lê thị huệ

Lớn Qua Hai Bờ Đại Dương Không Hóa Đá

Tôi lớn qua hai bờ đại dương
không hóa đá

Trong khi chờ hải đăng của Xanh lên
thả bay đầy trời con gái phương Nam
về miền tương lai nhân gian

Kinh nghiệm trở thánh một người Mẹ Việt Nam là một kinh nghiệm đặc biệt khác mà tôi đã trải qua.

Trước hết hình ảnh người đàn bà Việt Nam được ghi dấu bằng một sự tích lâu đời nhất là hình ảnh Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng khai sinh ra lịch sử Việt Nam vào năm 42 Tây Lịch. Những người đàn bà Việt Nam được nhắc nhở nhiều vẫn là những anh hùng lịch sử, là do cái truyền thống ca ngợi tuyệt đối vai trò anh hùng lịch sử mà không khuyến khích những đóng góp hoặc những sáng tạo phát minh của những anh hùng khác của nền Văn Hóa Việt Nam. Song song với các nam anh hùng lịch sử, người Việt Nam vẫn biết đến những nữ anh hùng lịch sử nhiều hơn những nữ lưu khác, đó là những anh hùng lịch sử Triệu Aåu, Huyền Trân Công Chúa, Bùi Thị Xuân v.v...Kế tiếp, có lẽ một truyền thống văn hóa khác của người Việt Nam là ca ngợi những người học giỏi. Những vị nữ lưu nổi tiếng văn hay “học giỏi” có Đoàn Thị Điểm, bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương.

Đây là những trường hợp cá thể. Trên phương diện đại thể,  hình ảnh mà người Việt Nam ca ngợi nhiều nhất về người đàn bà là hình ảnh tháo vát của người vợ, người mẹ Việt Nam.

Hình ảnh người chinh phụ chờ chồng nuôi con  trở thành một nữ lưu đã để lại bao nhiêu là vần thơ nhạc ca ngợi. Nhà thơ Tú Xương ăn chơi nghiện ngập gái giếc đã để lại những câu thơ bất hủ ca ngợi người vợ Việt Nam, được nhiều người đàn ông Việt Nam dùng làm bình phong để “đổi đề tài” trách nhiệm làm chồng làm cha của họ.

Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quảng nắng
Eo sèo mặt nước lúc đò đông

Vợ của ông Phan Bội Châu, vợ của ông Phạm Duy cũng được các ông này làm thơ làm nhạc ca ngợi sự đảm đang hy sinh vì chồng.

Vai trò làm vợ giỏi đã được khen ngợi, vai trò làm mẹ giỏi lại càng được ca ngợi hơn. Không như truyền thống Hoa Kỳ chẳng hạn, người đàn bà được ca ngợi nhất trong vai trò “sex symbol”, biểu tượng dâm. Nữ hoàng dâm Marilyn Monroe tuy không đi vào lịch sử Hoa Kỳ như Toni Morrison, một nhà văn da đen được giải Nobel văn chương, hoặc Betty Friedman, một nhân vật tranh đấu cho nữ quyền khai sinh thập niên 1900, nhưng Marilyn Monroe là một thần tượng “ngầm” của văn hóa Hoa Kỳ. Đàn ông Hoa Kỳ thì mê thân xác của Marilyn. Đàn bà Hoa Kỳ thì mơ có một tấm thân nẩy lửa như Monroe.

Vai trò mẹ trong văn hóa Việt Nam đóng vai trò một thứ thần tượng. Vai trò mẹ lấn át tất cả những vai trò khác về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam. Vai trò mẹ nổi bật vì đã được ca ngợi cái tính chất tuyệt đối của sự việc không còn sống cho mình, mà sống cho người khác. Người mẹ Việt Nam nổi tiếng là hy sinh cả cuộc đời mình cho chồng con. Hy sinh không đặt câu hỏi, không đặt điều kiện. Hy sinh quên hết bản thân mình:

Miếng nạc thì để phần chồng
Miếng xương mẹ gặm, miếng lòng phần con.

Ca dao Việt Nam còn có những câu ca ngợi sự hy sinh này dưới hình ảnh một con cò nặng nề bổn phận nuôi chồng nuôi con:

Cái cò lặn lội bờ sông
Gáng gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái, cùng con
Để anh đi trẩn nước non Cao Bằng

Hoặc

Con cò mà đi ăn đêm
Gặp phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con

Tính chất hy sinh đời mình để phục vụ con cái, phục vụ chồng, phục vụ gia đình nhà  chồng của người đàn bà cổ truyền Việt Nam đã choàng phủ lên vai trò mẹ của người đàn bà Việt Nam một màu sắc ít chất “người” mà gần với chất “thánh” hơn. Hình ảnh mẹ Việt Nam là hình ảnh những vị thánh sống.

Hình ảnh Mẹ “rất phổ biến trong tâm thức tôn giáo” của văn hóa nông nghiệp cổ truyền Viêt Nam. Dân tộc Việt Nam tôn thờ những yếu tố Mẹ, như Mẹ Lúa, Mẹ Đất, Nữ Thần Thánh mẫu. Cuộc sống nông nghiệp coi trọng yếu tố Đất Mẹ... Ý thức yêu nước (khi) rất đậm nét thường được biểu dương là (lòng yêu) Đất Mẹ, (lòng yêu) Mẹ Việt Nam” (Đặng Nghiêm Vạn, Việt Nam Đất Nước Lịch Sử Văn Hóa 1991, trang 218).

Âm nhạc Việt Nam trong hậu bán thế kỷ Hai Mươi đầy dẫy những câu hát ca ngợi tính chất thiêng liêng cao cả của mẹ Việt Nam “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào”(Y Vân)... “Mẹ ... là ánh sáng trong đêm khi lạc lối” (Nhất Hạnh, Phạm Thế Mỹ). “Trường Ca Mẹ Việt Nam” (Phạm Duy). “(Mẹ) dạy cho con tiếng nói thật thà. Dạy cho con chớ quên màu da, Ôi lũ con cùng cha, quên hận thù.” (Trịnh Công Sơn).

Tính chất “thánh sống” của người mẹ đã định để người đàn bà trong xã hội Việt Nam ở một ví thế khác biệt so với xã hội Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ có ngày lễ Mẹ (Mother Day)để ca ngợi vai trò của mẹ. Nhưng trong truyền thống của xứ sở mới mẻ này, người mẹ của Hoa Kỳ không có chỗ nào gần lên đến người Mẹ Việt Nam.

Truyền thống cá nhân chủ nghĩa của Hoa Kỳ khuyến khích sự tự lập cánh sinh của mỗi cá nhân. Người đàn bà cũng được khuyến khích là tự lo cho mình trước khi lo cho người khác. Con trai hay con gái đều được khuyến khích là phải thiết lập niềm tự tin, tự lập, tự lo lấy từ nhỏ trong gia đình. Đến mười tám tuổi là con cái nên dọn ra khỏi nhà bố mẹ và bắt đầu tự lập một đời sống mới. Người đàn bà không cần phải hy sinh cho ai cả. Truyền thống “độc lập” khuyến khích ai cũng như ai, phải tự lập, không ai nên hy sinh cho ai.

Sanh con đầu lòng vào năm thứ ba mươi sáu cuộc đời, theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ, tôi là người đã lo cho cái thân tôi trước. Tôi ích kỷ nặng. Tôi đã học xong những bằng cấp khã dĩ mang lại cho tôi loại công việc chuyên nghiệp có khả năng ổn định về tài chánh. Tôi đã đi làm no nê những năm tháng con gái để có tiền bạc tiêu xài rủng rỉnh. Tôi đã có đủ thời giờ để bồ bịch, tán dóc, ngủ trưa, bát phố, và đi nghỉ hè một mình hoặc hai mình. Về phương diện cá nhân, tôi đã thành đạt những điều mà mẹ tôi không đạt được một tí ti nào. Bà có một nhan sắc trên trung bình, nhưng vì nhà nghèo nên mới mười lăm tuổi đã phải về làm vợ kế cho một người đàn ông góa vợ hai con là bố tôi.

Chỉ đến khi có con tôi mới bắt đầu thấy mình thua xa mẹ tôi về mức độ hy sinh cho con cái. Tôi bắt đầu thấy mình phải cạnh tranh với mẹ về cái hình ảnh mà nền văn hóa Việt Nam đã mong chờ ở tôi.

Trong mớ hoa trái của đời sống tâm hồn chúng ta, giữa tất cả những kết quả từ mối quan hệ của cá nhân với tha nhân, không có giá trị nào cao quí hơn là sựï hy sinh. Hy sinh lớn lao hơn cả bác ái và từ bi. Trong khi thực thi bác ái và từ bi, người ta ban phát những tâm quả sẵn có. Từ bi và bác ái không đụng chạm đến quyền lợi của kẻ ban phát mà thường đó là những thành quả do sự phong phú của tâm hồn sản xuất ra. Nhưng hy sinh là cả một quyết định quyết liệt. Hy sinh có thể ăn mòn đến xương tủy của những nhu cầu căn bản của con người. Hy sinh là trao phần căn của mình cho phần căn của kẻ khác. Lấy ví dụ sau khi người chồng mất hoặc sau khi ly dị, một người đàn bà quyết định ở vậy nuôi hai con bốn tuổi và năm tuổi. Khi quyết định phục vụ đời sống của những đứa con (con còn nhỏ, chúng không thể tự sống một mình), trước khi thỏa mãn đòi hỏi thể xác và đòi hỏi tình cảm của mình (ai cũng có nhu cầu cả, dĩ nhiên). Người mẹ ở đây đã phải dẹp bỏ nhu cầu tìm hạnh phúc cho chính nàng để nuôi con. Đó gọi là hy sinh.

Nó vượt trội hơn cả tình yêu. Trong tình yêu người ta có thể cho và nhận một cách thụ động. Nhưng hy sinh luôn đòi hỏi một sự ban phát chủ động và không mong gì nhận trả lại công ơn. Chỉ khi một người mẹ quyết định “tôi sẽ hy sinh đời tôi cho đời con” người mẹ mới vượt qua được những nhu cầu sống cho mình trước. Người mẹ mới có thể nhịn một giấc ngủ để đỗ con nín trong những cơn mệt mỏi thân xác rã rời. Mới dẹp bỏ ước muốn cặp bồ khác để chạy trốn cô đơn. Mới nghỉ học ở nhà nuôi con. Mới có thể cai những cơn ghiền xì ke để dành cái chi phiếu eo - phe mua sữa cho con. Không nhủ lòng hy sinh, người mẹ sẽ bị nhu cầu muốn ăn ngon, bị nhu cầu muốn đi nằm ngủ cho sướng người, bị nhu cầu muốn tìm một vòng tay ấm, bị nhu cầu muốn học hành đỗ đạt cho bằng người ta, chúng hành cho! Những nhu cầu này được xem là những nhu cầu bình thường của con người. Những người mẹ khắp năm châu từ trước đến nay đã hy sinh những nhu cầu căn bản này cho con cái. Và nhân loại đã xem thường những hy sinh này. Tôi có thể nhìn thấy một viễn tượng mà người đàn bà không còn muốn hy sinh đời sống mình cho con cái nữa. Ngày đó nhân loại sẽ trải qua một thách đố lớn lao và sẽ mất rất nhiều thời gian để mò mẫm ra một mô thức mới thay thế ơn hy sinh của những người mẹ đã cứu rỗi nhân gian bấy lâu nay.

Sự hy sinh của mẹ tôi đã mang lại kết quả tốt cho tôi ngày nay. Ca ngợi về hy sinh của mẹ khi thấy rõ ràng lòng yêu người, sự tự tin, sự phấn đấu trên tôi, tôi là thành quả do lòng hy sinh của mẹ. Tôi cảm nhận được ân sủng yêu thương không điều kiện của mẹ đã mang lại những kết quả rất tích cực trên chính tôi. Tôi không thể đặt câu hỏi về lòng hy sinh khi biết  đó là món quà quí báu nhất trần  gian mà tôi đã tiếp nhận từ kẻ tha nhân đầu tiên là mẹ. Khi lớn lên bước vào đời, tôi chỉ thấy tha nhân bày ra những ác độc, những ích kỷ, những kèn cựa, những phiền muộn, những tiêu cực không à.

Những mặt khác nó đòi hỏi những điều kiệân mà tôi không thể thực hiện nổi. Bỡi vì trong khi đi tìm kiếm chính tôi, tôi đã mất thì giờ, mất năng lực, mất trí lực, vào sự theo đuổi này. Tôi không biết phải hy sinh cho con tôi như thế nào để có thể mang lại những kết quả tốt trên con cái. Tôi bắt đầu thấy tranh chấp giữa việc sống cho tôi và sống cho con. Tôi bắt đầu thấy đúng là tôi đã ích kỷ khi có con quá trễ. Tôi không giống mẹ. Là tôi đòi hỏi ở người đàn ông cọng tác với tôi trong công việc nuôi dạy con. Tôi không thể từ chối rằng sống cho mình cũng có những cái sướng thân.

Con số ly dị kỷ lục ở Hoa Kỳ vào thập niên 1980, cứ bốn cặp thì đã có ba cặp ly dị, có thể do nhiều yếu tố tạo thành. Nhưng cái yếu tố lớn nhất đưa đến những tan vỡ trong hôn nhân có lẽ là do sự đi tìm kiếm chính mình của người đàn bà Hoa Kỳ sau cuộc Cách Mạng Phụ Nữ của thập niên 1960. Trong khi đi tìm kiếm  mình, người đàn bà Hoa Kỳ đã làm động thương nhiều hệ thống xã hội. Mà vai trò người đàn bà, vai trò người đàn ông, vai trò cha mẹ, vai trò con cái, vai trò chính quyền, đã bị lung lay bỡi cái cách thế “bức dây động rừng” này. Kết quả của những cuộc ly dị này đã để lại một ảnh hưởng tiêu cực trên con trẻ Hoa Kỳ. Khủng hoảng gia đình đã tạo ra những đứa trẻ thích xài súng ống, ái ân sớm, bệnh tật nhiều, học hành kém. Khi cha mẹ không chăm sóc con cái vì cả hai đều bận rộn đi tìm kiếm công danh, đi tìm kiếm tiền bạc và  đi tìm sự thõa mãn nhu cầu cá nhân thì truyền hình và bạn bè đã trám vào để thay thế công việc hướng dẫn đứa trẻ. Vai trò của truyền hình và vai trò của những trung tâm giữ trẻ được đặt ra.

Liệu một trung tâm giữ trẻ tốt có thể thay thế vai trò của bố mẹ trong việc nuôi dạy đứa bé không? Một thế giới mới đang hình thành ở Hoa Kỳ trong đó mọi giới đang dò dẫm và duyệt xét lại toàn bộ những hệ thống xã hội để tìm kiếm một phương thức ổn định được cơn khủng hoảng gia đình Hoa Kỳ hiện nay.

Xã hội Việt Nam vẫn có một mô thức gia đình rất thành công. Có thể nói có nhiều cơ chế của xã hội Việt Nam bị phá vỡ. Những gia đình vẫn còn là một cơ chế vững chắc.

Đứng về phương diện quốc gia, cơ chế quân chủ với hệ thống vua chúa đã bị đánh đổ vào giữa thế kỷ hai mươi với Bảo Đại là vị vua cuối cùng của Việt Nam.

Một đơn vị khác của xã hội Việt Nam bị thiệt hại là làng xóm. Làng Việt Nam nguyên là đơn vị xã hội khá chặt chẽ trong nếp sống của người Việt Nam, “phép vua thua lệ làng” là một câu tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng biết. Vì phải trải qua quá nhiều chinh chiến của lịch sử nên người dân Việt Nam phải di chuyển chỗ ở liên miên. Hậu quả của những cuộc di cư này là làng Việt Nam không còn sức mạnh văn hóa như cũ. “Làng Việt Nam đã không còn cung cấp cho thành viên trong làng cái ý thức tập thể. Ý thức này đã mờ nhạt ở người Việt” (Nguyễn Đăng, Việt Nam Đất Nước Lịch Sử Văn Hóa, 1991 trang 85). Khi cần phải chung tiền làm ăn, người Việt Nam chỉ có thể tin tưởng tiền bạc với những người trong gia đình, chứ không tiến xa mối tin tưởng như người Trung Hoa. Người Trung Hoa sẵn sàng tin tưởng tiền bạc với những người cùng quê, cùng làng hơn.

Một dấu viết khác của một quốc gia nhiều chiến tranh như Việt Nam là sự phá vỡ giai cấp. Nhiều nhà văn hóa chia xã hội Việt Nam ra làm bốn giai cấp: Sĩ, Nông, Công, Thương. Nhưng hãy nghe một câu ca dao rất phổ thông ở Việt Nam: “Nhất Sĩ nhì Nông, hết gạo chay rông nhất Nông nhì Sĩ”. Trong nhiều xã hội khác, sự tồn tại với thời gian là yếu tố hàng đầu để thiết lập lên những giai cấp. Nhưng điều này đã vắng bóng trong xã hội Việt Nam. Vì chiến tranh liên miên không có điều gì vĩnh cửu, “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Hoặc “dân vạn đại, Quan nhất thời.” là những câu tục ngử bất hủ khác phản ảnh sự vô giai cấp ở Việt Nam.

Trong khi đó dù với bao nhiêu thế kỷ chiến tranh, gia đình Việt Nam vẫn giữ được một sức mạnh văn hóa cho đến ngày nay. Năm 1975, khi những người Việt Nam tỵ nạn sang Hoa Kỳ, nhờ hệ thống gia đình vững chắc để nuôi nấng và bảo bọc nhau nên người Việt Nam đã có thể đi học, đỗ đạt và thành công về con đường bằng cấp trong xã hội mới này. Cũng nhờ hệ thống gia đình chắt chẽ, người Việt Nam đã có thể mua tậu nhà một cách dễ dàng. Họ chung tiền và sẵn sàng cho mượn tên anh chị cha me con cái để thõa mãn những điều kiện tài chánh và tín dụng đòi hỏi từ những chủ nợ. Họ đã phá vỡ được hàng rào hệ thống tín dụng của nhà băng Hoa Kỳ, vốn thường căn cứ trên thành tích tiền tích lũy và thành tích ít nợ của những người đứng tên nhà để cho vay mua nhà.

Sự thành công hoặc thất bại của gia đình Việt Nam đối với văn hóa Việt Nam nói lên vai trò của người đàn bà Việt Nam rất nhiều. Sở dĩ gia đình Việt Nam vẫn còn có mặt như ngày nay, là do sự đóng góp của đàn bà Việt Nam trong phương cách kiểm soát và duy trì hệ thống gia đình  Việt Nam để tồn tại vững vàng giữa bao tan tác ly loạn của chiến ranh. “Lệnh ông không bằng còng bà” nói lên cái uy lực của người đàn bà trong gia đình Việt Nam.

Vai trò của người đàn ông trong gia đình Việt Nam vẫn mạnh. Người đàn ông vẫn được xem là cột trụ của gia đình do ảnh hưởng của Không giáo Trung Hoa. “Phu xướng, phụ tòng”.Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” là những câu nói giáo điều của người Trung Hoa chứ không phải của người Việt Nam. Những giáo điều này đã có một số ảnh hưởng tương đối nào đó lên đời sống gia đình Việt Nam. Trên danh chính ngôn thuận người người đàn ông vẫn được xem là người quyết định những vấn đề lớn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống vợ chồng con cái. Tuy nhiên lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến tranh, một quốc gia đã hiện diện hơn bốn ngàn năm nhưng chỉ được mấy trăm năm  hòa bình gom lại từ lúc dựng nước cho đến cuối thế kỷ hai mươi này. Vì thế người đàn ông Việt Nam phải ra chiến trường nhiều hơn là ở nhà. Người đàn bà Việt Nam phải quản xuyến hết tất cả mọi việc, từ việc chăm sóc dạy dỗ con cái cho đến việc kiếm tiền nuôi sống gia đình. Trong khi người đàn ông phải lo phục vụ đất nước, thì trách nhiệm chủ chốt gia đình đã phải chuyển nhượng sang hết cho người đàn bà. Người đàn bà không những phục vụ cho gia đình nhỏ của mình, mà con phải phục vụ gia đình lớn của chồng. Tiếng Việt có một cụm từ “gánh vác giang sơn nhà chồng” để chỉ khả năng quản trị gia đình của người đan bà Việt Nam.

Một trong những nơi chốn thể hiện khả năng kiếm tiền và khả năng quản trị tài chánh của người đàn bà Việt Nam là cái chợ.

Chợ Việt Nam là giang sơn của người đàn bà Việt Nam. “Không mợ, thì chợ cũng đông. Có mợ, thì chợ vẫn đông như thường. “Gái thương chồng đang đông buổi chợ. Trai thương vợ nắng quái chiều hôm” là những câu ca dao đã gắn bó người đàn bà Việt Nam với cái chợ.

Chợ là tụ điểm của phần lớn những thương vụ của người Việt Nam. Là nơi sinh hoạt đặc biệt giữa đàn bà với đàn bà. Chính nơi đây là nơi người đàn bà cổ truyền Việt Nam đã bung ra ngoài xã hội để kiếm tiền. Những cửa hàng trong chợ, từ những hàng vải hàng rau, cho đến những hàng cá hàng thịt, từ hàng nhỏ cho đến hàng lớn, tất cả đều được điều khiển và trao đổi bỡi những người đàn bà. Khi chợ Đồng Xuân, một nơi được xem là “não” của Hà Nội  (“Merchants Suffer As Historic Maket Burns In Hà Nội” San Jose Mercury News, July, 1994), phát cháy vào trung tuần tháng bảy, 1994, người ta ước lượng có khảng gần 9000 người, phần lớn là đàn bà Hà Nội, mất công ăn việc làm.

Làng Giầu (còn gọi là Phù Lưu) nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, cách Hà Nội 18 cây số là một làng nổi tiếng với chợ Giầu. Chợ Giầu nổi tiếng với những câu ca dao như:

Ai lên quan Dốc, chợ Giầu
Để thương để nhớ để sầu cho khách đường xa.

Hoặc:

Nón em sắm ở chợ Giầu
Dọc ngang thước rưỡi, múc khâu năm đường

Hay:

Gạch người mua chợ Đồn Gời
Mua soan tím lõi, mua vôi chợ Giầu

Chợ Giầu là sinh hoạt chính của làng nên người ta còn gọi là làng chợ Giầu. Làng chợ Giầu nổi tiếng là sản xuất ra những người đàn bà buôn bán giỏi. “Phụ nữ làng Giầu còn nổi tiếng là đi buôn để nuôi chồng đi học”. Sách Đồng Khách địa dư chí lược chép “Phù Lưu là tổng có nhiều người đỗ đạt nhất huyện” (Tìm hiểu làng Việt, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1990, trang 168).

Người đàn bà Việt Nam đã là người bán, họ còn là khách hàng mua. Những cô thiếu nữ, những người đàn bà bước đến chợ, là bước đến một ngôi trường học hỏi cái khả năng quản trị tài chánh của mình. Đây là nơi dạy cho họ bài học quản trị tài chánh rất nghiêm ngặt.

Chợ Việt Nam không giống như những siêu thị Hoa Kỳ. Những siêu thị ở Hoa Kỳ treo giá chính xác trên mỗi món hàng cho mọi người biết để mua bán. Nhưng chợ Việt Nam từ ngàn xưa cho đến đời nay là nơi chốn để mặc cã giữa người bán và người mua qua hình thức khảo giá bằng mồn. Người bán đưa giá. Người mua trả giá. Hai bên nói qua nói lại cho đến khi cả hai cùng chịu giá của nhau. Đó là một nghệ thuật tranh cãi liên hệ đến thiên khiếu và có sự học hỏi. Người bán khéo có thể lời cao. Người mua vụng có thể bị hố. Sự lời lỗ trong việc chi thu ở những buổi chợ có thể nâng cao hoặc làm xuống thấp nền kinh tế của gia đình.

Người đàn ông Việt Nam không nhận lãnh trách nhiệm đi chợ. Họ có thể là người mua bán ở ngoài chợ như là những gả lái buôn. Nhưng người đàn ông Việt Nam không làm công việc mặc cã “cò kè bớt một thêm hai” trong chợ. Đó là một loại công việc cũa phụ nữ Việt Nam.

Chỉ từ khi những sinh hoạt thương mãi vuột ra khỏi chợ, trở thành những công ty lớn, người đàn ông Việt Nam mới bắt đầu tham gia tích cực vào những sinh hoạt buôn bán quy mô nhiều hơn.

Sinh hoạt thương mại ở chợ và sinh hoạt quản trị trong gia đình đã khiến cho người đàn bà Việt Nam có cơ hội hành xử các khả năng trí tuệ và ở vào những vị thế có quyền lực.

Định mệnh hết sức vắn vỏi của miền Nam Việt Nam hai mươi năm, 1954 - 1975, bị đổ lỗi một phần là do lạm quyền và tham nhũng của hai chế độ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Chế độ Ngô Đình Diệm đã sụp đổ với hình ảnh bà em dâu Trần Lệ Xuân làm mưa làm gió trên chính trường của chế độ thời ấy. Tiếp theo là chế độ Nguyễn Văn Thiệu cũng đã mục nát vì tham những (Bản Cáo Trạng Tham Nhũng Số Hai, của Phong Trào Chống Tham Nhũng do linh mục Trần Hữu Thanh cầm đầu khoảng 1974 -1975). Chế độ Nguyễn Văn Thiệu bất lực với tham nhũng không phải vì chính phủ ấy không có những chính sách diệt tham nhũng, mà vì những giềng mối tham nhũng khổng lồ nhất đã xuất phát từ những người đàn bà vợ của những vị tướng lãnh cầm quyền. Mà vì trong căn bản những người  đàn bà này không phải là những kẻ được ủy quyền trực tiếp, nên họ chỉ nhìn thấy quyền lợi riêng mà không nối kết được tác động của những hành vi do chính mình gây ra lên trên thiệt hại chung của cộng đồng.

Một cách thuận ngôn và trên nhiều sách vở, người ta vẫn nói xã hội Việt Nam là một xã hội phụ quyền và nam quyền. Trong thực tế, xả hội ấy đã có chỗ cho người đàn bà hành xử những khả năng cá nhân gián tiếp và trực tiếp một cách sâu rộng hơn là người ta đã tương truyền

Lê Thị Huệ

(trích Khởi Đi Từ Ngây Thơ Đến Gần Sự Thật, tùy bút, Lũy Tre Xanh xuất bản, 1995)