lên bước vào đời, tôi chỉ
thấy tha nhân bày ra những ác độc, những ích kỷ, những kèn cựa, những phiền muộn,
những tiêu cực không à.
Nhưng mặt khác nó đòi hỏi những điều mà tôi không thể thực hiện nổi. Bởi vì
trong khi đi tìm kiếm chính tôi, tôi đã mất thời giờ, mất năng lực, mất trí lực,
vào sự theo đuổi này. Tôi không biết phải hy sinh cho con tôi như thế nào để có
thể mang lại những kết quả tốt trên con cái. Tôi bắt đầu thấy tranh chấp giữa
việc sống cho tôi và sống cho con. Tôi bắt đầu thấy đúng là tôi đã ích kỷ khi
có con quá trễ. Tôi không giống Mẹ. Là tôi đòi hỏi ở người đàn ông cộng tác với
tôi trong việc cho ra đời những đứa con phải cộng tác với tôi trong việc nuôi dạy
con. Tôi không thể từ chối rằng sống cho mình cũng có những cái sướng thân.
Con số ly dị kỷ lục ở Hoa Kỳ vào thập niên 1980, cứ bốn cặp thì đã có ba cặp ly
dị, có thể do nhiều lý do tạo thành. nhưng cái yếu tố lớn nhất đưa đến những
tan vỡ trong hôn nhân có lẽ là do sự đi tìm kiếm chính mình của người đàn bà
Hoa Kỳ sau cuộc Cách Mạng Phụ Nữ của thập niên 1960. Trong khi đi tìm kiếm
mình, người đàn bà Hoa Kỳ đã làm động thương nhiều hệ thống xã hội. Mà vai trò
người đàn bà, vai trò người đàn ông, vai trò cha mẹ, vai trò con cái, vai trò
chính quyền, đã bị lung lay bởi cái cách thế "bứt dây động rừng" này.
Kết quả của những cuộc ly dị này đã đem lại một ảnh hưởng tiêu cực trên con trẻ
Hoa Kỳ. Khủng hoảng gia đình đã tạo ra những đứa trẻ thích xài súng ống, ái ân
sớm, bệnh tật nhiều, học hành kém. Khi cha mẹ không chăm sóc con cái vì cả hai
đều bận rộn đi tìm kiếm công danh, đi tìm kiếm tiền bạc, và đi tìm sự thỏa mãn
nhu cầu cá nhân, thì truyền hình và vai trò của những trung tâm giữ trẻ được đặt
ra. Liệu một trung tâm giữ trẻ tốt có thể thay thế vai trò của bố mẹ trong việc
nuôi dạy đứa bé không? Một thế giới mới đang hình thành ở Hoa Kỳ trong đó mọi
giới đang dò dẫm và duyệt xét lại toàn bộ những hệ thống xã hội để tìm kiếm một
phương thức ổn đính được cơn khủng hoảng gia đình Hoa Kỳ hiện nay.
Xã hội Việt Nam vẫn có một mô thức gia đình rất thành công. Có thể nói có nhiều
cơ chế của xã hội Việt Nam như cá nhân, chính quyền, tôn giáo, làng xóm, bị lủng
nhão. Nhưng gia đình vẫn còn là một cơ chế khá chặt.
Ðứng về phương diện quốc gia, cơ chế quân chủ vai hệ thống vua chúa đã bị đánh
đồ vào đầu thế kỷ hai mươi khi Bảo Ðại là vị vua cuối cùng của Việt Nam.
Một đơn vị khác của xã hội Việt Nam đã bị nhiều thiệt hại là làng xóm. Làng Việt
Nam nguyên là một đơn vị xã hội khá chặt chẽ trong nếp sống của người Việt Nam,
“Phép vua còn thua lệ làng” là một câu tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam
nào cũng biết. Vì phải trải qua quá nhiều chinh chiến của lịch sử nên người dân
Việt Nam phải di chuyển chỗ ở liên miên. Hậu quả của những cuộc di cư này là
làng Việt Nam không còn sức mạnh văn hóa như cũ. “Làng Việt Nam đã không còn
cung cấp cho thành viên trong làng cái ý thức tập thể. Ý thức này đã mờ nhạt ở
người Việt" (Nguyễn Ðăng, Việt Nam Ðất Nước Lịch Sử Văn Hóa, 1991,
trang 85). Khi cần phải chung tiền làm ăn, người Việt Nam chỉ có thể tin tưởng
tiền bạc với những người trong gia đình, chứ không tiến xa mối tin tưởng như
người Trung Hoa. Người Trung Hoa sẵn sàng tin tưởng tiền bạc với những người
cùng quê, cùng làng hơn.
Một dấu vết khác của một quốc gia nhiều chiến tranh như Việt Nam là sự phá vỡ
giai cấp. Nhiều nhà văn hóa chia xã hội Việt Nam ra làm bốn giai cấp: Sĩ
nông công, thương. Nhưng hãy nghe một câu ca dao rất phổ thông ở Việt
Nam: “ Nhất Sĩ nhì Nông. Hết gạo chạy rông nhất Nông nhì Sĩ.” Trong nhiều
xã hội khác, sự tồn tại với thời gian là yếu tố hàng đầu để thiết lập nên những
giai cấp. Nhưng điều này đã vắng bóng trong xã hội Việt Nam. Vì chiến tranh
liên miên nên không có điều gì vĩnh cửu . “Không ai giàu ba họ. Không ai khó ba
đời” hoặc "Dân vạn đại, quan nhất thời" là những câu tục ngữ bất
hủ khác phản ảnh sự vô giai cấp ở Việt Nam.
Trong khi đó dù với bao nhiêu thế kỷ chiến chinh, gia đình Việt Nam vẫn giữ được
một sức mạnh văn hóa cho đến ngày nay. Năm 1975, khi những người Việt Nam tỵ nạn
sang Hoa Kỳ. Nhờ hệ thống gia đình vững chắc để nuôi nấng và bảo bọc nhau nên
người Việt Nam đã có thể đi học, đỗ đạt, và thành công về con đường bằng cấp
trong xã hội mới này. Cũng nhờ hệ thống gia đình chặt chẽ, người Việt Nam đã có
thể mua tậu nhà một cách dễ dàng. Họ đã chung tiền và sẵn sàng cho mượn tên anh
chị cha mẹ con cái nhau để thỏa mãn những điều kiện tài chánh và tín dụng đòi hỏi
từ những chủ nợ. Họ đã phá vỡ được hàng rào hệ thống tín dụng của nhà băng Hoa
Kỳ, vốn thường căn cứ trên thành tích tiền tích lũy và thành tích ít nợ của những
người đứng tên nhà để cho vay tiền mua nhà.
Sự thành công hoặc thất bại của gia đình Việt Nam đối với văn hóa Việt Nam nói
lên vai trò cua người đàn bà Việt Nam rất nhiều. Sở dĩ gia đình Việt Nam vẫn
còn có bộ mặt như ngày nay, là do sự đóng góp của người đàn bà Việt Nam trong
phương cách kiểm soát và duy trì hệ thống gia đình Việt Nam để tồn tại vững
vàng giữa bao tan tác ly loạn của chiến tranh. “Lệnh ông không bằng cồng bà”.
nói lên cái uy lực của người đàn bà trong gia đình Việt Nam.
Vai trò của người đàn ông trong gia đình Việt Nam vẫn mạnh. Người đàn ông vẫn
được xem là cột trụ của gia đình do ảnh hưởng của Khổng Giáo, Trung Hoa: “ Phu
xướng, phụ tòng.”
“Tại gia tòng phụ. Xuất giá tòng phu. Phu tử tòng tử " là những câu
nói giáo điều của người Trung Hoa ở bên Tàu, chứ không phải của người Việt Nam.
Những giáo điều này đã có một số ảnh hưởng tương đối nào đó lên đời sống gia
đình Việt Nam. Trên danh chính ngôn thuận người đàn ông vẫn được xem là người
quyết định những vấn đề lớn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống vợ chồng con cái.
Tuy nhiên vì lịch sử Việt Nam là một lịch sử chiến tranh. Một quốc gia đã hiện
diện hơn bốn ngàn năm nhưng chỉ được mấy trăm năm hòa bình gom lại từ lúc dựng
nước cho đến cuối thế kỷ hai mươi này. Vì thế người đàn ông Việt Nam phải ra
chiến trường đánh trận nhiều hơn là ở nhà. Nên người đàn bà Việt Nam đã phải
quán xuyến hết tất cả mọi việc, từ việc chăm sóc dạy dỗ con cái cho đến việc kiếm
tiền nuối sống gia đình. Trong khi người đàn ông phải lo phục vụ đất nước, thì
trách nhiệm chủ chốt gia đình đã phát chuyển nhượng sang hết cho người đàn bà.
Người đàn bà không những phục vụ cho gia đình nhỏ của mình, mà còn phải phục vụ
gia đình lớn của chồng. Tiếng Việt có một cụm từ "gánh vác giang sơn
nhà chồng" để chỉ khả năng quản trị gia đình của người đàn bà Việt.
Một trong những nơi chốn thế hiện khả năng kiếm tiền và khả năng quản trị tài
chính của người dàn bà Việt Nam là cái chợ.
Chợ Việt Nam là giang sơn của người đàn bà Việt Nam. “Không mợ thì chỡ vẫn
đông. Có mợ thì chỡ vẫn đông như thường” “Gái thương chồng đang đông buổi chợ.
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm. " là những câu ca dao đã gắn bó
người đàn bà Việt Nam với cái chợ.
Chợ là tụ điểm của phần lớn những thương vụ của người Việt Nam. Là một nơi sinh
hoạt đặc biệt giữa đàn bà với đàn bà. Chính nơi đây là nơi người đàn bà cổ truyền
Việt Nam đã bung ra ngoài xã hội để kiếm tiền. Những cửa hàng trong chợ, từ những
hàng vải hàng rau, cho đến những hàng cá, hàng thịt, từ hàng nhỏ cho đến hàng lớn,
tất cả đều được điều khiển và trao đổi bởi những người đàn bà. Khi chợ Ðồng
Xuân, một nơi được xem như là "não" của Hà Nội ("Merchants
Suffer As Historic Market Burns In Hanoi", San Jose Mercurry News, July
24, 1994), phát cháy vào trung tuần tháng 7, 1 994. Người ta đã ước lượng
có khoảng gần 9,000 người, phần lớn là đàn bà Hà Nội, mất công ăn việc làm
("Merchants Suffer As Historic Market Burns In Hanoi", như
trên).
Làng Giầu (còn gọi là Phù Lưu) nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, cách Hà Nội
18 cây số là một làng nổi tiếng với chợ Giầu. Chợ Giầu nổi tiếng với những câu
ca dao như:
Ai lên Quán Dốc, chợ Giầu
Ðể thương để nhớ để sầu cho khách đường xa.
Hoặc:
Nón em sắm ở chợ Giầu
Dọc ngang thước rưỡi, múc khâu năm đường.
Chợ Giầu là sinh hoạt chính của làng nên người ta còn gọi là làng Chợ Giầu.
Làng Chợ Giầu nổi tiếng là sản xuất ra những người đàn bà buôn bán giỏi.
"Phụ nữ làng Chợ Giầu nổi tiếng là đi buôn để nuôi chồng đi học. Sách Ðồng
Khánh địa dư chí lược chép "Phù Lưu là tổng có nhiều người đo đạt nhất
huyện" (Tìm Hiểu Làng Việt, Việt Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1990, trang 168).
Người đàn bà Việt Nam đã là người bán, họ còn là khách hàng mua. Những cô thiếu
nữ, những người đàn bà bước đến chợ, là bước đến một ngôi trường học hỏi cái khả
năng quản trị tài chính của mình. Ðây là nơi dạy cho họ những bài học quản trị
tài chánh rất nghiêm nhặt.
Chợ Việt Nam không như những siêu thị Hoa Kỳ. Những siêu thị ở Hoa Kỳ treo giá
chính xác trên mỗi món hàng cho mọi người biết để mua bán. Nhưng chợ Việt Nam từ
ngàn xưa cho đến đời nay là nơi chốn để mặc cả giữa người bán và người mua qua
hình thức khảo giá bằng mồm. Người bán đưa giá. Người mua trả giá. Hai bên nói
qua nói lại cho đến khi cả hai cùng chịu giá của nhau. Ðó là một nghệ thuật
tranh cãi liên hệ đến thiên khiếu và có sự học hỏi. Người bán khéo có thể lời
cao. Người mua vụng có thể bị hố. Sự lời lỗ trong việc chi thu ở những buổi chợ
có thể nâng cao hoặc xuống thấp nền kinh tế của gia đình.
Người đàn ông Việt Nam không nhận lãnh trách nhiệm đi chợ. Họ có thể là người
mua bân ở ngoài chợ như là những gã lái buôn. Nhưng người đàn ông Việt Nam
không làm công việc mặc cả "cò kè bớt một thêm hai" trong chợ. Ðó là
một loại công việc của phụ nữ Việt Nam. Trong khi đấy ở các xã hội Trung Đông Hồi
Giáo, chợ là địa bàn sinh hoạt của đàn ông . Đàn bà không được bén mảng lai
vãng làm công việc bán buôn hàng hóa.
Chỉ từ khi những sinh hoạt thương mãi vuột ra khỏi chợ, trở thành những công ty
lớn, người đàn ông Việt Nam mới bắt đầu tham gia tích cực vào những sinh hoạt
buôn bán quy mô nhiều hơn.
Sinh hoạt thương mãi ở chợ và sinh hoạt quản trị trong gia đình đã khiến cho
người đàn bà Việt Nam có cơ hội hành xử các khả năng trí tuệ và ở vào những vị
thế có quyền lực.
Ðịnh mệnh hết sức vắn vỏi của miền Nam Việt Nam hai mươi năm, 1954 - 1975, bị đổ
lỗi một phần là do lạm quyền và do tham nhũng của hai chế độ Ngô đình Diệm và
Nguyễn Văn Thiệu. Chế độ Ngô Ðình Diệm đã sụp đổ với hình ảnh bà em dâu Trần Lệ
Xuân làm mưa làm gió trên chính trường của chế độ thời ấy. Tiếp theo là chế độ
Nguyễn Văn Thiệu cũng đã mục nát vì tham nhũng (Bản Cáo Trạng Tham Nhũng Số Hai
của Phong Trào Chống Tham Nhũng do linh mục Trần Hữu Thanh cầm đầu khoảng
1974-1975). Chế độ Nguyễn Văn Thiệu bất lực với tham nhũng không phải vì chính
phủ ấy đã không có những chính sách diệt tham nhũng. Mà vì những giềng mối tham
nhũng khổng lồ nhất đã xuất phát từ những người đàn bà vợ của những vị tướng
lãnh cầm quyền. Mà vì trong căn bản những người đàn bà này không phải là những
kẻ được ủy quyền trực tiếp. Nên họ chỉ nhìn thấy quyền lợi riêng mà không nối kết
được tác động của những hành vi do mình gây ra lên trên thiệt hại chung của cộng
đồng.
Một cách thuận ngôn và trên nhiều sách vở, người ta vẫn nói xã hội Việt Nam la
một xã hội phụ quyền và nam quyền. Trong thực tế, xã hội ấy đã có chỗ cho người
đàn bà hành xử những khả năng cá nhân gián tiếp và trực tiếp một cách sâu rộng
hơn là người ta đã tương truyền.
BỐN
Là một người cầm bút tôi hiểu đậm đà về hai chữ "Lưu vong". Có những
khi tôi đã có cảm tưởng như mình đang trốn chạy đời sống vào những trang giấy.
Cảm giác bất lực trước nhiều vấn đề lớn của đời sống khởi đi từ những suy nghiệm
về tôn giáo, chính trị tranh chấp, trí thức .v..v... khiến cảm giác lưu vong là
một thứ cảm tưởng phiêu lãng thuốc phiện rất mời gọi chui đầu vào. Sự cô đơn của
công việc sáng tạo khiến người cầm bút thấy rất dễ gần gũi với trạng thái lưu
vong mặc dù đôi lúc tôi đã rất muốn từ chối sự tàn tật của trạng thái này. Tôi
đã đả đảo nhiều thứ chính thống để giữ được những rung động nguyên thủy về đời
sống. Sự kiếm tìm độc lập là một niềm tin đã được thứ nghiệm cùng năm tháng dễ
khiến tôi thấy mình lưu vong ngay chính trong đời sống này với người thân, với
đàn bà, với đàn ông, với những bạn bè hiếm hoi ... Lưu vong về tinh thần dễ tàn
tật và tuyệt vọng hơn lưu vong về địa lý. Tôi cũng đã lưu vong ra khỏi quê
hương trong một thời gian dài sống gần hai mươi năm ở xứ sở Hoa Kỳ, xa rời Việt
Nam. Lưu vong. Lưu vong. Lưu vong ... tôi đã thấy nó nằm lấp xấp dưới từng tế
bào năm tháng của cuộc đời con gái mình. Nó là một lưu trữ tiếp thu từ cuộc sống
tinh thần của một kẻ đã thấy mình kề cận với sự tương đối và tuyệt đối của cuộc
đời vào năm thứ ba mươi sáu sống sót trên mặt đất này.
Cho đến khi tôi có con.
Trong một giai đoạn ngắn khi hai đứa con cần đến sự chăm sóc thể lý và tinh thần
tuyệt đối từ cơ thể và tâm hồn tôi, tôi thấy chỗ trú ngụ tuyệt đối của tôi ở
nơi hai con. Ðó là lúc tôi thấy sự nghiêm chỉnh của hai con người hoàn toàn sống
nhờ sự sống của tôi. Sự hiện hữu của con chính là sự hiện hữu của tôi Nhưng con
không phải là tôi. Mà con lại là một tha nhân khác. Một cảm giác kinh ngạc đã
choán ngợp cả thể xác lẫn tâm hồn không còn chỗ cho suy tưởng nữa. Và tôi chỉ
biết mải miết sống. Không biết đặt câu hỏi như thế nào và cũng không cần câu trả
lời. Tôi khám phá ra rằng chỉ trong phút giây ngần ngủi của trạng thái tuyệt đối
của lòng thương yêu, con người mới không thấy mình bị lưu vong. Sự gần bó giữa
người mẹ và con là một sự cho và nhận tuyệt đối. Chính sự tuyệt đối tầm thường
trên đã đánh vắng cảm giác lưu vong mà thể giới trí thức thường ám ảnh tôi. Ðó
là một cảm nhận khá hiếm hoi đối với một kẻ săn đuổi những ý tưởng và thưởng
xuyên bất mãn với thế giới đã được thiết lập chung quanh, như tôi.
Trong tất cả các kinh nghiệm liên hệ đến kinh nghiệm trở thành mẹ, có một kinh
nghiệm mà tôi yêu quý nhất và đã trả lời được cho chính tôi một câu hỏi căn bản
về đời đống, mà trong đời sống của một người cầm bút tôi không bao giờ có thể nắm
bắt được, mặc dầu nó là điều tôi đã theo đuổi và lùa bắt nó trong từng cân của
trí não, của ngòi bút, của trang giấy, của thời gian, và của từ kinh nghiệm
chính mình.
Ðã có những chiều chủ nhật của những năm hai mươi, những năm ba mươi độc thân.
Nằm một mình ở Việt Nam. Nằm một mình trên nước Mỹ. Nằm hai mình ở nước Mỹ. Nằm
hai mình trên Việt Nam. Ði học Ði chơi. Ði làm. Ði quán cà phê. Ði biểu tình.
Ði thư viện. Ði làm thiện nguyện. Ði bảo tàng viện. Ði leo núi. Ði bãi biển.
Tôi đã sống qua những năm con gái với đủ thứ triều sóng của nhiều biến cố lớn
nhỏ từ bên trong lan bên ngoài. Ðể học hỏi và thấy rằng đau khổ thì cứ nằm lì lợm
trong tâm hồn đuổi mấy cũng không chịu đi, còn hạnh phúc thì vắn vỏi phút giây
khiến đã trôi qua rồi mà lòng vẫn còn thèm muốn nhớ nhung mãi.
Giữa tất cả mọi điều. Ðã có nhiều buổi chiều chủ nhật tôi chỉ muốn tự tử.
Ðó là những lúc tôi cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa. Khái niệm về "cuộc đời
vô nghĩa" chỉ là một khái niệm. Nó là một sản phẩm của suy tưởng. Nếu người
ta chỉ sống mà không suy nghiệm gì về chúng cả, người ta sẽ không nghĩ đến chuyện
cuộc đời này có ý nghĩa hay không có ý nghĩa. Nhưng khi giòng suy tưởng đã dẫn
một người đến cái kết luận rằng cuộc đời này thật vô nghĩa, thì rồi nósẽ níu
cái đầu của bạn quanh quẩn ở chỗ đó. Vì nó là một kinh nghiệm suy tưởng mà chỉ
có thể thay lấp bằng một kinh nghiệm suy tưởng khác. Với tôi kinh nghiệm về sự
vô nghĩa của đời sống là một kinh nghiệm suy tưởng vĩ đại mà cho đến giờ phút
này tôi vẫn chưa vượt qua bằng một kinh nghiệm suy tưởng nào khác.
Tôi đã lỡ rơi vào cái hố thầm của sự trống rỗng sự vô nghĩa của cuộc đời vào những
năm còn trẻ, những năm đầu hai mươi. Và cứ như vậy nó kéo dài qua những năm ba
mươi của tôi. Tôi đã nhiều lần thấy tâm hồn, con người, và cuộc đời mình gần
gũi với câu thơ của Ôn Như Nguyện Gia Thiều "Trăm năm còn có gì đâu. Chẳng
qua mộgt nắm cỏ khâu xanh rì.” Tôi đã săn đuổi đời sống với những nỗi niềm bình
an, sợ hãi, gan dạ, ngây thơ, già dặn nhẹ nhõm, nặng nề, yêu đời, chán đời, hiu
quạnh, táng tận, tương đối, tuyệt đôi, chia xẻ, và cô đơn.
Ðã có những lúc tôi yêu một cái chết vô cùng.
Cho đến ngày tôi cho ra đời những đứa con.
Khi cho ra đời những đứa con. Tôi không chỉ tái sinh về mặt thể xác mà nó còn
là một cuộc phục sinh tâm hồn. Ðứng về một thể xác, sau hai lần sanh nở, tôi tự
cảm thấy máu thịt mình như trải qua những đãi lọc và biến thể của tế bào. Tôi tự
cảm thấy mình trẻ trung và xinh đẹp ra sau hai lần sanh nở. Tôi tự thấy làn da
của mình mịn màng ra sau hai lần sanh mà trước đó thời con gái trong những năm
ba mươi tôi đã tốn công tốn của để chà đánh cái làn da không được tươi tốt lắm
của mình.
Nếu đã có những lúc cái con người tôi ba mươi sáu tuổi đời chuyên nghiệp, trí
thức ngồi tính toán từng yếu tố kinh tế của xã hội lên trên sự kiện sanh đẻ và
nuôi con của người đàn bà. Thì cũng đã có nhiều lúc nằm giang hai tay làm gối đầu
cho hai con một bên cánh tả một bên cánh hữu, ngẫu hứng ầu ơ một câu hát ru
con, tôi mới bắt đầu thấy lòng mình vừa ngập tràn một thứ phù sa tươi tốt đã cứu
rỗi và cũng đã chậm chạp lăn bước cuộc đời tôi. Ðó chính là một tấm lòng rộng
lượng. Rộng lượng với chính mình. Rộng lượng với tha nhân. Rộng lượng trong
cách ban phát niềm hạnh phúc cho người. Rộng lượng với những hèn kém và yếu đuối
của chính mình và của người khác. Chỉ đến lúc trở thành mẹ, thể tích tôi mới nới
rộng ra về một tấm lòng đối với tha nhân và về một cái nhìn lại lịch sử nhân loại
không khắc nghiệt như ba mươi sáu năm trước đây. Tôi thấy chân tôi bắt đầu bám
rễ vào cuộc đời một cách mềm yếu. Tôi thấy thân xác tôi đang biết vỗ về đôi
cánh bay đến miền tương lai mặc cho bát nháo la đà chung quanh đầy dẫy những
thù hận, ác độc, bất toàn, và lòng tham mà trước đó tôi đã sợ hãi và hoài nghi
về cuộc đời này. Chỉ cho đến lúc trở thành mẹ tôi mới bắt đầu hoàn tất được một
niềm tin. Tôi phải tin vào cuộc đời này.
Tâm hồn tôi rõ là trải qua những cuộc động hồn cực mạnh. Then chốt nhất vẫn là
một sự cuốn văng tận mạng về mối hoài nghi cuộc đời vô nghĩa. Một sự trói buộc
bản thể đã cho tôi thấy sự hiện hữu của tôi hết sức có ý nghĩa với chính tôi và
với các con. Tôi không còn thời giờ để tra hỏi về sự hiện hữu của tôi và của
các con tôi nữa. Tôi chỉ biết mải miết sống! Tôi phải lo bảo vệ sức khỏe bảo vệ
sự sống của tôi và các con tôi từng phút giây. Một niềm yêu đời hết sức tươi tốt
chợt nẩy sinh. Sự xám ngắt của tâm hồn như tự động biến mất. Khi ngắm nhìn những
đứa con nằm ngủ khỏe mạnh và xinh đẹp, tôi thấy mùa xuân nẩy mầm trên từng hơi
thở của con, trên từng tiếng thở ra nhẹ nhõm của chính mình và tôi tự cảm thấy:
A! Mùa xuân. Mùa xuân đang đi qua là đây.
Tôi bỗng thấy thương yêu cuộc đời vô cùng.
Lúc bấy giờ tôi chỉ mới vừa bắt đầu đối phó với nguồn tin con trai đầu lòng của
tôi có thể bị Chứng Khờ.
1994
THAM KHẢO:
1. Bùi Văn Nguyên, Việt Nam Truyện Cổ, Triết Lý Và Tình Thương, Nhà Xuất Bản
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1991 .
2. Geeta Rani Lall and Bermard Mohan Lall. Charles C. Thomas, Comparative Early
Childhood Education. lllinois, 1983.
3. “Gender Gap in Teens Views on Family", Báo ngày San Jose Mercury News.
Hoa Kỳ, thứ hai, 1 1 tháng bảy, 1994.
4. Men, Sex, and Parenthood in an Overpopulating World" Aaron Sachs, Báo
tháng World Watch, Hoa Kỳ, tháng 3/4 1 994.
5. Merchants Suffer as Historic Market Burns in Hanoi, Báo ngày San Jose
Mercury News. Hoa Kỳ. Chủ nhật, 24 tháng bảy 1994.
6. Nguyễn Hữu Hiệu. Truyện Kể Dân Gian Nam Bộ, Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí
Minh, 1987.
7. Robert W. Shahan and J.N. Mohanty. Thinking About Being, Aspects of
Heidegger's Thoughts. University of Oklahoma Press, Norman,
8. Tìm hiểu Làng Việt, Nhiều Tác Giả, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Dân Tộc
Học, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1990.
9. Việt Nam Ðất Nước Lịch Sử Văn Hóa. Nhiều Tác Giả, Nhà Xuất Bản Sự Thật.
Thành phố Hồ Chí Minh, 1991 .