ký ảnh của Nguyễn Thảo

 

Trịnh Gia Mỹ

Những Mối Duyên Văn Nghệ

Với Văn Chương Hải Ngoại

 

Trịnh Gia Mỹ sinh tại Chợ Lớn, Sài Gòn. Lúc nhỏ ở Cầu Sắt, Bạc Liêu. Thuộc dòng dõi người Việt gốc Hoa . Ông Nội là Bang Trưởng bang Phúc Kiến ở Bạc Liêu.

Trước năm 75 học Luật Khoa Saigon, ban Kinh Tế.

Tốt nghiệp ngành Kỹ Sư Điện, Electronics Engineering tại đại học của bang California, Cal Sate Long Beach.

Đăng nhiều thơ trên Văn, Văn Học, Dân Chúng, Đời, Làng Văn, Người Việt, Việt Báo, Saigon nhỏ, Chánh Pháp… ở Mỹ và Canada.

Thơ Trịnh Gia Mỹ nhẹ nhàng, nhân sinh quan bao dung hòa đồng, chữ nghĩa đằm thắm duyên dáng. Nên thơ Trịnh Gia Mỹ được nhiều chủ bút và độc giả yêu quý.

Tác phẩm đã xuất bản:

Yêu Em, Mùa Xuân, thơ,  Viet Publications, Cananda, 1987

 
Trịnh Gia Mỹ

 

Những ngày đầu đặt chân đến Mỹ, ngoài những lúc đi làm giấy tờ, thời gian còn lại tôi thường tìm đọc những tờ báo cũ trong nhà. Một hôm tôi lục được tờ báo Dân Chúng. Đọc tới đọc lui một hồi, bỗng tôi thấy trên có tên Nguyên Sa. Tôi gọi điện thoại cho ông. Từ bên kia đầu dây, giọng nói quen thuộc “a lô”. Phải mất vài giây, tôi nói “Thưa thầy, con đây”, bên kia đầu dây “ai đó?”, tôi nói “con, Mỹ, Trịnh gia Mỹ” và thêm vài phút nữa nhắc nhỡ, Thầy “à, nhớ ra rồi”.

Đó là một buổi nói chuyện, không, một buổi phỏng vấn đầy lý thú. Chuyện Việt Nam, chuyện bên đảo, chuyện bạn bè, chuyện đời sống…đủ thứ. Thầy hỏi tôi đủ chuyện, khuyên tôi đủ điều cho người mới qua. Sau đó cứ vài ngày Thầy gọi tôi một lần, hỏi tôi công chuyện tới đâu. Thầy khuyên tôi không nên tiếp tục cái ngành Luật nữa, vì tiếng Anh mình đâu có giỏi như người Mỹ nên ra tòa làm sao mà cãi. Cũng không nên làm báo. vì sau này bọn nhỏ lớn lên có biết tiếng Việt đâu mà đọc. Làm báo bây giờ chỉ tạm thời cho những người lớn tuổi đọc thôi, sau này chẳng ai đọc.

Nguyên Sa khuyên tôi đi học ngành điện tử, vì ngành đó dễ kiếm việc. Rồi ông hỏi tôi đang tính gì? Trời, một người vừa ngóc đầu lên khỏi vũng nước tưởng đã chết ngộp, đang từ từ ngữa mặt hít thở bầu không khí tự do trong lành. Đầu óc chưa tỉnh táo. Nét mặt đang lơ ngơ thì biết gì mà tính? Tôi cười cười “Dạ, con chưa tính gì hết” Rất là nhanh, ông tính cho tôi “Đi học lại đi, ở đây mà không có chữ nghĩa thì khó mà sống.”

 

“Khó mà sống”, câu nói làm tôi cũng hơi run. Nguyên Sa khuyên tôi đi học ngành điện tử, vì ngành đó dễ kiếm việc. Nhưng chuyện trước mắt là phải kiếm tiền. Tôi bắt đầu làm quen với cái máy vắt sổ công nghiệp. Cái apartment hai phòng má tôi thuê đã chứa 7 người, giờ thêm hai vợ chồng tôi cộng thêm thằng con trai nhỏ nữa là đủ một chục. Tôi thuê cái máy vắt sổ để kế bên giường. Vừa vắt sổ vừa ghi tên đi học lại. Thỉnh thoảng Thầy Nguyên Sa hỏi thăm “giờ con đang làm gì?”, tôi tường trình, ông hỏi “con có viết được không?” tôi thắc mắc “viết gì Thầy?” Ông nói viết truyện ngắn, viết tùy bút, viết cái gì mà người ta đọc được. Rồi ông ra lệnh “thử viết đi, rồi đưa Thầy coi”. Lời nói như ra lệnh. Nhà chật, căn phòng nhỏ xíu kê vừa đủ cái giường và cái máy vắt sổ. Vậy là cái giường ngủ trở thành cái bàn viết. Tôi nằm dài trên giường. Tôi viết vào đêm khuya, khi cái máy vắt sổ không được phép làm việc. Tôi vừa viết vừa làm homework. Homework ở trường thì mỗi ngày. Homework cho Thầy thì mỗi tháng. Đều đặn. Tôi viết tay trên tập giấy kẻ hàng đôi rồi gởi Thầy. Thời gian đan xen những việc viết, đi học, rồi đi làm. Những lúc rảnh, tôi viết một đoạn, rồi khi nào vắt sổ mệt, tôi viết thêm đoạn nữa… vài ngày cũng xong cái truyện ngắn đưa cho Thầy. Ông nói “được lắm, để Thầy đăng trên báo Đời”. Vài tuần, Nguyên Sa gọi tôi lên lấy báo về coi. Tôi lái xe khoảng nữa giờ, tưởng chỉ lấy báo về coi, không ngờ trong đó kèm theo phong thư trắng có cái check, đối với tôi lúc đó không phải nhỏ.

 

Vậy đó, tháng nào tôi cũng nằm dài trên giường viết truyện ngắn cho báo Đời. Tháng nào Thầy cũng cho tôi một cái check. Tháng nào tấm check của Thầy cũng phụ cho cái check của hãng may giúp tôi trang trải rất nhiều chi phí.

Thỉnh thoảng tôi cũng khoe Thầy bài thơ tôi viết, Nguyên Sa dạy tôi “làm thơ không phải chỉ vần điệu không mà phải có cảm xúc. Con muốn làm thơ hay thì bài thơ phải có âm thanh, phải có hình ảnh, phải từ trái tim. Không có những thứ đó, bài thơ không sống được lâu…” Hoặc “làm thơ lục bát dễ mà khó. Viết không từ trái tim thì lục bát thành ca dao…” Hoặc “làm thơ tự do thì khó lắm! Nó phải chuyên chở một cái gì chứ không thì trẻ con cũng làm được.” Đôi khi, Nguyên Sa gọi tôi, đọc cho tôi nghe một bài thơ ông mới viết và giải thích… Nhất là thời gian của năm 1997 và 1998, Thầy có nhiều bài thơ, là những bài thơ tự do và lục bát. Những bài thơ mà, sau này nhìn lại, mới thấy đó là thơ của một người đang ở ngã rẽ của cuộc đời, nhìn lại chặng đường mình đã qua, nhớ lại những kỹ niệm mình đã sống và chấp nhận những gì đang xảy tới. Nguyên Sa nhìn những việc đang tới với cuộc đời mình một cách bình thản, như những sự việc đang tới ấy phải tới, không khác.

 

Nguyên Sa ít khi đi ra ngoài, càng không lê la cà phê mỗi sáng. Vậy mà Thầy biết rất nhiều thứ. Bolsa động tịnh một cái là Thầy đã biết. Phố Việt mình có cái gì thay đổi một chút là Thầy đã hay. Thầy làm báo Dân Chúng mỗi tuần, chẳng phóng viên, chẳng tòa soạn, vậy mà tin tức vẫn cập nhật, bài vở vẫn phong phú. Thỉnh thoảng Thầy nói với tôi “Vài chục năm nữa loại báo này chẳng ai đọc đâu con. Người lớn chết dần, bọn con nít đọc báo Mỹ chứ chẳng thèm đọc báo Việt”. Ngoài làm báo, Nguyên Sa còn làm băng nhạc. Những băng nhạc của Thầy toàn là ca sĩ thượng thặng. Thầy chăm chút từng bản nhạc, từng lời ca. Thầy vào ngồi luôn trong phòng thu nghe ca sĩ thu âm. Chỗ nào không ưng ý, Thầy bắt thu lại liền. Bởi vậy trung tâm băng nhạc Đời của Nguyên Sa luôn được niềm tin của thính giả. Đa số những bài hát trong băng là những bài hát phổ nhạc từ thơ của Nguyên Sa và những bài hát nổi tiếng mà ít ai nhớ tới. Nguyên Sa bắt được nhịp thẩm âm của người Việt hải ngoại nên Thầy thành công trong lĩnh vực băng nhạc. Nhiều nhạc sĩ phổ thơ Nguyên Sa. Nhưng không phải ai phổ nhạc từ thơ của Nguyên Sa cũng đều được Thầy chấp nhận. Thầy nói phổ nhạc không khéo, cũng là một hình thức giết chết bài thơ.

 

Nguyên Sa làm báo. Đôi khi cũng đụng chạm người này người nọ, chỗ này chỗ kia. Khi tôi hỏi, ông bật cười “viết cho vui vậy thôi chứ chả có ý gì đâu con, báo biếu mà! Chẳng ai bận tâm”. Bận tâm chứ! Có lần, tôi nghe một Ông chủ báo người tàu than phiền “Ông Thầy của chị đánh mạnh tay quá”.

 

Khi nghe nói tôi sửa soạn in tập thơ đầu tay thì Nguyên Sa bảo tôi để ông viết tựa. Rồi Thầy lại nói Thầy đang định làm một nguyệt san văn học. Ông muốn tôi phụ việc trông coi và lo việc tiền bạc. Tôi từ chối liền, lấy cớ vì bận gia đình, bận làm…Nhưng lý do duy nhất là tôi sợ làm báo, sợ lắm! Tôi sợ đụng chạm, tôi nhất định không làm nhưng Nguyên Sa kiên nhẫn vô cùng! Thầy thuyết phục tôi khi tôi nói sợ làm báo, sợ này nọ, Thầy nói “khi nào Thầy còn sống thì không ai dám đụng tới con, không ai dám ăn hiếp con”. Tôi không dám tin, có ai sống hoài đâu. Nhưng cuối cùng, lúc phát hiện Thầy bị bệnh thì tôi nhận lời. Nguyên Sa vui lắm, khệ nệ ôm tới cho tôi nhiều số báo có bài viết về Michelle Kwan, bảo tôi đọc rồi viết bài tổng kết về cuộc đời và sự nghiệp của Cô này. Ông còn bảo tôi đưa ông một số bài thơ tôi thích để làm một trang thơ Trịnh gia Mỹ trong số báo đầu tiên. Tôi e dè “sao nhiều vậy Thầy?” Ông nói để người ta đọc cho đã. Nhưng, trong lúc Nguyên Sa say sưa hoạch định cho nguyệt san văn học mới thì ông lại trở bệnh. Những ngày nằm viện đã làm công việc của Nguyên Sa chậm lại. Nhưng dường như căn bệnh không thể ngăn ông theo đuổi công việc. Nằm trên giường bệnh, Nguyên Sa vẫn gọi người này người kia, gọi nhà in để hoàn thành tập thơ Nguyên Sa bốn. Ông còn chọn màu này chọn màu kia cho cái bìa. Ông vẫn tính ngày giờ, vẫn chọn lựa, vẫn quyết định… Ông tỉnh táo, ông làm việc, đến nỗi Cô Nga còn muốn xin cho Ông xuất viện, vì thấy Ông khỏe. Nhưng chỉ vài giờ sau đó, Nguyên Sa ra đi.

 

Nguyên Sa đã sống trọn vẹn với thơ cho đến giờ phút cuối.

Với tôi, Nguyên Sa không chỉ là một người Thầy dạy mà còn là một người cha, người chú, người bạn theo đúng nghĩa của nó.

Ông có cùng năm sinh với Má tôi.

 

Nguyên Sa ra đi nhưng Ông để lại những bài thơ đọc hoài không chán, đọc hoài vẫn thấy hay. Nhớ khi xưa có lần Thầy nói “Một bài thơ hay là bài thơ đọc đi đọc lại vẫn thấy có cảm xúc như lần đọc đầu, là bài thơ mà lâu lâu chợt nhớ lại là phải đi tìm đọc…” Phải nói trong chúng ta, không ai mà không một lần đọc qua ít nhất một bài thơ của Nguyên Sa. Không một ai đã từng một lần ngân nga vài câu thơ của Nguyên Sa. Những cặp tình nhân mượn thơ Nguyên Sa để thay lời tỏ tình. Những cặp đôi kỷ niệm ngày cưới cũng đọc thơ Nguyên Sa để nhớ lại những ngày đầu còn e ấp. Người ta đọc thơ Nguyên Sa trong những hội hè, đình đám…

 

Sau khi Thầy mất, tôi ngồi đánh máy lại những bài thơ của Thầy để Cô Nga in thành một quyển thơ toàn tập. Tôi scan những bức hình cũ của Thầy Cô lúc còn trẻ cho quyển Cuộc hành trình tên là lục bát. Tôi phụ Cô Nga khi Cô một mình đi lo in ấn Thơ của Thầy.

 

Còn nhớ hôm tiễn Mai Thảo ở Peek Family hồi tháng 1. Nguyên Sa đến lúc sắp làm Lễ động quan, trông ông thất thần, mệt mõi. Vẫn cái mũ beret, vẫn áo trắng bỏ ngoài, Ông chậm chạp bước vào chỗ ngồi, vẫn cái dáng điệu từ từ như chẳng có gì cần phải vội. Tôi len lõi qua nhiều người, đến chào Ông “Thầy khỏe?” Nguyên Sa nhìn tôi “Vẫn vậy con” rồi ông thêm “Ai rồi cũng đến chỗ này thôi, con biết không?”. Vẽ như là Thầy xem cái sinh, lão, bệnh, tử là định luật muôn đời của tạo hóa. Là cái không thể thay đổi, cái không thể chọn lựa. Vậy mà chỉ ba tháng sau, cũng tại Peek Family này, Nguyên Sa cũng theo Mai Thảo ra đi. Hai người bạn có hai phần mộ trong một nơi chốn có nhiều cái tên Việt Nam lừng lẩy trong văn học hải ngoại.

 

Tôi không gần gũi với Bác Mai Thảo nhiều như những người khác, nhưng có sự thương mến Ông đặc biệt. Thỉnh thoảng gặp Bác đâu đó, tôi chỉ cúi đầu chào và đứng xa xa mặc dù tôi đọc nhiều truyện của ông và rất yêu thích “Mười đêm ngà ngọc”. Hồi học lớp 12, tôi mua quyển “Tùy Bút Mai Thảo” về đọc mà không hiểu gì. Tôi kính trọng Mai Thảo. Ông chưa bao giờ dùng ngòi bút của mình để viết những điều không đẹp về một ai. Người phụ nữ có một vị trí rất đẹp trong những bài viết của Mai Thảo. Tôi yêu văn thơ Mai Thảo, nhưng tôi không dám đến gần… Tôi nghĩ chắc là Ông khó lắm, vì tôi không thấy ông nói. Nhưng một hôm, đi dự đám cưới cô em của Phan thị Trọng Tuyến và Nguyễn thị Ngọc Nhung, tôi được xếp ngồi cạnh Bác Mai Thảo. Sau một lúc nói chuyện với những người cùng bàn, Ông chợt quay sang tôi “con bé này, mấy bài lục bát mới làm hay đấy, đọc cho tôi nghe một đoạn xem nào”. Ông làm tôi lúng túng, vì tôi thường ít nhớ những bài thơ của mình. Lại càng không biết đọc trước chỗ đông người. Bài viết xong, đưa ai đó, rồi thôi. Có khi không nhớ. Thấy tôi loay hoay, ông nhắc, bài thơ làm trong bệnh viện cho con đấy. À, thì ra đại thụ Mai Thảo vẫn có để ý đến những cây non mới mọc. May quá, chỉ có bốn câu, tôi đọc đoạn thơ lục bát trong những đoạn tôi viết lúc nằm bệnh viện, hình như đăng trên Văn Học, nghe xong Mai Thảo gật gù. Được lắm, được lắm. Bài thơ nào viết từ tấm lòng vẫn thật, vẫn rất thật. Xong ông lại nâng ly rượu, ngó mông lung.

 

Mai Thảo uống nhiều rượu mà ăn thì không bao nhiêu. Buổi trưa đi ăn với Bác trước khi nhà văn Phan thị Trọng Tuyến về Pháp, Mai Thảo kè theo chai rượu, khoe “chai này của Khánh Ly tặng, thuộc loại hiếm đấy. Cô ấy biết tôi thích nên mua tặng”. Rồi ông chỉ uống và nói. Thỉnh thoảng gắp một miếng nhỏ như ra vẻ có ăn. Tụi trẻ nói Bác không ăn mà gọi thức ăn nhiều quá. Mai Thảo chậm rãi “cho nhà hàng sống chứ. Mình ngồi lâu mà gọi ít thì người ta chết đói”. Khi đưa Mai Thảo về, Ông nhẹ nhàng “tôi sống một mình nên không có bữa cơm gia đình. Khi nào có dịp vui hay đi đâu đó nhớ đón cho tôi đi nhé”

 

Hôm nhà báo Nguyễn Hữu Nghĩa bên Canada nhờ tôi đưa biếu Mai Thảo chai rượu, sáng sớm, tôi định lái xe đến chỗ Ông ở bên ngõ nhà hàng Song Long, nhưng vừa đến đường Bolsa góc Bushard thì thoáng thấy dáng Ông cao lêu nghêu thong thả đi bộ. Tôi vòng xe lại, đuổi theo Ông. Thoáng thấy tôi mở cửa xe đi xuống, Mai Thảo mĩm cười đứng lại “Đi đâu sớm thế?” tôi đưa ông chai rượu “Bác ơi anh Nguyễn Hữu Nghĩa Làng Văn nhờ cháu đưa biếu Bác”. Mai Thảo nhận chai rượu, nói gọn “cám ơn nhé” rồi lại lững thửng bước đi.

 

Hôm sắp in tập thơ, bất ngờ tôi nhận được lời tựa của nhà văn Duyên Anh. Một hôm trong chuyến sang Cali, Ông có gặp một số thành viên Tuổi Ngọc. Nghe một bạn nói tôi sắp in tập thơ nên Duyên Anh sốt sắng viết lời giới thiệu mà chẳng đợi nhờ. Ông đưa Hồ Văn Xuân Nhi mấy trang giấy viết tay mà ông viết đêm trước. Tôi gọi Bác Mai Thảo, kể chuyện tôi được hai người viết tựa cho một tập thơ sắp in nên muốn hỏi ý Bác, Mai Thảo chậm rãi “Mình in thơ cho mình chứ có riêng cho người nào đâu nên chẳng cần có ai viết tựa”

 

Những lần ghé thăm Mai Thảo sau này thấy ông yếu dần. Cửa phòng không đóng mà chỉ khép hờ, trên có dòng chữ của người nhà nhắc nhỡ đừng mang rượu đến nữa. Mai Thảo ngồi trên giường, có khi nằm “Rót dùm tôi một ly” tôi hỏi “nước hả Bác?” Ông gắt “Nước thì uống làm đếch gì?” “Không có rượu Bác ơi” Mai Thảo thở dài “kiêng cử cái gì, ai chẳng phải chết?” rồi ông lẩm bẩm “phải chi khi xưa tôi có một đứa con”.

Hôm lễ tang Mai Thảo ở Peek Family, hiện diện hầu hết những người yêu mến Ông. Cây tích trượng gõ mạnh xuống nền gạch của Hòa Thượng Mãn Giác như tiếng chuông thức tỉnh người nằm đó và cho cả người sống. Sinh ký, tử quy. Từ nay, “nơi góc tường sẽ không cỏn in cái bóng gầy” nữa. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác buồn bả “Mai Thảo là người cô đơn nhất trong thế giới lưu vong”.

 

Dường như căn nhà ở đường McClure, thành phố Westminster, của nhà văn Nguyễn Mộng Giác là nơi mà tôi được gặp nhiều người viết nhất trong dòng văn học hải ngoại. Mỗi khi có tụ họp, tôi thường gặp nhà văn Bùi Bích Hà, nhà thơ Trần Mộng Tú, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, nhà báo Trương Gia Vy, Ông Võ Thắng Tiết, thỉnh thoảng có nhà văn Trần thị Lai Hồng, nhà văn Phùng Nguyễn, chị Dạ Khê, chị Ngộ Khê…tôi cũng gặp, lần đầu tiên, nhà văn Đặng Thơ Thơ năm 2002 khi Cô in tập truyện ngắn đầu tay “Phòng triển lãm mùa đông”.

 

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác hiền lành, lúc nào cũng cười. Giọng nói nhỏ nhẹ, chừng mực. Nhà Ông nhiều khách vì vợ ông, chị Nguyễn Khoa Diệu Chi, ham vui và hiếu khách. Tôi thích nghe chị Bùi Bích Hà nói, giọng Huế trong trẽo, líu lo. Khi Ông làm chủ bút tạp chí văn học, thỉnh thoảng gặp, chị hay cười, nhắc tôi “nì, viết bài đi chớ”.

Tôi cười, về nhà lo chuyện này chuyện kia rồi quên, nhưng khi gặp lại chị không trách, chị lại cười nói, lại líu lo. Tôi có cái tật ôm đồm, lại lơ là không tính trước cái gì. Chuyện trước mắt phải làm thì làm, chuyện chưa tới thì chưa làm. Hồi xưa, hầu như là mỗi tuần, buổi sáng, chị Bùi Bích Hà hay hỏi tôi có bài mới chưa là buổi trưa sau giờ break tôi đều có bài thơ đưa chị. Còn nếu chị không hỏi thì tôi không có. Đó là lý do tại sao chị Hà đăng thơ tôi mỗi tuần trên trang Phụ Nữ báo Người Việt lúc chị Bùi Bích Hà còn là người phụ trách. Sau này, cũng chính chị nói tôi gom những bài thơ lại để in một tập, và tập thơ “Yêu em, mùa xuân” đã ra đời.

 

Hôm nhà văn Bùi Bích Hà đăng bài “Bài cho em bé lượm bao nylon” của tôi, thì nhạc sĩ Trần Đình Quân gọi tôi, bảo nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng muốn phổ nhạc bài thơ đó, anh hỏi tôi ký tặng nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng tập thơ được không? Dĩ nhiên là tôi chẳng chần chừ gì. Sau đó vài ngày, anh Quân lại gọi tôi, xin lỗi, bảo anh Trầm Tử Thiêng trách anh Quân là tại sao đi xin tập thơ cho anh nên anh Thiêng tự ái, nghĩ là anh phổ nhạc thơ của tôi vì nhận được tập thơ nên anh Trầm Tử Thiêng giận anh Quân, nên bỏ qua ý định phổ nhạc bài thơ của tôi, mà chỉ lấy ý câu cuối của bài thơ: “Em bé, em không còn cô độc. Bởi bây giờ em đã có tôi” và viết thành ca khúc “bên em đang có ta”. Âu cũng là cái duyên.

 

Tôi quen nhà văn Bùi Bích Hà ở sở làm. Hai chúng tôi đều làm cho hãng Edward Labs, ở Irvine. Giờ nghĩ giải lao, chị và tôi thường đứng bên hành lang nói chuyện. Mười lăm phút ngắn ngủi không dài để nói được nhiều chuyện. Chị Bùi Bích Hà mềm mõng, dễ thương, hay quan tâm đến người khác và nói chuyện không làm phật lòng ai. Chị kể Ông cụ thân sinh của chị là người Bắc, do việc làm nên ở Huế và khi lớn, chị học trường Đồng Khánh. Chị Bùi Bích Hà hay kể chuyện ở Huế cho tôi nghe. Đôi khi tôi bắt gặp vài chuyện đâu đó trong những truyện ngắn của chị. Chị Hà không hay nhắc đến chuyện gia đình. Họa hoằn lắm trong cuộc chuyện trò nào đó, vô tình nhưng không nhiều, chị kể cho tôi nghe bằng một giọng rất bình thường, mơ hồ như chuyện đó là của ai khác, không phải của chị. Tôi nhớ mang máng là chị có Cô con gái đầu lòng mà chị gởi đi vượt biên, gần ra khỏi hải phận thị tàu bị lật, nhiều người chết, trong đó có cô con gái rất thương yêu của chị. Chị tự mình đi xuống Cà Mau (tôi không nhớ rõ lắm) tìm kiếm xác cháu và mai táng…Tôi cũng nhớ hình như có lần chị nhắc đến cuộc hôn nhân sau này không hoàn toàn như chị mong đợi… Chị như là khán giả đứng ở ngoài, nhìn những chuyện đã xảy ra trong cuộc đời chị như một vở kịch có đủ hỉ nộ ái ố. Kịch hết, màn nhung buông xuống, khán giả đứng lên, xong. Những buồn vui vô thường đó chỉ là những con sóng nhỏ lăn tăn trên mặt hồ, không làm chị dao động. Gió hết, những con sóng lại nằm im. Tôi phục cách ứng xử của chị, Chị có nhiều nghị lực và chịu đựng mặc dù chị kể với tôi là có lần chị đã buông xuôi, nhưng cuộc đời đã kéo chị lại. Cuộc đời đã bắt chị đứng lên.

 

Buông xuôi không được thì đứng lên. Không biết có phải vậy không mà chị Bùi Bích Hà sau đó lao vào đời sống một cách không mệt mõi. Chị có việc làm full time, rồi chị làm báo Người Việt, làm báo Phụ Nữ Gia Đình, làm phát thanh…sau này chị còn len lõi vào lảnh vực chính trị nữa bằng những buổi phỏng vấn, những buổi hội luận... chị bận rộn, đến nỗi tôi có nghe nhiều người trách là chị đã hứa mà không đến. Nhưng với tôi thì không, chị hẹn với tôi lúc nào chị cũng giữ lời. Dù là rất bận rộn nhưng chị đã đến dự buổi nói chuyện của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn tại trường Đại Học Cypress do nhóm Tuổi Ngọc tổ chức. Chị cũng đã đến dự buổi đọc thơ của tôi do một số bạn trẻ tổ chức. Dạo sau này chị than là cái chân chị nó đau quá, làm gì cũng không đỡ. Nên có một hôm tôi định đi một hội chợ y tế của một số bạn, tôi rủ chị đi, không ngờ chị vui vẻ nhận lời ngay. Chị khoe lúc này cái chân của chị nó hết đau rồi, tôi hỏi sao hay vậy? Chị nói không biết nữa, uống đủ thứ thuốc, làm đủ thứ chuyện rồi một ngày tự nhiên nó hết Mỹ ơi. Nhưng có lẽ là do cái Ông Bác Sĩ cho chị uống cái loại thuốc gì đó để trị những bệnh không biết nguyên do. Đúng chiều hẹn tôi đến đón chị. Chị Hà vui như mọi khi, chị có rủ một cô cháu đi cùng. Chị nói nhiều, chị đi lòng vòng xem sản phẩm. Khi đến để tay lên cái máy đo sức khỏe như mọi người thì chỉ số của chị Hà rất thấp. Người phụ trách cái máy tỏ vẻ ái ngại, xin chị đo lại lần nữa, lần này cũng con số ấy. Tôi hơi lo, nói chị Hà nên nghỉ ngơi, ăn uống cho đầy đủ, uống thêm vitamin cho khỏe hơn. Chị cười, không sao đâu, chị bình thường mà. Vài tháng sau, chị Bùi Bích Hà ngã quỵ và qua đời. Tôi vẫn băn khoăn là nếu chị tin vào kết quả đo sức khỏe hôm đó, chị chăm sóc sức khỏe kỹ hơn, không biết chị có phải ra đi vì cái ngã quỵ đột ngột ấy không? Thôi, âu cũng là số mệnh, là một điều tốt vì có khi ngay cái giây phút ấy, chị cũng không biết mình ra đi nữa. Chị chỉ biết là chị đang sữa soạn để gặp những người bạn cùng chí hướng với chị, đẹp.

 

Hôm tôi ghé thăm chị Trần Mộng Tú ở Seattle, chị Tú nhắn nhủ “về bảo chị Hà bớt việc lại đi, chị làm nhiều quá!” Tôi về, chuyển lời đến chị Hà thì chị chỉ cười “không làm buồn lắm Mỹ ơi”.

Quả chị Bùi Bích Hà làm nhiều thật. Chị làm đến giây phút cuối cùng của cuộc đời.

 

Tôi quen với nhà thơ Trần Mộng Tú lần đầu tiên khi chị đến dự buổi ra mắt quyển thơ “Yêu em, mùa xuân” của tôi. Hôm đó chị đến với chị Bùi Bích Hà, Trần Diệu Hằng, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Trương Gia Vy, Nguyễn thị Ngọc Nhung, Nguyễn Tường Quý, Nguyễn Mạnh Trinh, Vĩnh Quý và các anh trong tòa báo Người Việt cùng một số bạn hữu. Buổi ra mắt thơ ấm áp với những khuôn mặt thân quen và những lời chia xẻ thật tình. Nhà báo Nguyễn Tường Quý giới thiệu. Nhà giáo Lưu Trung Khảo nói lời nhận xét. Trần Diệu Hằng ngâm thơ có rủ chị Nguyễn thị Mai đàn tranh đến. Chị Trần Mộng Tú không ngâm mà chị đọc. Trước khi đọc chị Tú nói thơ Trịnh gia Mỹ cũng hiền như thơ của tôi làm nhiều người cười. Sau này, gia đình chị Tú chuyển lên Seattle mưa nhiều nhưng thơ mộng. Phía sau nhà chị nhìn ra bờ hồ, trên balcony ngồi nhìn ra hồ có giàn dây leo nở hoa màu tím dễ thương. Chị nấu bún riêu ngon. Khi tôi có dịp đến Seattle, thế nào chị cũng bảo tới đây, chị nấu cơm cho mà ăn.

Chị Trần Mộng Tú hiền lành, dễ thương. Chị có một gia đình êm đềm nên lúc nào chị cũng cười. Sau đám tang của chị Hà, chị nói “thôi bây giờ mình lo vén khéo Mỹ ơi, đừng có ôm đồm nhiều quá, cuộc đời không có dài”.

Quả cuộc đời không có dài. Nhớ mới hôm nào đây, nhà văn Bùi Bích Hà nói, khi chị đứng dựa lưng vào bờ tường của sở làm “chúng mình như những cây ổi bị mang trồng ở xứ lạnh đó Mỹ ơi. Nó cằn cỗi, èo uột, không thể nào đơm hoa kết trái được…”

Tôi muốn nối thêm câu nói của nhà văn Bùi Bích Hà là dẫu cho nó có èo uột, có cằn cỗi nhưng cùng sự phấn đấu với thời gian, nó cũng có thể cho ra những hoa và trái; dẫu không to, dẫu không ngon, nhưng vẫn là những hoa trái có được từ cây ổi nguyên sơ của thuở nào đó chị Hà.

 

Tôi tham gia hoạt động với nhóm Tạp chí Tuổi Ngọc tại hải ngoại vào giữa thập niên 80. Nhớ lúc đó Hồ văn Xuân Nhi là đầu tàu, với một số người trẻ vừa tốt nghiệp đại học, vừa đi làm nhưng lại băn khoăn với những hoài bảo lớn. Đó là nhà thơ Trần Hữu Hoàng, Nguyễn văn Hưng, Nguyễn Tất Nhiên, nhà văn Thụy Vy, Mai Hương, họa sĩ Nguyễn Việt, Luyện, bác sĩ Đinh Xuân Anh Tuấn, nhạc sĩ Việt Dũng, nhà báo Trần Quốc Bảo cùng những người rất trẻ muốn nối tiếp, muốn tạo cho tuổi trẻ hải ngoại con đường trở về cội nguồn, muốn nối dài “tuần báo của yêu thương” do Duyên Anh chủ trương trước đó.

Những buổi hội họp ở nhà Hồ Văn Xuân Nhi mang nhiều mong ước của những người trẻ cưu mang trong lòng nhiều trăn trở, vừa muốn giữ vững nền văn hóa Việt Nam nhưng vừa có đủ tự tin khi hội nhập vào đời sống mới ở nước ngoài. Hồ Văn Xuân Nhi tụ họp được nhiều cây viết trẻ ôm ấp nhiều hoài bảo và khả năng. Tuổi Ngọc Hải Ngoại in nhiều tuyển tập truyện ngắn văn, thơ. Trần Hữu Hoàng in tập thơ đầu tay “Em, đêm vẫn còn mê sảng” gây ấn tượng lớn đến những đàn anh, đàn chị đi trước. Rồi Tuổi Ngọc hải ngoại tổ chức rất thành công buổi nói chuyện cho nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn tại Cypress College. Tiếc là do hoàn cảnh nên sinh hoạt của Tạp Chí Tuổi Ngọc không được kéo dài hơn.

 

Nhớ vào khoảng năm 1991, tôi nhận được một bức thư viết tay của nhà văn Phan Tấn Hải qua đường bưu điện mời tham gia tạp chí Hợp Lưu. Thời gian đó tôi rất bận, nhưng thỉnh thoảng tôi và anh Hải có duyên cùng nhau làm những CD về Phật Giáo, hoặc có lần có duyên gom góp một số nhỏ giúp nhà văn TV khi chị gặp khó khăn trong cuộc sống. Thỉnh thoảng, tôi thích tham dự những buỗi triển lãm tranh. Có lần tôi đến xem tranh của Khánh Trường triển lãm tại Đại Học Cypress mà đa số khách xem tranh là người Mỹ. Khánh Trường ngạc nhiên lắm. Lâu lâu, computer bị trục trặc là Khánh Trường réo tôi, nó kiếm chuyện rồi bà ơi, thì tôi gởi người đến giúp Khánh Trường. Nhớ lần Khánh Trường không còn tiền để in Hợp Lưu, anh phone cho tôi “Xuống đây mua dùm tui bức tranh đi bà ơi”, tôi từ chối “nhà tui không có chỗ treo”, Khánh Trường nài nĩ “mua dùm tui đi, bà treo trong toilet cũng được”. Vậy là hết đường từ chối, tôi xuống. Khánh Trường bày những bức tranh sẵn sàng trong garage, bảo tôi chọn bức nào cũng được, đồng giá. Tôi chọn bức tranh nhỏ mà anh đã dùng để làm bìa cho tạp chí Hợp Lưu, số báo bao nhiêu tôi không nhớ. Sau này tôi có dịp tới lui với anh chị Khánh Trường nhiều hơn khi anh triển lãm ở Thiền Viện Sùng Nghiêm, ở Việt Báo hay ở Chùa Bảo Quang. Mặc dù ngồi xe lăn, nhưng Khánh Trường vẫn lạc quan, vẫn vui. Lần anh ở nhà thương về năm 2023, nhìn bức ảnh anh Phan Tấn Hải chụp, thấy Khánh Trường có vẻ rất yếu. Nhưng khi tụi tôi đến thăm, anh cười tỉnh bơ “làm sao tui chết được, tui phải sống tới 100 tuổi lận á” Lần đó hình như anh muốn ăn Beefsteak, tôi thấy Dũng đi mua mang về cho anh một phần rất là ngon. Đó là lần cuối tôi gặp anh cho đến lần cuối cùng vào thăm anh tại Bệnh Viện hai ngày trước khi anh mất.

 

Nhà báo Chữ Bá Anh cũng là người rất chịu khó khi ông gọi và nhờ tôi làm những bài phóng sự từ Cali, nhất là khi nhà báo Hoài Điệp Tử mất vào khoảng tháng 8 năm 1987. Ông Chữ Bá Anh gọi tôi ngày mấy lần để cập nhật tin tức. Lần đó tôi đã có một bài tường trình rất đầy đủ về cái chết của nhà báo Hoài Điệp Tử và nhận được một số tiền nhuận bút rất cao.

Nhà báo Chữ Bá Anh rất tự hào về những người con của Ông. Tôi nghe ông kể những người con của ông bà lúc ở Việt Nam đều là những người được Thầy Cô đề nghị đi thi Tú Tài trước tuổi quy định. Có người con út của ông từ nhỏ đã nói thành thạo 4 thứ tiếng. 15 tuổi đã được đề nghị đi thi Tú Tài. Tất cả các con của ông đều đi Mỹ du học năm 1971 và đều tài giỏi, thành đạt. Nhớ có lần nhà thơ Vi Khuê đến thăm tòa báo Người Việt, nhà báo Đỗ Ngọc Yến có mởi chị Bùi Bích Hà và tôi đến chơi. Hôm đó nhà thơ Vi Khuê mặc áo dài màu tím. Nhà báo Đỗ ngọc Yến có mua sẵn bó hoa muốn nhờ tôi trao cho nhà thơ Vi Khuê nhưng tôi mắc cỡ nên cuối cùng anh Đỗ Ngọc Yến là người trao bó hoa đến nhà thơ Vi Khuê và nói lời chào mừng.  Nhà thơ Vi Khuê đẹp là vợ của nhà báo Chữ Bác Anh, có vẻ đài các của người phụ nữ Huế. Đó là lần duy nhất tôi gặp bà.

 

Khoảng cuối thập niên 80, chị Kim Tước tổ chức đêm nhạc Tiếng Tơ Đồng tại một địa điểm hình như là một phòng trà nghe nhạc của người Nhật trên đường Harbor. Chỗ ấy rộng và đẹp mà giờ không còn nữa, nhưng đêm nhạc thì vẫn mãi còn lại trong lòng người đến nghe. Đêm đó có Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao. Đêm ấy tuyệt vời. Cả ba người bạn không cùng trang lứa nhưng cùng một niềm đam mê âm nhạc đã hát quên trời quên đất. Trên sân khấu, ba ca sỉ hát say sưa và ở bên dưới, khán giả cũng ngồi nghe say sưa. Phải tận mắt nhìn thấy ba chị Kim Tước, Mai Hương và Quỳnh Giao hát thì mới biết sự đam mê của họ về âm nhạc nó thiết tha đến chừng nào.

Chị Kim Tước cười rạng rỡ. Chị đúng là một người nghệ sỹ thật sự. Chị phóng khoáng, vô tư. Chị chỉ cần hát. Việc gì xảy ra chung quanh không cần biết. Chị tổ chức đêm nhạc đó, chỉ để được hát và chỉ để mời bạn bè đến nghe. Chị chẳng quan tâm đến việc bán vé. Tôi bày tỏ lo ngại là chị làm vậy thì khi nào mới có đêm nhạc khác nữa cho tụi em đến nghe. Chị chỉ cười. Sau này thỉnh thoảng chị có thêm vài CD, nói lắm, chị có ra mắt giới thiệu CD Sau Lũy Tre Xanh rồi thôi. Sau đó, những CD khác chị chỉ âm thầm làm nên ít người được biết.

Thỉnh thoảng gặp chị Kim Tước ở đâu đó tại Little Sài Gòn, tôi hỏi chị khi nào có đêm nhạc Tiếng Tơ Đồng, chị Kim Tước chỉ mỉm cười “hết tiền rồi”.

 

Chị Mai Hương thân thiện, gần gủi. Có quen chị, mới biết Mai Hương giản dị và chân tình. Giọng nói nhỏ nhẹ, cử chỉ ân cần làm cho người đối diện có cảm giác gần gũi, thân thiết. Với chị, gia đình là quan trọng hơn cả. Có hôm, chỉ tay vào cái hình bìa của một trong những CD của chị, Mai Hương cười bảo tôi “cái hình đó là anh Dục chụp cho chị ở đồi hồng trong nghĩa trang Rose Hills…” lúc đó, nhà anh chị ở thành phố Whittier. Rồi khi Tùng, con trai cả của chị ra trường, anh chị thưởng cho Tùng chiếc xe Toyota Supra mới, chị kể “chiếc xe đó tốt lắm Mỹ ơi, Tùng chở chị trên xe, đến đèn xanh chỉ đạp ga một cái nhẹ là nó vọt một cái vèo …” rồi chị cười, vui và hạnh phúc.

Mai Hương không làm ra vẻ là một người nổi tiếng, chị không mầu mè. Chưa bao giờ tôi nghe chị Mai Hương phàn nàn về một chuyện gì hay một người nào. Với chị, đời sống đơn giản, nhẹ nhàng và đầy đủ. Chị không coi vật chất là quan trọng nên lúc nào tôi thấy chị cũng hài lòng, cũng vui.

 

Hôm tang lễ của ca sĩ Quỳnh Giao, chị Mai Hương khóc nhiều hơn nói. Đối diện với sự chia tay một người bạn đã gắn bó với chị từ thuở trong ban thiếu nhi Tuổi Xanh không phải dễ, nhưng với thời gian rồi cũng phôi pha. Thời gian sau này, lại thêm sự ra đi của người em gái duy nhất của chị là chị Bạch Tuyết, tôi nghĩ có lẽ đó cũng là nguyên nhân cho sự hụt hẫng của chị. Tôi gọi phone thăm chị, vẫn giọng nói dịu dàng, vẫn những lời chân thật hỏi thăm, chị nói lâu quá, hôm nào hết dịch bệnh rồi chị rủ Chúc và Mỹ đi ăn cơm Thái.

 

Nhớ ngày 29 tháng 5 năm 2005, Mai Hương tổ chức 50 năm hát cho người ở tòa báo Người Việt, Chương trình bắt đầu bằng một bài hát của cố Nhạc Sỹ Phạm đình Chương: Bài Ca Tuổi Trẻ với toàn ban “Tuổi Xanh”. Những “Nhi Ðồng” của “Tuổi Xanh” ngày xưa lần lượt bước lên sân khấu trong những tiếng cười vang dội hội trường. Mọi người thoải mái nhìn nhau cười như là đã lâu lắm mới được cười với những người bạn “cũ” như thế. Những tiếng cười “hả hê” như bỗng dưng tìm lại được những bóng dáng mà lâu rồi mình tưởng đã lạc, đã mất. Những “Nhi Ðồng” Của Ban Tuổi Xanh nửa thế kỷ qua đã đem lại cho mọi người biết bao là kỷ niệm của quê nhà.Những người nghe Ban Tuổi Xanh ngồi trong hội trường hôm nay đầu đã lấm tấm hai thứ tóc. Những tiếng hát nhi đồng Tuổi Xanh bây giờ đã nhuộm dấu phong sương. Một khúc phim quay vội. Những hình ảnh hiện về. Tiếng hát và tâm tình quyện vào nhau, làm thành một chút gì đó vừa hân hoan, vừa ngậm ngùi.

Chưa bao giờ tôi thấy một buổi nhạc có tính cách gần gủi như thế, gia đình như thế. Người hát và người nghe đã nhập vào nhau, là một. Không còn khoảng cách. Không có biên giới. Không gian của hội trường Người Việt bỗng như vươn lên, dài ra, trãi rộng vô biên để ôm hết mọi người lại với nhau. Phòng họp Lê đình Ðiểu biến thành phòng họp gia đình với những đứa con xa về ngồi lại gần nhau. Thời gian tịch lặng, không còn gì ngoài những giai điệu của tiếng nhạc và lời ca...

 

Trẻ nhất trong Ban họp ca Tiếng Tơ Đồng là ca sĩ Quỳnh Giao. Chị Quỳnh Giao đọc nhiều, nhớ nhiều, kiến thức của chị rất rộng. Chị kể lúc trẻ chơi thân với chị Mai Hương. Khi chị Mai Hương sanh con đầu lòng là con trai, sau đó chị Quỳnh Giao sanh con đầu lòng là con gái, hai chị hứa sau này sẽ làm suôi với nhau. Nhưng đó chỉ là sự ước muốn của hai bà mẹ.

Thập niên 80, chị Quỳnh Giao tự mình thực hiện những băng cassette với tiếng hát của mình. Chị vừa đàn vừa hát để phổ biến trong vòng thân hữu. Chị đánh giá những người nghe chị hát có trình độ nên bất cứ bài hát nào chị cũng rất thận trọng.

Chị Quỳnh Giao viết nhiều. Chị cũng có nhiều hội thoại về những khuôn mặt chung quanh. Chị luôn có cái nhìn tích cực về người khác. Vấn đề gì chị đề cập đều cũng tới nơi tới chốn. Nói chuyện với chị, tôi học được rất nhiều điều. Quỳnh Giao là người cũng rất cẩn thận. Chị cẩn thận từng lời ăn tiếng nói, từng cách ăn mặc. Một hôm gặp chị trong lễ tang một người bạn chung. Thấy tôi nhìn cánh tay bó bột của chị, chị nói ngay “tuần trước chị ra vườn hái mấy bông hồng, vô tình trượt chân té, tôi cười, nói giỡn “tại cái tội mê hái hoa bắt bướm”. Quỳnh Giao nghiêm ngay nét mặt “chị hái hoa vào chưng phòng khách”.

Vậy đó mà người trẻ nhất trong tam ca Tiếng Tơ Đồng lại là người ra đi sớm nhất. Đám tang Quỳnh Giao, Mai Hương khóc thật nhiều.

 

Nhắc lại những mối tương giao đã qua để trân trọng nhưng gì mình đang có. Trong cuộc sống, những thân hữu có duyên gặp gỡ, những tình thân từ duyên lành được trao, đều là những bông hoa tươi thắm tô điểm cho cuộc đời chúng ta thêm màu sắc.

 

Còn rất nhiều những mối duyên mà trong cuộc đời không dài này tôi đã may mắn được hội ngộ. Thôi, đễ dành, đều là những mối duyên đẹp, nếu có dịp sẽ viết tiếp.

 

Cám ơn đời này đã cho ta rất nhiều tình sâu nghĩa nặng.

 

Trịnh Gia Mỹ

2025