TỰ DO CÙNG NGÔN NGỮ
50
Năm Văn Học Tiếng Việt Hải Ngoại
1975-2025
ký ảnh của Trang Hoàng
Penelope Faulkner Ỷ Lan
Giàn Bầu Paris
Penelope Faulkner, bút hiệu Ỷ Lan, sinh ở York, cố đô của nước Anh. Lúc còn bé, đã xem trên TV hình ảnh Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sàigon, và từ đó đã chú ý đến vấn đề Việt Nam. Được Đại Học Essex cho học bổng về môn triết học và chính trị. Sau đó cô được một năm « nghỉ nghiên cứu -sabbatical » để sang Paris tự nguyện giúp trong cơ sở Quê Mẹ của nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái. Khám phá thế giới tình nghĩa và ngôn ngữ Việt Nam, Penelope Faulkner Ỷ Lan quyết tâm ở lại Pháp, và đổi được học bổng để nhập học về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam tại Trường Đông Phương Sinh Ngữ (INALCO) tại Paris.
Penelope Ỷ Lan nguyên là phó tổng biên tập của tạp chí Quê Mẹ từ năm 1975-2000. Suốt thới gian đó, cô đã tham gia nhiều chiến dịch nhân quyền, như “Một Chiếc Tàu cho Việt Nam » do tổ chức và tạp chí Quê Me phát động để cứu sống người vượt biển gặp nạn trên Biển Đông. Những bài viết của Ỷ Lan trong Quê Mẹ được phát trên Đài BBC những năm 1985-87, được sự chú ý của thính giả trong nước.
Cô cũng là Chủ tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam (VCHR), còn là nhà báo, đã làm Đặc phái viên Đài Á Châu Tự do (RFA) từ lúc đài thành lập năm 1997 cho đến 2024.
Penelope Faulkner Ỷ Lan là dịch giả thơ văn và biên soạn nhiều phúc trình cho Liên Hiệp Quốc về nhân quyền Việt Nam, bao gồm quyền tự do ngôn luận và Internet, tự do tôn giáo, tự do báo chí, quyền của người lao động, quyền trẻ em, phụ nữ v.v.
Bà từng làm cố vấn cho các nhà báo, nhà văn và đạo diễn phim ảnh nghiên cứu về Việt Nam tại London. Đã phụ tá cho Lord David Attenborough trong chương trình "Nghệ sĩ Lưu vong", một bộ phim của đài BBC. Làm cố vấn về đời sống và văn hóa của người Việt trong loạt phim "Spirit of Asia" của đài BBC.
Tác phẩm đã xuất bản: “Quê Nhà”, Quê Mẹ, Paris, 1988. Gồm 19 truyện ngắn và tản mạn. Sách đã được tái bản đến lần thứ 9.
Penelope
Faulkner Ỷ
Lan
nét chữ sau
ảnh của nhà phê
bình Đặng Tiến (1940-2023)
Lời tựa cho sự xuất hiện của « Giàn Bầu Paris » trong tuyển tập « 50 Năm Văn Chương Tiếng Việt Hải Ngoại » trên www. gio-o.com
Tạp chí Quê Mẹ ở Paris là một trong những tờ báo uy tín đầu tiên của Văn Chương Tiếng Việt Hải Ngoại ra đời sau 1975.
Thời đó, tôi rời xứ sương mù Anh quốc qua Pháp tình nguyện làm việc một năm với tấm lòng phục vụ cho một « lý tưởng quốc tế ».
Bất ngờ thay, năm đó đã kéo dài cho đến hiện tại ngày hôm nay !
Tất cả khởi đầu với một câu của vị Chủ nhiệm Quê Mẹ, anh Thi Vũ Võ Văn Ái : « Cô muốn « làm cái gì » cho Việt Nam, trước tiên phải học tiếng Việt. Vì tiếng Việt là chìa khóa mở tâm hồn người Việt Nam ». Nghe vậy tôi liền ghi tên theo học Tiếng Việt tại Viện Đông Phương Sinh Ngữ ở Paris.
Nhưng «trường đời » lý tưởng nhất chính là tòa sọan Quê Mẹ.
Sống và sinh họat hằng ngày với các anh chị em văn nghệ sĩ Việt Nam, giao thiệp với độc giả người Việt đủ thành phận, vùng miền, tuổi tác hay tôn giáo. Nhờ vậy, được ngâm mình trong không khí thuần túy Việt Nam, tôi đã say sưa, lý thú tập nói và viết tiếng Việt.
Tiếc thay, vì thời cuộc và hòan cảnh, tôi vẫn chưa được đặt chân đến đất nước chữ S kia, như ước mơ. Nên nước Việt của tôi là nước Việt trong tưởng tượng. Nhưng không phải là ảo tưởng. Tất cả những chuyển kể, những kinh nghiệm sống và những người Việt tôi tả trong các bài viết đều có thật.
Vì vậy hôm nay, tôi rất vui được đóng góp vài lời tâm tình vào tuyển tâp « 50 Năm Văn Chương Tiếng Việt Hải Ngọai » của trang mạng văn triết sử Gió O từ San Jose California, như một cách tỏ lòng tri ân cho tất cả những người Việt – dù quen biết hay chưa hề gặp - đã khiến tôi yêu một dân tộc, một nền văn hóa và một đất nước Việt Nam, dù nằm xa nước Anh nghìn dặm bên kia địa cầu.
Penelope Faulkner Ỷ Lan
Khu vườn cạnh xưởng in tạp chí Quê Mẹ có giàn bầu nổi tiếng lắm. Người Pháp qua đường, các bà hàng xóm đi ngang, tay kẹp ổ bánh mì baguette hoặc kéo xe đi chợ, bận rộn, gấp gáp cách mấy cũng phải dừng chân đứng lại. Họ thường ngước đầu nhìn liếc, vừa kinh ngạc, vừa chiêm ngưỡng.
Ngày theo ngày, lá bầu xanh biếc chạy vùn vụt trên khung giàn bằng tre, vượt tràn qua bức tường cũ kỹ, nứt nẻ, của nhà in. Bất ngờ hết sức !
Nhà in Quê Mẹ ở nơi vùng ngoại ô Bắc Paris nghèo nàn. Đây là khu công xưởng, kỹ nghệ. Ống khói nhà máy mọc lên thay cây cỏ. Nhưng ngay giữa vùng bụi bặm, hẩm hiu này, một giàn bầu Việt Nam được dựng lên ngạo nghễ. Hoa bầu trắng năm cánh, thơm nhè nhẹ, gọi bướm tứ phương về, lá xanh to bản chạy đua cùng mặt trời...
Anh em trong tòa soạn Quê Mẹ nhớ nước nhớ nhà quá, dựng lên giàn bầu với những khúc tre còn sót lại sau kỳ tổ chức Hội Chợ Tết ở rừng Vincennes, Paris. Các người dựng giàn đều là dân «trí thức», nên giàn bầu có vẻ «buồn ngủ», hơi nghiêng ngả, nhiều khi lung lay theo gió chiều. Nhưng chính sự yếu ớt này làm tăng duyên dáng, khiến ai cũng thương giàn bầu, mong manh như đời người, như một kiếp tha hương...
Mùa hè nóng nực, Ỷ Lan thích ngòi mơ mộng bên giàn bầu. Anh em trong tòa soạn cũng hay kê bàn cạnh đấy, ngòi viết bài cho mát. Trưa nay, Ỷ Lan bày đầy sách vở, giả bộ làm việc. Nhưng đầu óc đuổi theo tiếng máy chữ của anh Thi Vũ, lóc cóc như vó ngựa. Một vài khi, anh Thi Vũ viết bài trên máy đánh chữ. Anh nói rằng tiếng lóc cóc, và sự đề kháng của nốt máy nhấn, kìm hãm bớt dòng suy tưởng quá nhanh, quá cuồn cuộn như vũ bão trong đầu. Viết tay chảy quá, khó kìm.
Nhìn giàn bầu, nhớ câu ca dao :
Bàu ơi, thương lẩy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Ỷ Lan nghĩ đến những năm vừa qua sống «chung một giàn» với anh chị em Việt Nam, và cười thầm nhớ lại những ngày đầu tiên khi mới qua Pháp.
Thuở đó mới hết chiến tranh, Ỷ Lan chỉ tính tình nguyện bỏ một năm sang Pháp giúp «Hội Phật tử Việt kiều Hải ngoại» trong việc phổ biến tin tức và văn hóa Việt Nam cho thế giới thông cảm. Làm sao ngờ được, ngày ấy đã hoàn toàn thay đổi đời mình ? Và mình sẽ bị, hay được Việt Nam hóa, và sẽ tìm ra một «Quê Mẹ» xa hẳn nơi chôn nhau cắt rốn.
Đến sống trong một không khí hoàn toàn xa lạ, Ỷ Lan vừa rán bập bẹ học tiếng Việt, vừa cố tìm hiểu và bắt chước sống theo tinh thần Đông phương.
Chướng ngại đầu tiên là cách ăn chén đũa. Làm sao gắp cho được và bỏ vào miệng những cọng rau luộc, khuôn đậu rán, miếng cá hay miếng thịt nằm ngoan ngoãn trên dĩa trước mặt bàn? Ỷ Lan dùng đủ cách, đủ kế, nhưng bữa nào cũng thua cuộc. Đâm thẳng tới, thì «chúng» nhảy đi chỗ khác như ếch nhái. Đâm lén, thì «chúng» vượt khỏi dĩa, bay thẳng vào chén người trước mặt ! Chó ngáp phải ruồi mà gắp được, đưa gần tới miệng, thì... «chúng» nhào xuống lại trong chén mình, làm nước canh bắn lên tung toé. Vừa dơ áo, vừa làm bộ mặt quê mùa của mình đỏ như gấc.
Khổ quá. Mấy ngày đầu đói meo, vẫn cắn răng không dám than. Do tự ái người Hồng Mao, nhất định không chịu thua, dù các bạn tội nghiệp đưa dao nỉa ra cứu. Vì vậy, sáng sáng Ỷ Lan thường uống cà phê sữa, ăn bánh mì thật no, chuẩn bị cho trận «đánh đũa» sắp tới.
Ôi, mấy hột cơm làm mình ốm o, đau khổ ! Chúng xếp hàng cả ngày trong lòng chén xa xăm của mình, mà chẳng chịu làm ơn co giò nhảy vào miệng. Thiệt bất công quá đi - sống trong xứ ăn cơm mà phải chịu đói.
Ngoài việc tranh đấu với chén đũa, Ỷ Lan chăm chỉ học tiếng Việt. Mỗi ngày mỗi chữ mới. Nhưng khi phát âm ra, chẳng ai hiểu mô tê chi cả ! Ỷ Lan xoay qua học cách phát âm tên từng người trong nhà, lại gặp phải một chướng ngại khác – là cách xưng hô !
Trong Hội Phật tử, người ra kẻ vào thường dùng chữ «đạo hữu», học khá dễ. Nhưng tên các vị Thượng tọa, Đại đức thì rắc rối lắm. Do sự đoán mò, và do một vị tu sĩ ưa khôi hài giải thích bậy, Ỷ Lan nghĩ rằng mỗi lần họ đi đâu đều «thích» đổi tên mới. Ỷ Lan được giải thích rằng, chẳng hạn khi qua Pháp, họ phải lấy tên mới, nên mới gọi là «Pháp danh» (tên ở Pháp). Có một vị tên là Thích Pháp Kiến rất dễ nhớ. Tên người ở Pháp lấy theo tên thánh không có nghĩa. Ở Việt Nam, mọi tên đều mang ý nghĩa. Có khi thơm tho, thơ mộng, như Quỳnh Hoa, Thu Ba, Mộng Tuyết... Có khi oai nghi hùng dũng, như Mạnh Dũng, Văn Hùng... Có khi mơ ước điều chưa có như Bạch Tuyết... Nhưng cũng có tên tuy đủ nghĩa nhưng không cần đẹp, như Đinh Năm Phân, Trằn Văn Trụi, Bé Teo, Cu Tí... Hỏi nghĩa Pháp Kiến là gì, thầy Thế Tịnh giảng cho Ỷ Lan là «le fourmi français» (con kiến Pháp). Hồi đó còn dốt hơn bây giờ, Ỷ Lan tin ngay, thấy nhiều ý nghĩa nữa. Đầu thầy trọc và tròn, người béo, suốt ngày bận rộn chạy vô chạy ra các phòng như con kiến. Dù không thích kiến lắm, Ỷ Lan vẫn phục lòng từ bi không phân biệt chủng loại của đạo Phật, như con kiến của thầy Pháp Kiến. Theo lời giải thích của thầy Thế Tịnh, Ỷ Lan tưởng tượng rằng rồi đây khi thầy Pháp Kiến sang hoằng pháp các nước khác như Ý, Mỹ, Thái Lan, Mông cổ... thầy sẽ phải đổi tên thành Thích Ý Kiến, Thích Mỹ Kiến, Thích Thái Kiến, Thích Mông Kiến?!
Thời đó là thời kỳ «khám phá», học hỏi nhiều nhất của Ỷ Lan. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư ! Ai dạy cho mình dù là nửa chữ vẫn là thầy của mình, nên Ỷ Lan có không biết bao nhiêu là thầy. Thầy hay, cũng như thầy bông lơn bậy bạ. Hèn chi người Việt có câu : «Nhiêu thầy thúi ma». (Vậy khi chữ Việt của Ỷ Lan không được thơ mộng lắm, cũng xin Bạn đọc tha thứ cho !) Và sở dĩ Ỷ Lan hăm hở học hết cả chuyện đúng, chuyên sai, chuyên ngược, chuyện xuôi luôn, mà không biết phân biệt, là cũng vì nạn nhiều thầy dạy « nửa chữ» như thế.
Trong Đại học Đông phương Sinh ngữ, có một thầy học dạy Ỷ Lan chữ «đồng hồ». Ông giải thích chữ «đồng» là kim loại dùng để làm đồng hồ thời xưa, và chữ «hồ» nghĩa là con chồn, chạy nhanh như thời gian. Và khi giảng chữ «huệ trí» trong truyện ngắn «Con thằn lằn chọn nghiệp» của nhà văn Hồ Hữu Tường, ông nói «huệ» là hoa huệ trắng, tên là hoa lys của Pháp; «trí» là trí tuệ, tinh thần. Huệ trí là trí tuệ trắng thơm như bông huệ. Về nhà khoe bài học mới với anh em trong tòa soạn Quê Mẹ, Ỷ Lan không hiểu vì sao ai cũng bật cười về «đồng hồ con chồn» và «bông huệ trắng» thơm tho của mình !
***
Trưa nay, ngồi dưới giàn bầu mơ mộng chuyện thời xưa. Không phải chuyện thời xưa khi tóc còn để chỏm, mà «thời xưa» đã có tóc thề. Vì «thời để chỏm» mẫu giáo, Ỷ Lan «ham chơi» đi học tiếng Anh, tới khi lớn mới bắt qua tiếng Việt. Nhưng thà trễ còn hơn không, phải không các bạn ?
Xung quanh vườn im lặng như tờ. Sao không còn nghe tiếng máy chữ lóc cóc của anh Thi Vũ ? Nhìn lên, thấy anh cười ngạo, tay chỉ bàn viết của Ỷ Lan. Liếc xuống bàn, một chồng sách báo và tự vị bày ra «dọa» thiên hạ, chứ chẳng viết lách chi được. Nãy giờ Ỷ Lan chỉ lách, chứ chưa viết. Và suốt những giờ thả hồn mơ mộng, giấu mình sau chồng sách, một giây «râu» bầu đã vểnh ra, cuốn vòng quanh cây bút còn cầm trên tay như cuốn «lò xo». Râu bầu là nụ cười nhếch mép của thiên nhiên đang vạch trần «âm mưu» không chịu làm việc của mình.
Ỷ Lan càng hiểu thêm sâu sắc câu ca dao Việt:
Bầu
ơi, thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Tự thấy đời mình cuốn ốc «chung giàn» với người Việt. Ngày càng buộc chặt. Ngày càng vươn cao. Ngày càng đi xa, đi chung mãi mãi về phương trời quê mẹ.
Tiếng cười của anh Thi Vũ làm rung rinh đàn bướm trắng đang ngủ trưa trên những nụ hoa bầu. Bướm tung tăng bay dưới nền trời Paris xanh ngắt. Ai biết đâu những con bướm ấy lại không đến từ một giàn bầu xa lắc ở một khu vườn trên đất nước Việt Nam. Bướm tới đây thầm thì kể chuyện nước non với giàn bầu hải ngoại xanh biếc mọc cao giữa Paris tự do.
Ỷ Lan
Paris, 29.9.1985