lê thị huệ
TIẾNG GỌI CỦA AO SƯƠNG
chuyện ngắn
Đă ba đêm nay
rồi ông Hai thấy khó ngủ. Mỗi đêm khi ngả lưng xuống
giường ông nằm thao thức và trằn
trọc măi. Ông khép mắt cố dỗ giấc ngủ
nhưng hễ hai mí mắt gập lại là ông thấy
trong người nao nao kỳ lạ. Bà Hai thấy chồng
khó ngủ đă mang bộ chiếu hoa đi giặt
rồi trải lại. Chiếc gối c̣n thơm
mùi long năo. Chiếc giường th́ được
kê đầu về hướng Nam, cái hướng ông đă chọn và cho là
dễ ngủ. Vậy mà ông vẫn thấy bức
rứt và khó ngủ. Đây không phải là những cơn
mệt mỏi của những bắp thịt ră
rượi sau một ngày làm lụng, càng không phải là
tiếng kêu long bong của những đốt xương
già. Mà là tiếng lâm râm của những hơi thở
hụt hẫng, là chút bồn chồn của tâm thần
không lặng yên, là nỗi rượt đuổi lảng
vảng của khí phách từ trên đầu xuống
dưới chân. Cả thân thể ông như nhốn nháo v́
những tiếng gơ lốc cốc của một thứ
linh khí. Tâm tư ông như oằn oại và bị cuốn
hút vào một sức lực vô h́nh tượng. Ông chẳng
hiểu v́ sao và những chuyển động ma lực
ấy do từ đâu đến.
Đêm hôm trước bà Hai dựng ông dậy xoa dầu và
đấm bóp. Bà khẽ trách:
- Ḿnh không chịu hốt ít thang thuốc Bắc về
uống cho khỏe. Để tôi ghé vào thầy Sáu trong khu
Mả Thánh hốt cho ông ít thang thuốc bổ.
Tuy bà Hai nói vậy nhưng ông Hai hiểu bà thừa biết
t́nh cảnh gia đ́nh. Với cái nghề thợ nề ngày
làm ngày không của ông; đồng tiền buôn thúng bán
mủng của bà chỉ vừa đủ nuôi bầy con
cơm rau ngày ba bữa. Kiếm đâu ra được
chút dư dả mà chi vào những việc sang và
đặc biệt như thế.
Đêm hôm qua khi thấy ông ngồi loay hoay với cái ấm
trà ngoài bàn ăn. Bà Hai nói vọng ra:
- Ngày mai đứa nào xuống vườn hái mấy cái
đọt bách hợp lên nấu nước cho ba uống
cho dễ ngủ.
Ông Hai đă uống hai ấm tích nước bách hợp
đặc vậy mà đêm nay ông vẫn c̣n thấy bức
rứt và xao xuyến. Giấc ngủ vẫn đến
với ông một cách khó khăn. Hai vợ chồng nằm
tṛ chuyện cho đến khuya. Bà Hai thủ thỉ bên tai
chồng:
- Dạo này buôn bán ế ẩm quá. Mụ Long Hương
chẳng chịu trả tiền. Sáng nay tôi nói chuyện
với bà Bảy ở chợ dưới rồi. Ngày mai
đổi sang giao hoa cho bả. Bả trả cũng
được giá lắm.
Ông Hai nói:
- Sao dạo trước bà nói nhà Long Hương trả
được giá nhất mà.
Ba Hai chép miệng:
- Th́ xui xẻo vậy chớ! Tôi vừa giao hoa cho họ
được mấy tháng th́ nhà họ bị nạn. Nghe
đâu ông chồng buôn bán với Việt cộng nên bị
bắt. Mụ Long Hương bị vố này cũng
gần sập tiệm chứ không giỡn. Cả tuần
lễ nay tôi đâu có thâu được đồng
tiền hoa nào. Xui thiệt là xui.
Ông Hai nằm co người lại và nói:
- Bà cứ nói xui với hên. Hôm trước tôi sửa cái
hiên nhà cho ông thầy Chiêm. Tự nhiên ổng kêu tôi vào xem
không cho tôi một quẻ. Bà biết ổng nói sao không?
- Nói sao?
- Ổng nói mồ mả ông bà ḿnh bị động
nên con cái làm ăn không được.
Bà Hai thở dài:
- Động là phải. Giặc giă thế này làm sao yên
được. Bọn Việt cộng mà đi đến
đâu th́ người sống c̣n không yên nói chi đến
mồ mả. Đồ cái lũ vô thần ấy nói làm ǵ.
Ông hai trở người, gác cái tay lên trán, nói:
- Ư ông thầy Chiêm c̣n kỳ nữa ḱa.
- Cái ǵ nữa?
- Ổng nói riêng nhà ḿnh th́ chờ tới lúc có một
đứa nào đi th́ may ra mới phát tài được.
Bà Hai trăn trở người và nói:
- Ông thầy Chiêm ưa nói quởn. Hơi sức đâu
mà nghe. Thôi ông ngủ đi.
Ông Hai vẫn không ngủ được. Ông hết nằm
nghiêng bên trái rồi lại trở người sang bên
phải. Bà Hai thấy chồng vẫn quay trở ḿnh và
thắp thỏm, nên nói quàng:
- Tự nhiên vậy mà sinh chứng mất ngủ. Hay là
tại ba con cá kia ám đấy.
Ông Hai đang nằm nghiêng người phía tay trái mà nghe tim
đánh thót một nhịp. Giọng nói của bà Hai nhỏ
nhẹ thường t́nh những bỗng như là luồng
điện chạy suốt những lóng xương
sống làm ông cảm thấy rùng ḿnh. Ông nằm ngửa
người lại, hai tay duỗi thẳng, hai mắt khép
hờ, và thả tâm thần phiêu điêu vào lượng âm
thanh của khoảng không gian mênh mông đang nhận ông
chẹt cứng ở một xó giường.
Bên ngoài trời êm và lạnh, như luồng hơi thở của trăn sương, đất, và thảo mộc đang ḥa tấu; âm điệu lẩn vào bóng tối và cuốn hút kỳ diệu những nơi nào mà nó lan tới. Trong nhà thỉnh thoảng có tiếng gỗ cựa ḿnh nhả ra hơi ấm của nhật nhiệt c̣n đọng lại. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ cũ ở đầu giường gơ thong thả một nhịp quen thuộc. Mấy đứa con ông đang say ngủ bên chiếc buồng bên cạnh. Bà Hai nằm sấp người và choàng tay qua ḿnh ông, hơi thở bà đều đặn và mời gọi. Ông quay người sang hướng vợ và giơ tay định ôm lấy bà vào ḷng. Cơn thèm muốn được tan vào nỗi hạnh phúc trên cơ thể vợ như hơi nhỏm dậy trong ông. Nhưng ông chợt nghe tiếng gió lay động vườn cây, mùi thơm của hoa dạ lư hương lan man len qua cánh cửa sổ vào nhà. Rồi bỗng có tiếng nước lóc chóc từ bờ ao vẳng vào.
Lạ, đă ba đêm nay ông Hai không c̣n nghe tiếng nước khua động. Ông lắng tai và chờ đợi; h́nh như lại có tiếng gió lướt nhẹ rồi đến tiếng nước lóc chóc. Cả thảy ba lần! Ông Hai chợt nhớ ra đêm nay trăng rằm. Cá ngoi lên giỡn trăng?
Ông đặt tay
vợ sang một bên và ngồi phắt dậy, tḥng chân
xuống giường kiếm đôi dép. Bà Hai thấy
chồng ngồi dậy bèn hỏi:
- Ông chưa ngủ à?
- Chưa, ông trả lời một cách mơ màng.
- Ông đi đâu vậy?
- Đi ra nḥm cái ao. Sao bỗng dưng tôi nghe tiếng
cá rục rịch.
Bà Hai ỡm ờ gắt:
- Chết cả rồi. Hồi chiều tôi mới quơ
thêm một mớ cho vịt ăn.
Rồi như biết rơ thói quen của chồng, bà nói:
- Thôi th́ xuống nḥm cho đă đi rồi lên ngủ. Khiếp,
người đâu mà cứ như bị cá với cây
hớp mất hồn. Mê ǵ mà mê dữ vậy không
biết.
Ông Hai vỗ vỗ tay vào mông vợ như bảo thôi im
đi. Ông quơ đôi dép, khóa chiếc áo len và vén mùng
bước ra pḥng ngoài.
Ông đến bên chiếc bàn thờ ông bà lấy mấy
thẻ nhang và chiếc hộp quẹt rồi đi ra
vườn.
Khi ông vừa mở cửa bước ra ngoài th́ một
trận gió nhẹ như lay động cả cánh
vườn.
Gió thổi cành lá
hồng lao xao và gieo mùi lạ lư hương ngợp
vườn. Ông Hai hơi ngạc nhiên v́ thường
nếu trời có sương th́ không có gió. Ánh trăng
mờ lẩn trong lớp sương đêm của
tiết trời Thanh Minh. Tiếng dế kêu ran từ các
hốc cây và bụi lá. Mùi trời đất ẩm và
thơm như một điếu thuốc vừa châm. Ông
vươn vai hít thơ mạnh một cách sảng khoái
đê mê. Ông bước theo mấy bậc xuống
vườn. Bước chân ông ṃ mẫm một
cách thích thú những lối ṃn trong vườn. Ông Hai
thấy ḿnh như trở thành chú bé lục lọi vạch
cây lá, đi theo tiếng gọi của hoa thơm trái
lạ và những kho tàng bí mật của những g̣ cây
dại ở quê làng thủa nhỏ.
Ông vừa mỉm cười nghĩ đến
điều bà Hai mới nói.
Kể từ ngày lấy chồng đến nay đă gần hai mươi năm, bà Hai vẫn xem cái thú thích thả hồn vào thiên nhiên của ông như một điều qúa. Ông nhớ thủa hai ông bà c̣n ở quê ngoài Quảng Ngăi. Ông làm nghề chặt cây đốn củi, cái nghề của cả dân làng ông trong bao nhiêu đời. Rồi bỗng nhiên từ mùa thu năm nọ chiến tranh bộc phát mạnh, dân trong làng bị bó buộc hoặc theo phe quốc gia hoặc theo phe bên kia. Ông Hai dạo ấy tuổi xấp xỉ đă gần ba mươi, mới cưới vợ và chưa biết ngả về bên nào. Bất ngờ một hôm ông lên rừng đốn củi và đạp phải một loại nấm dại, về nhà ốm sốt mất một tuần lễ. Trong suốt tuần lễ nằm nhà chữa chạy bệnh đêm nào ông cũng thấy ḿnh được một vị thần núi đưa bay qua bao nhiêu từng mây. Dẫn đến một vùng núi đồi trùng điệp, cây cối xanh ngát, phong cảnh thơ mộng. Vị thần cùng ông dạo chơi thong thả, bày ra những cỗ toàn hoa trái quư với thịt chim nai rừng thơm ngon và nước suối ngọt đăi ông, rồi bảo: "Ta thấy con hiếu thảo với trời đất và ông bà nên chỉ cho con biết đất con đang ở sắp bị đại nạn. Vậy đây là một miền đất lạnh ở phía Nam, lành và đẹp, mà con nên dọn về.”
Sau khi lành bệnh
ông Hai liên lạc với người bà con lâu nay đi làm
ăn trong Đà Lạt. Ông Hai vào Đà Lạt và thấy
nơi này hao hao giống phong cảnh mà ông đă gặp trong
giấc mộng, nên nhất định mang gia đ́nh vào
sinh sống. Bà Hai thấy phải bỏ làng mà đi
chỉ v́ giấc mơ hoang đường th́ cứ trách
ông. Nhưng chẳng bao lâu sau khi ông bà vào Đà Lạt th́
quê ông biến thành một vùng mất an ninh nhất. Dân làng
lớp chết ḿn chết đạn, lớp đi tản
cư, lớp lên bưng theo Cộng sản; vườn
tược làng xóm trở nên tiêu điều xơ xác không
người chăm sóc. Bà Hai tuy ḷng vẫn rầu nhưng
đỡ ấm ức hơn. Cũng từ khi dọn vào
Đà Lạt ông Hai từ chối bao nhiêu dịp
người ta rủ ông lên rừng làm cây, viện cớ là
đă đổi nghề. Ông xoay sang làm thơ nề. Cái
nghề vừa khó kiếm việc vừa khó kiếm
tiền. Bà Hai thấy chồng bỏ những dịp
đi làm cây th́ vẫn tiếc rẻ và có ư trách ông chỉ
mê thú sống thanh nhàn, sáng sáng ôm cần câu ra bờ Hồ
Xuân Hương, làm việc tà tà, chiều chiều xuống
ngắm ao cá dưới vườn nhâm nhi ba xị
đế, không c̣n chịu làm ăn vất vả cực
nhọc như xưa.
Nhưng bà Hai làm sao biết được nỗi bí ẩn
riêng tư của cái thú sống này của ông. Bởi ông
nghĩ đây là nếp sống của cảm thức. Chỉ
có những kẽ mẫn cảm như ông mới nhận
ra được luồng hơi thở của mây mưa
gió núi tạo thành những ngẫu lực trong trời
đất. Chỉ có những kẻ tŕu mến linh khí vô
h́nh như ông mới nhạy cảm với những thông
điệp của nó chuyển dịch trong nhân gian. Bà Hai
lúc nào cũng bận rộn trong đầu những con
số buôn bán chợ búa nên không thể nào cảm nhận
được những điều như ông cảm
thấy. Bà chỉ biết việc nhà và việc chợ,
không khi nào chịu để ra chút thời giờ rănh
rỗi sống ngoài trời như ông, nên làm sao bà thấy
được nỗi lôi cuốn mạnh mẽ của
những năng lực kia. Bà không thể cảm nhận
được tại sao cái mùi thơm của đất
bốc lên quyện với hương của cây lá
rượt đuổi nhau trong luồng hơi thở
của trời lại có thể hấp lực con
người ta đến thế.
Ông c̣n nhớ thủa bé sau những trận đ̣n của
ba ông, ông thường cố giải cơn đau của
những lằn roi bằng cách leo lên chiếc vơng treo
giữa hai gốc khế để mùi những chùm hoa lá
khế phe phẩy ru ông vào giấc ngủ. Chỉ cần
một giấc ngủ trưa dưới ṿm lá khế là
ông quên hết cơn đau và nỗi buồn phiền. Khi
lớn lên và biết đi ve gái, ông chỉ thích dẫn
bạn gái ra ngồi dưới mấy ṿm cây cổ
thụ cạnh những chiếc ao khuất nhất lăng. Ông
thích cái cảm giác ngây ngây khi ngồi cạnh một
người bạn gái. Nhưng hơn thế nữa, ông
thích cảm giác ấy quyện dẻo vào với cảm
giác ông thấy phiêu bồng trong sức hút cuồn cuộn
của mặt nước ao mát dâng lên ṿm lá cổ thụ
xanh trong những trưa hè.
Ông Hai đến bên chiếc cầu ván con cạnh bờ ao
vươn vai và hít thở mạnh. Sương mát lạnh
tê tê vào da thịt. Ánh trăng rầm bạc loang trắng
màn sương đêm. Sương ảo đậm căn
vườn và hơi nhạt ra ở trên mặt ao. Nước
im như tờ. Một vài xác cá nổi lềnh bềnh sát
ŕa ao. Ông lấy cây vợt hớt lên xem. Vài mạng cá rô con
chỉ mới lớn bằng hai lóng tay. Bầy cá thế
là xem như đi đoong sạch bách nội ba hôm liền.
Cái ao con này gắn liền với lịch sử cuộc
đời mới của ông. Ngày mới đến đây
khai đất làm vườn dựng nhà, ông đă thấy
có một vũng nước đọng khá ngộ
nghĩnh. Quanh vũng nước có hoa vàng dại nở
rất tươi tốt, mầu nước lúc nào cũng
xanh dù chỉ là một chiếc ao cạn hẹp, cạnh
một đầu ao là một g̣ đất nhỏ. Ban
đầu ông không rơ tại sao có cái g̣ đất nhỏ
ấy, nhưng sau này bà Hai ra chợ buôn bán hỏi thăm
người này người kia th́ được biết
đấy là mộ của người thiếu nữ làm
gián điệp chống Tây. Thiếu nữ đă bị
lính Tây ngày trước đóng ở cái đồn
đầu dốc đường bắn chết rồi
tấp xác xuống đây. Khi biết chuyện ông lập
nên một cái bàn thờ nhỏ trên gốc cây sung cạnh
đấy và vẫn thường thắp nhanh cho
người thiếu nữ vào mỗi rằm. Rồi
kể từ dạo tết Mậu Thân chính phủ hô hào
đắp hầm chống pháo kích. Ông thấy thân cây sung
mạnh nên dùng làm sườn dựng chiếc hầm. Không
ngờ chỉ mấy trận mưa là cả cái hầm
đổ sập xuống một đầu ao. Cỏ
xẹp dại mọc lên tua tủa. Từ dạo thấy
mấy cái bao cát đổ xuống, nước bớt
trong xanh mà bào bọt lại nhiều, nên ông đào rộng
thêm ra và nuôi cá.
Bao nhiêu cá câu được ở Hồ Xuân Hương ông
thả vào đấy: cá lia thia, cá sặc, cá trê, cá rô, cá
diếc. Những con nào lớn th́ ông bắt vào nhậu.
Chiếc ao luôn luôn có đàn cá tung tăng đẹp
mắt. Khi hoàng hôn xuống ông hay tẩn mẩn vén quanh
mặt ao, quơ mấy chiếc lá hồng khô vừa
rụng xuống, nhặt những chiếc bèo thừa trong
ao, hoặc đôi khi hứng chí ông mang ly rượu
đế ra nhâm nhi cạnh bờ ao. Những ngày trời
mưa hoặc sương xuống nhiều, ông
thường đứng trong cửa sổ nh́n ra
vườn. Chiếc ao trầm ḿnh trong màn mưa. Mưa
Đà Lạt nhẹ nhàng thánh thót chứ không xối xả
ào ạt như ở ngoài quê ông. Những giọt mưa
nhỏ và mỏng rơi từ tốn xuống mặt ao
gây nên trong ḷng ông cảm giác nhớ nhà, nhớ quê cha
đất tổ, nhớ máng mương cây cầu, nhớ
con đường đất thó nhầy nhụa.
Chỉ cách đây ba hôm chiếc ao c̣n sóng sánh một bầy
cá đủ loại. Vậy mà bây giờ cả ao cá
ngủm hết, thậm chí lũ lăng quăng cũng
chết nỗi lều bều từng đám. Buổi sáng
ra nh́n vô số xác cá mà ông xót xa đến đứt
ruột. Trước đây có một lần cá cũng
chết từng loạt. Đấy là lần lính Mỹ
thả thuốc khai quang, cây cỏ héo khô mà lũ cá th́
ngộ độc chết tơi bời. Nhưng lần
này th́ ông vẫn chưa biết tại sao? Hay bà Hai nói
đúng? Hay tại ông bứt rứt v́ điều này nên
mới thắp thỏm khó ngủ? Ông lại nhớ
đến câu chuyện về một người bạn
thường câu cá với ông ngoài bờ hồ: ông Thanh
ở ấp Ánh Sáng mỗi sáng ra bờ hồ câu cá có
tật xấu là cứ đi đồng ngoài đấy. Bữa
nọ ông Thanh đi câu về tự nhiên bị méo
miệng. Người nhà chở ông Thanh đi nhà
thương chữa không hết, đi châm cứu cũng
không xong. Bà vợ đi cầu Đồng th́
được biết chồng ḿnh có thói quen làm chuyện
ô uế, gặp bữa quan thánh đi dạo chơi,
thấy ông này làm chuyện phạm thượng nên
trừng phạt. Bấy giờ ông Thanh phải cạo
đầu ăn chay ba tháng th́ may ra khỏi bệnh. Ông Hai
thấy bầy cá lăn quay ra chết ắt là phải có
điềm ǵ lạ. Điềm lành hay điềm dữ?
Ông nghĩ mọi chuyện xảy ra ở đời
đều có nguyên do, mà có những nguyên do ông không thể
dùng đầu óc ít học của ông suy xét được.
Bây giờ đứng giữa màn sương đêm
lạnh lẽo này, hội ngộ với linh khí của
trời đất, ông Hai lờ mờ cảm nhận
đấy là niềm bất an của con người
yếu đuối của ông.
Nghĩ vậy nên ông bước tới cạnh chiếc
bàn thờ bên thân cây sung. Trên bàn thờ nải chuối
sứ đă được sắp sẵn gọn ghẻ,
bó hoa huệ trắng hắt tỏa xuống một mùi
dịu nhẹ. Ông quệt lửa châm mấy thẻ nhang
rồi vái lạy. Ông vừa vái lạy vừa lẩm
nhẩm nguyện: “ Xin bổn cô nương phù hộ.” Nguyện
xong ông cắm nhang lên chiếc bát con. Một cơn gió
nhẹ từ đâu lại thổi sáng nhanh đốm
nhang lửa và hắt tỏa mùi hương bay khắp
vườn.
Ông đi ṿng trở lại bên chiếc cầu ván con và
đứng tần ngần nh́n chiếc ao. Mặt ao
vẫn im như tờ. Quái! Vậy mà lúc ở trong nhà ông
nghe rơ tiếng cá lóc chóc đùa trăng. Làm sao ông có thể
lẫn được. Kể từ khi ông kê giường
ngủ ở chiếc buồng giáp đầu ra sau
vườn ông thường nằm nghe đủ thứ âm
thanh. Mỗi đêm ông có thể nằm nghe nào tiếng
dế kêu, tiếng lá cây xào xạc, tiếng lá rục
rịch bờ ao, tiếng vịt quạp, tiếng chó
sủa, tiếng kẻng và tiếng c̣i hụ của
đồn quân cảnh ở đường trên dốc.
Ông biết bầy cá đă chết khá nhiều nhưng ông
vẫn hy vọng mơ hồ rằng c̣n có những con
ẩn ḿnh dưới kẽ hang ao, chờ đến
đêm trăng rằm mới ngoi lên giỡn. Vậy mà
từ lúc ông ra vườn tới bây giờ mặt ao im
phăng phắc. Làm như chiếc ao trêu ông, gọi ông ra
vườn hứng một màn trời đầy
sương. Thôi th́ cũng được. Ông mỉm
cười. Ra đây hít thở khí trời cho người
nhẹ đi rồi vào nằm sẽ hết thao thức
trằn trọc. Ông xuôi thẳng hai tay xuống. Nhắm
mắt lại rồi tập hô hấp. Ông hít vào hơi
hướm tinh thơi của trời đất đang
phủ quanh rồi thở ra cho thần kinh máu huyết và
bắp thịt dăn nở. Ông b́nh tâm khoảng vài phút rồi
mở mắt ra. Sương đă quyện quánh đặc
chới với trên mặt ao. Đầu tóc và hai vai ông
ướt đẫm những hạt sương trắng
li ti. Ông đảo mắt nh́n quanh vườn. H́nh như
càng lúc trăng càng sáng, sương càng bạc, cây lá càng
lộ màu xanh đêm. Người ông bắt đầu
thấm lạnh Cả căn vườn mờ ảo
như một bức tranh thủy mạc. Ông thấy ḿnh
như bay lăng đăng dưới ánh trăng sương
bạc. Ông lướt đi trên mặt ao, vuốt ve
từng mặt lá hoa và mặt đất đá sỏi,
rồi cứ như vậy mà qua hết cánh vườn
đề trở vào bên trong nhà.
Ông vào đến giường th́ bà Hai c̣n say ngủ. Ông vén
mùng đặt ḿnh xuống chiếu. Bà Hai chợt tỉnh
dậy và nói hốt hoảng:
- Ông bà ông vải ơi! Sao người ông ướt
mèm vậy nè.
Ông Hai lặng lẽ nằm xuống và không có ǵ. Bà Hai xoay
người lại nói:
- Ông không biết mùa này nhiều sương muối sao?
Ông kéo chiếc chăn lên trùm kín ḿnh và nói:
- Lạnh.
- Ông có cái thân mà không biết lo. Cứ ra ngoài trời
hứng sương vậy rồi ốm đau tán tiêu sinh
lực th́ trách ai được.
Ông Hai thấy cả người nhức mỏi và hai
mắt như muốn ríu lại. Bà Hai với tay lấy
lọ dầu tràm Huế và nói:
- Đưa người lại đây tôi xoa dầu cho.
Bà xoa lên lưng ông chút dầu rồi bóp nắn các
bắp thịt. Ông lơ mơ trong những ngón tay xoa
nắn từ tốn của vợ. Bà Hai vừa bóp dầu
vừa hỏi:
- Sớm mai ông có đi câu không?
- Có, ông trả lời.
- Mấy giờ?
- Như thường thôi.
Bà Hai húng hắng:
- Đúng giờ dữ ta. Này mà sớm mai ông nhớ
về sớm gánh hoa ra chợ dùm tôi. Tôi nhất
định đổi sang giao hàng cho bà Bảy rồi
đó. Th́ ḿnh cũng phải gắng sức vậy. Biết
đâu chuyến này gặp hên.
Hôm sau khi trời vừa tờ mờ sáng, ông Hai đă
lồm cồm ḅ dậy. Ông khoác chiếc áo choàng dày
nhất, xách giỏ đồ nghề và cần câu ra
bờ hồ. Cơ thể ông c̣n rả rượi và bàng
hoàng nhưng ông vẫn cố ra bờ hồ như
thường lệ. V́ đêm qua trăng rằm, kinh
nghiệm cho ông biết là sau những đêm trăng
rằm thường dễ câu được nhiều cá,
nhất là cá đẹp.
Ông đến ngồi chỗ quen thuộc, ở băi cỏ
khoảng giữa cầu và nhà hàng Thủy Tạ. Ông
cắm cần câu, kéo chiếc áo choàng trùm cổ, châm
điếu thuốc, và ngồi chờ. Ông ngồi nh́n
mặt hồ thân quen mà ông yêu mến từng ngọn
cỏ, từng vốc nước.
Sương mù che
kín mặt hồ, ông không thấy ǵ ngoài một mầu
trắng xóa. Hơi thở của ông phả ra làm thành
những luồng khói tan loăng vào màn sương. Trong lúc này
ông chỉ mơ ước một điều: câu
được nhiều cá con. Ông dự tính về sẽ
xả hết nước cũ, bơm nước mới
vào ao, và bắt đầu bằng một loạt cá con
mới. "Ḿnh lại phải làm từ
đầu lại," ông tự nhủ.
Ông Hai nh́n đồng hồ và thấy đă gần tám
giờ sáng. Nếu không phải về gánh hoa ra chợ cho
bà Hai th́ có lẽ ông chưa muốn đứng dậy. Ông
chép miệng: "Thật chẳng bỏ công!" Măi
đến giờ này mà ông chỉ câu được
một con cá chép bông nhỏ. Kỳ cục, cá cắn
mồi hoài mà ông giật không được con nào. Ông nh́n
sang con cá chép bông đang cựa quậy trong bọc
nước, ḿnh cá có những vẩy vân tuyền lóng lánh. Cái
đuôi ve vẩy mềm mại. Đôi mắt tṛn xoe mơ
màng. Câu được dăm bảy con về nuôi trong ao
th́ thích biết mấy.
Ông Hai tḥ tay vào bọc nước vừa bắt cá ra vừa cười nói: "Chú là cá chép hóa long linh thiêng. Giữ chú mang tội. Tôi rán làm phước đức, nên thôi thả chú về đấy nhé.” Ông thả con cá duy nhất vào lại hồ. Chú cá lượn mấy ṿng, ve vẫy, rồi lẩn mất.
Ông Hai quấn
cần câu, thu dọn đồ nghề, rồi dứng
dậy. Ông nh́n quanh như chưa muốn dời đi,
như tiếc rẻ chỗ ngồi, giá được
ngồi lâu thêm tí nữa biết đâu lại chẳng câu
được dăm bảy con cá chép xinh xinh.
Ông ngoảnh đi, băng qua lề đường,
bước dọc theo vỉa hè về hướng nhà Ga
Đà Lạt.
Khoảng năm phút sau, khi vừa đến gần
cổng sân banh, ông Hai bỗng nghe một tiếng
động mạnh như long trời lở đất. Ông
quay bắn người lại nh́n th́ thấy toàn thân
một chiếc máy bay đang chao qua chao lại
trước khi đâm xuống màn sương trên mặt
hồ. Khói đen bay lên mờ mịt phía thành cầu và chóp
những hàng thông cạnh đấy.
Đám đông từ hướng bờ hồ hớt hăi
chạy tản ra và có tiếng người la lớn:
- Máy bay A-37 quét ngang cầu đâm xuống hồ. Điện
giật cây đổ tùm lum. Người ta chết
nhiều lắm.
- Mấy người đang lái xe và đang đi bộ
ngang cầu đều bị hất văng xuống
hồ hết.
- Cả mấy ông già thường ngồi câu cá gần
đấy cũng bị thổi xuống hồ ráo
trọi.
Ông Hai thả rơi giỏ đồ nghề xuống
đất một cái bịch.
Ông đứng nh́n
trừng trừng về phía mặt hồ. Ánh sáng ban mai
bắt đầu chiếu rọi xuyên qua tấm màn
sương bạc. Bóng người di chuyển trên
đường phố. Sinh hoạt của khu chợ bên kia
mặt hồ từ từ hiện lên rơ nét trên tấm phông
trắng.
Ông ngậm môi nín thở và đưa tay lên
quệt trán. Trời c̣n đầy hơi lạnh mà hai thái
dương và hai bàn tay ông toát đẫm mồ hôi.
Lê Thị Huệ
(trích báo Văn do nhà văn Mai Thảo chủ biên, 1984)
© 2007 gio-o