TỰ DO CÙNG NGÔN NGỮ
50 Năm Văn Học Tiếng Việt Hải Ngoại 1975-2025

ký ảnh của Trang Hoàng

Trần Quí–Phiệt

Hành Trình Viết Hồi Ký Văn Chương

 

Tiến sĩ Trần Quí Phiệt sinh trưởng tại Huế, lớn lên ở Miền Nam Việt Nam và du học tại Hoa Kỵ Ông tốt nghiệp Tiến Sĩ Ph.D tại đại học University of Texas vào năm 1977.

Là giáo sư Văn Chương Anh Mỹ trong hơn ba mươi năm tại đại học Schreiner University, Kerrville, Texas .

Ông là anh ruột của nhà văn Trần Hoài Thư.

Sách bằng Anh Ngữ đã xuất bản:

William Faulkner and the French New Novelists, Arlington, Virginia: Carrollton Press, 1980.

Nguyen Huy Thiep. The General Retires and Other Stories. Studies in Short Fiction. Winter 1994.

Dan Rose. Patterns of American Culture: Ethnography and Estrangement. Journal of the American Studies Association of Texas. 21 (1990).

Huynh Sanh Thong. The Heritage of Vietnamese Poetry. Literature East & West. 1-4 (1981).

“In Search of Lost Time” A Literary Memoir by a Vietnamese American Scholar, Mandorla Books, 2024

 

 

Cuốn hồi ký viết bằng Anh ngữ của tôi nhan đề In Search of Lost Time: A Literry Memoir by a Vietnamese American Scholar [Đi tìm thời gian đã mất: Hồi ký văn chương của một học giả Mỹ gốc Việt] ra mắt độc giả vào tháng 12 năm 2024. Song song với bản Anh ngữ, ấn bản Việt ngữ cũng đã hoàn tất và sẽ được ấn hành một thời gian gần đây. Vì tôi dạy văn chương và phê bình văn học, tôi không có kinh nghiệm về viết văn sáng tạo. Nhưng vì thôi thúc phải viết một hồi ký như tôi quan niệm tôi phải trải qua giai đoạn dài học hỏi, suy nghiệm mới tìm ra được lối viết hồi ký như sẽ nói sau đây. Trước khi trình bày phương pháp viết hồi ký của tôi, tôi cần phải trình bày sơ lược về thể loại gọi là hồi ký rất được các nhà văn viết hồi ký sử dụng.

 

Hồi ký là gì? Theo định nghĩa, hồi ký là sự ghi chép những gì xảy ra trong cuộc sống của cá nhân tác giả. Những gì xảy ra có thể là kinh nghiệm cuộc đời của chính tác giả hay những gì tác giả thấy biết và muốn tường thuật lại. Khác với tiểu thuyết trong đó tác giả tạo dựng một nhân vật chính đóng vai trò kể chuyện, trong hồi ký tác giả là nhân vật chính đóng vai trò này.. Một thể loại tương tự như hồi ký là tự truyện vì cả hai nói về cuộc đời của tác giả. Tự truyện thuần túy nói về cuộc đời của chính tác giả. Tác giả tự truyện thường là những danh nhân muốn nói về thành công của mình trong đời. Vài thí dụ điễn hình về tự truyện ta có thể kể Tự truyện The Autobiography của doanh nhân vĩ đại thế kỷ 18 Benjamin Franklin của Mỹ. Ở Việt Nam trước 1975 có doanh nhân nổi tiếng Nguyễn Tấn Đời tác giả Hồi ký Nguyễn Tấn Đời.

 

Vì trọng tâm của hồi ký là ghi lại những sự kiện thực tiễn của một giai đoạn nào đó của cuộc đời, nên hồi ký khó có thể hấp dẫn như tiểu thuyết. Những người viết hồi ký trải qua một đời sống hết sức đặc biệt như một số các nhà văn phản kháng miền Bắc như Tô Hoài, Trần Đĩnh, các tù nhân cải tạo miền Nam hoặc các nhà văn lưu vong. Muốn hồi ký tương đối hấp dẫn, nhà văn không những tường thuật sự kiện mà phải phân tích, giải thích ý nghĩa của sự kiện. Đa số các hồi ký Việt Nam chỉ mô tả sự kiện, thiếu sự  phân tích ý nghĩa sự kiện nên không gây được sự chú ý của độc giả. Các nhà văn Tây phương khi viết hồi ký thường phân tích sự kiện. Edward Said trong tập hồi ký Out of Place [Không hợp thời] đã chuyển những sự kiện khô khan thành những áng văn đầy ý nghĩa bằng cách triển khai những suy nghĩ lý thú về những sự kiện khô khan ấy. Thí dụ ở cuối cuốn hồi ký khi nói về cơn hành hạ của ung thư sinh ra mất ngủ, Said bàn về sự hấp dẫn của mất ngủ. Said nhắc đến người mẹ tuy đầy tình thương đối với con cái nhưng nơi bà có một sự bi mật mãi đến lúc bà chết Said cũng không sao hiểu nổi. Said phân tích rặt ròi nhừng sự kiện ý nghĩa nhất. Viết hồi ký như vậy cũng như viết tiểu thuyết, sự kiện khô khan chứa đựng một thể tài (theme) quan trọng.

 

Trên đây là hai loại hồi ký phổ thông gần đây. Có một loại hồi ký kết hợp giữa bán tự truyện (semi-autobiography) và tiểu thuyết được gọi là hồi ký văn chương (literary memoir). Có nguồn gốc từ À la recherche du temps perdu  [Đi tìm thời gian đã mất]trường thiên tiểu thuyết (hay hồi ký) của Marcel Proust, thể loại văn học này gồm những tự truyện theo lối tiểu thuyết, lý thuyết văn học, phân tích tâm lý học. Giống như tiểu thuyết loại hồi ký này triển khai một đề tài văn chương (literary theme). Trong À la recherche của Proust đề tài văn chương ấy là đi tìm thời gian đã mất. Đề tài văn chương của cuốn hồi ký /tự truyện/ tiểu thuyết này rất đa dạng và phức tạp. Để tìm lại thời gian đã mất Proust xử dụng ký ức, trí tưởng tượng, kích thích giác quan (sensory stimluus) để khai quật cõi sâu thẳm của vô thức. Sau khi viết xong 4000 trang mới thấy thấp thoáng thời gian đã mất nên Proust cảm thấy như mới bắt đầu.

 

Ngoài tác phẩm À la recherche tôi chưa thấy một hồi ký văn chương nào viết như Proust như trình bày ở trên. Chưa có một hồi ký hay tiểu thuyết 4000 trang chỉ đề cập một đề tài. Out of Place của Said là một tự truyện viết theo dạng hồi ký đầy ắp những sự kiện với những ý tưởng, nhận định sắc sảo, nhưng khó tìm được một đề tài cố định như À la recherche, một hồi ký văn chương theo định nghĩa trên.

 

Hồi ký của tôi với tựa đề như tác phẩm của Proust là một hồi ký văn chương với một bố cục thu nhỏ của À la recherche. Phần còn lại của bài khảo luận này nhằm trình bày nguyên do và diễn tiến cuốn hồi ký văn chương Đi tìm thời gian đã mất của tôi.

 

Một tác phẩm văn chương trước khi thành hình đều có lý do và mục đích. Tôi muốn viết hồi ký vì tôi muốn, giống như Proust, tìm lại quá khứ  êm đềm nay không còn nữa sau khi Miền Nam bị mất. Với một mục đích như thế, tôi biết sẽ làm cái gì nhưng đạt được mục đích không phải dễ.

 

            Hồi ký cũng như tiểu thuyết phải khai thác những vùng thầm kín, sâu thẵm của tâm hồn, chứ  không phải chỉ mô tả các sự kiện bên ngoài. Các nhà văn bắt đầu phải đọc và nghiền ngẫm các tác phẩm của những nhà văn lớn của thế giới viết về những vấn đề này. Họ không phải là những nhà văn chuyên tả chân nhưng là những nhà văn mô tả những sâu thẳm của tâm hồn nơi quá khứ tồn tại không bao giờ mất. Theo kinh nghiệm của tôi, không phải tập trung vào cõi tiềm thức là tìm thấy quá khứ hoàn toàn, nhưng sự suy nghĩ về cõi sâu thẳm của tiềm thức khiến ta tư duy lâu hơn, có thể giúp ta cảm thấp thoáng bóng quá khứ. Chẳng hạn khi tôi đắm mình vào suy tư, tôi thấy nhớ rõ gia đình tôi hơn. Trước năm 1975 vì mơ tưởng viễn tượng tương lai tốt đẹp, tôi chỉ nghĩ thoáng qua về gia đình, nay đất nước tan hoang, gia đình thất lạc, tiềm thức bỗng sống dậy. Như Quentin trong The Sound and the Fury của nhà văn Faulkner tôi thấy quá khứ êm đềm của tôi hiện ra sắc nét hơn. Tiềm thức của tôi đưa tôi về quá khứ ấy khiến tôi tạm quên thực tại đau buồn để sống. Những giây phút tuyệt vời ấy Proust gọi là moments bienheureux (những khoảnh khắc tuyệt vời hạnh phúc) chứng tỏ quá khứ còn tồn tại mặc dù chỉ kéo dài trong giây lát. Cũng như Marcel, người kể chuyện của Proust, tôi đi tìm thời gian đã mất theo lối đó.

 

            Thả hồn vào giòng trôi của tiềm thức, quên hẳn lối sống thực tiễn, tâm hồn tôi như chiếc phong linh, chỉ một ngọn gió nhẹ thổi qua là rung động thành tiếng. Chỉ một ý nghĩ thoảng qua, chỉ chợt thấy một cái gi quen thuộc có thể làm bùng dậy cả triều tư tưởng, hoài niệm tràn ngập ý thức tôi. Thời gian đã mất như sống lại mãnh liệt trong tôi hơn bao giờ hết.

 

            Trong khi Proust liệt kê nhiều thứ có thể làm khơi dậy quá khứ, tôi chỉ thành công trong ba loại—nghe (âm thanh) thấy (hình ảnh) và xúc giác (touching). Trong khi hình ảnh chỉ khêu gợi những hình ảnh nhiều lúc không đủ mạnh mẽ để tồn tại lâu, âm thanh có sức khêu gợi mạnh mẽ lạ kỳ. Sau đây trích một đoạn từ chương “Đi tim thời đã mất” (III) trong sách tôi mô tả sức mạnh của âm thanh trong việc khôi phục quá khứ trở thành hiện tại:

Tôi  rảo  bước  về nhà trọ, thưởng thức những tiếng đập trên vai tôi của cơn mưa nhẹ và tiếng ồn của những giòng xe cộ ban đêm. Tiếng động kích thích một tổng hợp các thứ--âm thanh, cảm giác, tình cảm—cuồn cuộn trảo ra từ trong tôi, mơ hồ, lẫn lộn, mạnh mẽ, tràn đầy, khiến tôi khó thở, nhưng thanh khiết biết bao. Tôi cuốn theo tiếng động, quên mất đường về nhà trọ. Đây là quá khứ tôi tưởng như đã mất trước khi về quê nhà, một quá khứ làm bằng những âm thanh tôi đã nghe vào giờ này trong một buổi chiều muộn năm 1960 khi tôi thảnh thơi tản bộ trên con đường này.  Đây cũng là quá khứ đổ xuống người tôi khi tôi nghe tiếng trẻ con nô đùa vui vẻ ở sân trường trong xóm chị Thúy ngày hôm trước, hay khi tôi thức dậy bởi tiếng rao của người bán hàng trong đêm khuya tỉnh mịch. Trong tỉnh mịch tiếng ồn thú vị đó nằm im lìm trong tôi trong 40 năm qua nay sống lại, mang tôi trên đôi cánh của nó trở về quá khứ quen thuộc và thời gian bị lãng quên. Quá khứ thần tiên của tôi bỗng sống lại, hòa lẫn với hiện tại êm đềm, chận đứng hoàn toàn ý thức của tôi về những niềm đau khổ sau khi mất quê hương. Điều làm tôi thích thú—và cũng làm tôi khó hiểu—là thế giới vật chất nơi tôi đang sống và thế giới  nhớ lại/sáng tạo hòa lẫn với nhau thành một khiến tôi không thể phân biệt cái nào có thực và cái nào tưởng tượng. Cái hiện tại dường như bất biến ấy có phải có nghĩa rằng tôi đã tìm được thiên đường đã mất của tôi trong thời gian còn lại ở đây chăng?

             Đoạn trích dẫn vừa kể chứng tỏ sức mạnh kỳ diệu của âm thanh trong việc khêu gợi quá khứ. Âm thanh qua tiếng ve sầu, tiếng côn trùng, tiếng còi tàu hỏa, âm nhạc đầy ắp trong hồi ký của tôi. Âm thanh rất quan trọng trong tuổi thơ của tôi vì tuổi thơ của tôi dệt bằng âm thanh. Âm thanh cũng đầy ắp trong tiểu thuyết của Proust. Các nhà phê bình nhận định có một loại hồi ức gọi là echoic memory (hồi ức âm thanh). Âm thanh quan trọng đối với một kẻ lưu vong như tôi đã mất tất cả ở quê nhà, ngoại trừ tiếng vọng xa xăm của quá khứ.

 

            Proust đi tiên phong trong việc xử dụng kich thích giác quan khêu gợi sự sống dậy quá khứ. Thí dụ nổi tiếng nhất là lúc Marcel nếm mẫu bánh Madeleine và uống ngụm nước trà bỗng nhiên cả thời thơ ấu bùng dậy. Tôi không có kinh nghiệm về việc này khi viết hồi ký của tôi. Nhưng xúc giác (touching) đem đến cho tôi một cảm tưởng mạnh mẽ vê sự hồi phục của quá khứ của tôi bốn mươi năm trước. Một hôm đi trên một con đường ở Viện Đại Học Dalat chân tôi vấp phải một tảng đá gần vĩa hè bỗng nhiên tôi cảm thấy như đã bay bổng đến Cây Số Sáu, nơi tọa lạc nhà của tôi ngày xưa..

 

Sự phục hồi của quá khứ không những đem đến tôi những khoảnh khắc Proust gọi là moments bienheureux, mà còn khiến tôi có những suy nghĩ trừu tượng về các vấn đề liên quan tới cuộc đi tìm quá khứ như thời gian, hoài niệm, ám ảnh, và trò của văn chương, nghệ thuật.

 

Mặc dù bị ảnh hưởng mạnh mẽ của Proust, những đề tài khai triển trong sách tôi không giống như Proust. Vì con người đa dạng, nền văn chương diễn tả đời sống con người cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Vì thế, mặc dù đã viết cuốn tiểu thuyết đến 4000 trang, sau cùng Proust  cũng muốn viết lại từ đầu. Proust gây cho tôi cảm hứng và kỷ thuật viết về con người nhưng Marcel và nhân vật của tôi có tâm hồn khác nhau, sống trong những hoàn cảnh văn hóa, chính trị, lịch sử, địa lý khác nhau. Theo tôi nghĩ, nếu có một nhà văn nào đó cũng thao thức đi tìm quá khứ nhưng ở trong hoàn cảnh khác với tôi cũng có thể khai thác một đề tài như tôi và Proust.

 

Công dụng của văn chương là diễn tả thân phận con người và nhà văn lớn là nhà văn diễn tả trung thực thân phận con người. Nhưng tại sao một nhà văn vĩ dại như Proust muốn viết lại tác phẩm Thiên đường tìm lại? Bởi vì Proust thấy nói chưa hết hay trong lúc viết khám phá thêm nhiều điều mới lạ. Giống như Proust, khi viết về vấn đề thời gian và hoài niệm tôi cũng cảm thấy tôi vẫn chưa nói hết những gì muốn nói. Thân phận con người Việt Nam lưu vong cùng hệ quả của những biến cố lịch sử khủng khiếp không thể diễn tả đủ trong một tác phẩm nhỏ bé.

 

Bài viết trên đây chứng minh mục đích hồi ký không phải chỉ phục hồi các sự kiện như phim ảnh hay bút ký. Nếu sự kiện chỉ được phục hồi, quá khứ sẽ trở thành quá khứ vô hồn, một quá khứ chết. Muốn quá khứ được xây dựng  lại, các sự kiện cần phải được cắt nghĩa, giải thích (một sự việc trong quá khứ nhiều khi vô nghĩa nhưng khi nhớ lại mang một ý nghĩa lớn lao). Hồi ký, như vậy, đặt ra nhiều đề tài văn chương cũng như tiểu thuyết. Hồi ký cũng được sáng tác như tiểu thuyết.

 

Điểm quan trọng sau cùng của hồi ký tôi là đề tài đi tìm thời gian đã mất không giới hạn trong một cuộc đi tìm. Hai đề tài liên hệ mật thiết với sự đi tìm là thời gian và hồi ức là những vấn đề mênh mông không thể nói xong trong một kiếp người ngắn ngũi, hạn hẹp. Proust chỉ không khôi phục suông quá khứ mà đưa ra những lý thuyết về sự khôi phục quá khứ. Quá khứ một khi được khôi phục dầu ngắn ngủi cũng trở thành phức tạp, đầy hệ lụy như cuộc đời thật đang diễn ra. Những ám ảnh, say mê, vui sướng, giận hờn, ghen tị, đau khổ cả Marcel, người kể chuyện của Proust, và người kể chuyện của sách tôi vẫn xảy ra như ngoài đời thường.

 

            Những nhận định về hồi ký văn chương nói trên cho ta thấy hồi ký là một bộ môn văn chương vì bản chất của nó là văn chương, Hồi ký càng có giá trị văn chương khi tác giả là một nhà văn lưu vong. Theo Joseph Brodsky, một thi sĩ Nga lưu vong, khí cụ con người dùng sáng tác văn chương là ngôn ngữ. Nhưng không gì quan trọng bằng ngôn ngữ của quê nhà. Nhờ ngôn ngữ quê nhà có ý nghĩa và trở nên linh thiêng. Đối với các người sống lưu vong mất quê nhà, ngôn ngữ trở nên vô cùng quan trọng vì nhờ ngôn ngữ con người mới tìm lại được quê nhà. Hình ảnh quê nhà càng trở nên sắc bén vì nhà văn lưu vong xử dụng ngôn ngữ đến mức tối đa đến nỗi ngôn ngữ đồng nghĩa với quê nhà và thiêng liêng như quê nhà. Không có ngôn ngữ để chọn lọc, diễn tả, quê nhà chỉ là một đống hồi ức hỗn độn. Đó là lý do tại sao các nhà văn như Võ Phiến và Lê Tất Điều ngay sau khi rời Việt Nam không lâu đã bắt đầu viết tiếng mẹ, bắt đầu xử dụng ngôn ngữ và tâc phẩm đầu tiên viết chung của họ mang tên Ly hương. Đó cũng là lý do tại sao văn chương hải ngoại sau 50 năm mất miền Nam càng phát triển mạnh mẽ, với một số nhà văn lúc rời quê nhà ở tuổi niên thiếu hay sinh trưởng ở ngoài Việt Nam nhưng lòng yêu đất mẹ và khả năng sáng tác bằng tiếng mẹ điêu luyện đến mức chúng ta phải kinh ngạc.

 

Đề tài bài viết của tôi là hành trình viết hồi ký, trình bày phương pháp viết hồi ký văn chương. Suy nghĩ miên man đưa tôi đến ngôn ngữ và quê nhà. Sự kết hợp của ngôn ngữ và quê  nhà nhiều khi làm tôi như cảm thấy xuất thần khi sáng tác. Đã 50 năm rồi nhưng quê nhà vẫn như gắn chặt tâm hồn kẻ xa xứ như cuốn rốn chưa lìa.

 

Còn một điểm quan trọng nữa, hết sức cần thiết cho sự sáng tác của nhà văn là quyền tự do sáng tác (artistic freedom).

 

Tự do sáng tạo hay tự do nghệ thuật được định nghĩa là “tự do tưởng tượng, sáng tạo, hay truyền đạt tư tưởng, cảm nghĩ của mình không có sự kiểm duyệt của chế độ hay một thế lực văn hóa, chính trị, tôn giáo nào.” Chủ đề “Tự do cùng ngôn ngữ” do Gió-O đề xướng cho các nhà sáng tác lưu vong ở hải ngoại rất thích hợp với một người viết hồi ký lưu vong như tôi. Nếu tôi không sống ở đất nước này, tôi không thể nào viết nỗi cuốn hồi ký này. Viết văn và đặc biệt viết hồi ký là được tự do viết về niềm hạnh phúc hay nối đau khổ khôn nguôi của tác giả 

 

*Mandorla Books xuất bản năm 2024. Amazon phát hành sách và Kindle.

 

Trần Qui-Phiệt       

   2025

 

.