TỰ DO CÙNG NGÔN NGỮ
50 Năm Văn Học Tiếng Việt Hải Ngoại 1975-2025
ký ảnh của Nguyễn Thảo
Thế Dũng
Viết Cũng Là Trỗi Dậy
Không Ngừng Bất Chấp Mọi Đớn Đau
Thế Dũng sinh năm 1954 tại Hải Dương. Từng là lính lái xe trong quân đội nhân Việt Nam 1971 đến 1976. Tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn ĐHSP I Hà Nội ( khóa 1976-1980)
Bắt đầu in thơ, truyện, tiểu luận phê bình từ 1974…
Sinh sống tại Berlin từ 04 năm 1989.
Thế Dũng sinh hoạt văn chương khá sôi nổi và phong phú ở Hải Ngoại. Ông thuộc giới sáng tác ra đi và rời bỏ Miền Bắc vào đợt Cọng Sản tan rã ở Đông Âu vào năm 1989. Ông ở lại Đức và sau này về Hà Nội thường xuyên. Cõi viết của Thế Dũng biểu lộ con người được nuôi dưỡng trong thể chế Cọng Sản Miền Bắc từ khi Hồ Chí Minh du nhập nền Cọng Sản Quốc Tế về Miền Bắc Việt Nam . Sự ly khai Cọng Sản vào năm 1989 ở Đức của Thế Dũng chứng tỏ ông là nhà văn dám nghệ sĩ cuộc đời và cõi sáng tác của mình. Một hành động cô đơn và hiếm hoi đối với giới sáng tác Miền Bắc Cọng Sản Việt Nam. Nhưng chính vì vậy các nhà nghiên cứu văn học Tiếng Việt sau này khi nghiên cứu mảng văn học hải ngoại ở Âu Châu không thể nào không nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Thế Dũng như là một gia sản Cọng Sản Miền Bắc Việt Nam ly khai và hợp lưu lại Miền Bắc như thế nào. Vì Thế Dũng chính là một tiêu biểu tiền trường cho mảng văn học này.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Hoa Hồng Đến Muộn (Thơ, Hội VHNT Hải Hưng, 1992)
Người Phiêu Bạt (Thơ, NXB Hội nhà văn Việt Nam 1992)
Từ Tâm (Thơ-Trilce Berlin -1997)
Mùa Xuân dang dở ( Tập thơ-bản tiếng Đức do NXB Horlemann tại C.H.L.B. Đức in năm 2003)
Tự vấn ( Tập Thơ - bản tiếng Đức do Vipen & Trilce Editionen Berlin in năm 2003)
Lục Bát Lên Đồng ( Trường ca, NXB Lao Động, 2010 )
Thuở Kinh Dịch Lưu Vân Lạc Việt (Thơ, Vipen, 2024)
Tiếng người trong đá Giáp Sơn (Tiểu thuyết, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội 1993, NXB Lao Động, 2010),
Chuyện tình dở dang (Tiểu thuyết kịch- bản tiếng Việt do An Tiêm Studio in ở Mỹ năm 2000)
Chuyện tình dở dang ( Unvollendete Liebesgeschichte-Tiểu thuyết kịch-bản tiếng Đức do Trilce Editionen Berlin in ở Đức năm 2000)
Hộ Chiếu Buồn (Tiểu thuyết, Hội nhà văn Việt Nam 20032003),
Tình Cuội (Tiểu thuyết, Hội Nhà Văn -2006 2006),
Một Nửa Lá Số (Tiểu thuyết, Hội Nhà Văn -2006).
Gió Đi Dưới Trời (Tiểu luận và Đối thoại, Vipen Berlin-Đức Quốc, 2013)
Bên Giòng Sông Tình Sử ( Tùy bút -NXB Hội Nhà Văn -2006 )
Chuyện tình dở dang ( Unvollendete Liebesgeschichte-Tiểu thuyết kịch-bản tiếng Đức do Trilce Editionen Berlin in ở Đức năm 2000)
Chuyện tình dở dang (Tiểu thuyết kịch- bản tiếng Việt do An Tiêm Studio in ở Mỹ năm 2000)
Giấc Mộng Orly ( Tiểu thuyết-bản tiếng Đức của của Karin Enzanza và Nguyễn Đức Thắng -2010 )
Biên niên sử của Cách mạng ( dịch sách của Hannes Bahrmann & Chritoph Link)
Sống hay là bị sống (dịch sách của Christa wolf)
Những con bệnh khó chiều (dịch sách của Marcel Rech –Ranicki & Peter Vos…)
1. Mười tám tuổi vượt đèo thành Binh Nhất
Tháng 09 năm 1976, đang là trung sĩ lái xe của tiểu đoàn 743, trung đoàn 525 anh hùng tôi trở thành sinh viên năm thứ nhất của Khoa Văn Đại học Sư phạm I Hà Nội theo chế độ chuyển nghành. Bởi vì, trước khi nhập ngũ vào 01 tháng 12 năm 1971, tôi đã trúng tuyển vào Đại học này trong kỳ thi ngày 18.06.1971.
Yêu văn chương sách vở tập làm thơ từ khi 13,14 tuổi cho nên thân phận tôi luôn gắn bó với ngôn ngữ.
Từ tháng 04 năm 1972, đơn vị tôi đóng quân ở xã Hồng Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Từ đó chúng tôi chở quân khí, lương thực và bộ đội vào tuyến trong qua các tuyến đường thuộc hệ thống của Bộ tư lệnh 559.
Những bài thơ tôi viết từ cảm hứng cá nhân trong tư thế người lính ra đời trong không gian và thời gian của chiến trận. Tháng 09 năm 1973, tôi gặp gỡ nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, người đoạt giải nhất Thơ của báo Văn Nghệ 1972-1973 tại thị xã Đồng Hới. Vì lúc đó tôi ở trọ ngay cạnh nhà một người họ hàng của chị Mỹ Dạ ở Đồng Hới.
Lúc bấy giờ chị đang là Biên tập viên của Tạp chí Văn nghệ Quảng Bình, chị chuẩn bị ra Hà Nội tổ chức lễ cưới với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Thấy tôi biết và đã đọc gần như thuộc lòng bài thơ Đồng Hới của Xuân Hoàng và của Trần Nhật Thu…
Chị tươi cười bảo tôi, Thế Dũng có thơ thì gửi cho mình. Được lời, tôi trao tận tay chị một chùm bản thảo viết tay cùng địa chỉ hòm thư của mình rồi tạm biệt chị trở về đơn vịở Long Đại.
Cuối năm ấy, trung đoàn tôi đóng quân ở Nghi Trường - Nghệ An, chị Lâm Vỹ Dạ viết thư cho tôi báo Văn Nghệ Quảng Bình đã chọn in 2 bài thơ “ Ngọn lửa ở lại” và “ Nghĩ về Cát”của Thế Dũng. Tôi mừng hú vì lần đầu thơ mình được in.”
Tháng 2 năm 1974, sau khi đọc Giấy mời của Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình mời đích danh nhà thơ Thế Dũng tham dự Đại hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, Ban lãnh đạo Tiểu đoàn 743 đã đồng ý cho tôi tham gia sự kiện văn học này. Họ chưa hề đọc những bài thơ tôi viết nhưng họ biết tôi không chỉ hay đọc thơ hoặc đơn ca trong các buổi sinh hoạt văn nghệ mà còn có tập truyện “ Chân trời tím” tập thơ “Hoa Phong Lan” chép trên giấy học trò đóng thành 2 tập khổ A4, được anh em trong đại đội truyền tay nhau đọc nhưng lúc nghỉ ngơi, nên đã được anh em vinh danh là “nhà văn đại đội”.Giấy Mời của Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình đã làm cho các thủ trưởng của tôi nhìn tôi như một cây bút đã được thừa nhận và một tài năng cần được ưu ái. Cho nên, tôiđược phép, xuống xe tại Đồng Hới, anh em khác sẽ trả hàng giùm tôi. Khi họ trở ra cũng là lúc xong Đại hội và tôi lại theo xe đơn vị trở về Nghi Trường Nghệ An. Trong dịp Đại hội ấy, tôi được biết mặt nhà thơ Xuân Hoàng, nhà thơ Trần Nhật Thu, nhà thơ Hà Nhật, nhà thơ Hải Bằng, nhà thơ Nguyễn Văn Dinh. Không những thế tôi cũng biết mặt nhà văn Ma Văn Kháng từ Hà Nội, nhà thơ Anh Chi từ Thanh Hoá tới, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, chồng của chị Lâm Thị Mỹ Dạ.
Từ đó, tôi càng chăm đọc và làm thơ mỗi khi thích thú và có cảm hứng.Tôi bắt đầu viết Trường ca “ Con Đường Rung Chuyển khi cùng đơn vị bước vào chiến dịch. Cuối tháng 12 năm 1974, Trung đoàn tôi nhận nhiệm vụ đặc biệt. Ngoài quân tư trang tối thiểu thư từ, nhật ký riêng tư phải tự hủy không được mang theo. Chúng tôi đi đón Sư đoàn 316 ở đường 7, Nghệ An và hành quân theo mật lệnh từng ngày. Trên xe của tôi, là các quân nhân thuộc trung đoàn 148 của Sư 316. Quanh co hàng tháng, cuối cùngđầu tháng 03 năm 1975, chúng tôi đã đưa họ tới một cánh rừng thăm thẳm ở Đức Lập, thuộc Binh trạm XY. Khi được lệnh đưa xe trở lại hậu cứ, chúng tôi mới biết Sư Đoàn 316 chính là đơn vị đã đánh trận mở màn cho chiến dịch tại Buôn Mê Thuột.
Ngày 30.04.1975, khi Sài Gòn được giải phóng, tôi đang là bệnh nhân sốt rét mãn tính được điều trị tại bệnh xá Trung đoàn 525 tại Nghị Trường. Tranh thủ thời gian là bệnh nhân tôi tranh thủ làm thi sĩ. Kết quả là trường ca “ Con đường rung chuyển” đã được hoàn tất. Cuối năm 1975, tôi đã gửi bản thảo Trường ca này cho chị Lâm Thị Mỹ Dạ và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường.Khi ấy anh chị đang là biên tập viên của Tạp chí Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên do nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm chủ tịch Hội.
Khi tôi trở thành sinh viên năm thứ nhất tại Khoa Văn Đại học Sư phạm I Hà Nội, thì cũng là lúc 2 Chương của Trường ca đó xuất hiện ở hai ấn phẩm của HộiVăn Nghệ Bình Trị Thiên. Một, chương Cây Lá Đỏ, in trong tuyển tập thơ Hành Khúc Mới. Hai, chương “Những đứa con của Mặt Trời” in tại tạp chí tháng 12 năm 1976 của Hội VHNT Bình Trị Thiên.
Mặc dù phải báo trước với ban tổ chức là mình sẽ đọc bài thơ nào, đêm thơ của Khoa Văn Đại học Sư phạm I Hà Nội, tổ chức năm 1977 với tôi là một sự kiện quan trọng. Nhờ đó mà tôi gặp gỡ và làm quen với nhà thơ sinh viên Trần Hòa Bình, Vũ Bình Lục, Bùi Mạnh Nhị, Hoàng Nhuận Cầm và các thi sĩ như Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Bế Kiến Quốc...
Chùm thơ được đăng trên Văn nghệ Quảng Bình khi tôi mang quân hàm Binh Nhất ở tuổi 20 là sự kiện “lần đầu được in” trong nghiệp văn chương của tôi.
Có thể nói, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là người đã phát hiện và đưa thơ tôi hội nhập vào đời sống văn chương Việt từ trước năm 1975. Chuyện này cũng như nhiều chuyện các nữ nhân sau này xuất hiện trong các câu chuyện chữ nghĩa của đời tôi đều rất ứng nghiệm với việc Tử Vi của tôi có sao Thái Âm và sao Thiên Đồngcư Mệnh ở cung Tý.
2. Cởi trần mà bắn thôi. Trời xanh kia là áo !
Cú xốc tinh thần sau cuộc tấn công ngày 17 tháng 2 năm 1979 của Trung Cộng vào biên giới phía Bắc khiến tôi viết xong bài thơ Bạn Lính với những câu thơ hừng hực khí thế :
Nghe thác lửa Trường Sơn réo rắt gọi tên mình
Tiếc chỉ có một thời trai trẻ
Phù Đổng quá ôi những ngày đánh Mỹ
Mắt chúng mình ừng ực uống sông Ngân
Mắt chúng mình xanh ngắt nước Cửu Long
Càng giông bão sóng sông Hồng càng đỏ
Đã củ chuối gạo rang và nước lã
Đã yêu sông phải lên tận Kỳ Cùng
Kẻ hiểm độc đây rồi máu đỏ đất Tam Lung
Nó trắng trợn hiện nguyên hình tàn bạo
Cởi trần mà bắn thôi trời xanh kia là áo
Đã trả kiếm cho rùa vàng mà vẫn không xong
...
Anh Phạm Tiến Duật đọc, rồi khen, rồi ký vào bản thảo và bảo sẽ in ở báo Văn Nghệ số đầu tháng Tư. Tháng Tư năm 1979, không thấy Bạn Lính mọc mũi sủi tăm gì ở Văn ..Nghệ, tôi mới thấu hiểu cái tật hay quên bài hay hứa hão của anh Duật. Tháng 07 năm 1979, tôibèn mang bài thơ Bạn Línhvới tựa đề mới là „Đến bây giờ ta vẫn ở bên nhau“ tới Tạp chí văn Nghệ Quân Đội. Tôi gặp ngay được người biên tập trang thơcủa Tạp chí. Nhà thơ Thu Bồn vừa hút thuốc lá vừa đọc bản thảo bài thơngay tại hành lang nhà số 04 Lý Nam Đế. Đọc xong , anh bảo tôi, được lắm, thơ Thế Dũng có hơi thở Trường Ca, đây là một bài thơ tình của lính, sẽ in trong số tháng 10 vì số tháng 08 tháng 09 đã biên tập xong rồi. Lúc ấy, được một người nổi tiếng như Thu Bồn phán như vậy tôi mừng rơn.
Sau khi Đến bây giờ ta vẫn ở bên nhau xuất hiện ở Văn Nghệ Quân Đội tháng 10 năm 1979, tôi bắtđầu được nhiều người biết tới và có dịp quen biết thân thiết với nhiều văn thi sĩ ở Hà Nội như Thu Bồn, Nguyễn Thụy Kha, Vương Trọng, Anh Ngọc, Lê Lựu, Hồng Diệu.
Tháng 12 năm 1979, nhà thơ Vũ Quần Phương đã chọn bài Đến bây giờ ta vẫn ở bên nhau để nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm và đưa lên chương trình văn nghệ nhân ngày thành lập quân đội nhân dân cùng với thơ của Hoàng Nhuận Cầm, thơ của Nguyễn Duy, và bài thơ Chúng con chiến đấu cho người tổquốc Việt Nam ơi“ của nhà thơ Nam Hà.
Kể từ khi bài thơ ấy lên sóng của Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam tôi bắt đầu có tiếng tăm.Cuối năm 1979, tôi bắt đầu in tiểu luận phê bình trên Tạp chí Văn Nghệ Hải Hưng.Đầu năm 1980, viết xong bài thơ„Cổ Loa thành, bi tráng một thời vua“, tôi mang bản thảo tới gặp và trực tiếp trao gửi cho nhà thơ Vũ Quần Phương. Vài tháng sau, gặp lại, anh bảo, thật tiếc, bài thơ đã được Trần Đức đọc trên nền nhạc dương cầm của Hoàng Mãnh nhưng đến lúc phát thanh thì lại bị hoãn, tình hình với phương Bắc đang căng, vởNguyễn Trãi ở Đông Quan cũng đang bị ngừng công diễn, Thế Dũng, thông cảm nhận 20 đồng nhuận bútcủa Đài nhé. Tôi đành chỉ biết cảm ơn nhà thơ Vũ Quần Phương, mang nhuận bút về rủngười yêu đi ăn phở.
Năm 1982, „ Cổ Loa thành bi tráng một thời vua“ xuất hiện trên Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội.
Từ tháng 01 năm 1984, tôi không dạy Văn ở trường phổ thông trung học Đoàn Thượng nữa vì được Ủy ban nhân dân tỉnh điều động về công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Hải Hưng với tư cách là Trưởng ban Nghiên cứu -Lý Luận và Phê bình Văn Nghệ.
Từ đó, việc viết lách của tôi có vẻ chuyên nghiệp hơn, tôi có nhiều thời gian đi lại giao du với anh em văn nghệ sĩ ở Hà Nội hơn. Ngoài việc biên tập bài vở cho tạp chí ra hàng quý, tôi có nhiều thời gian để sáng tác hơn khi làm ông giáo dạy Văn.
Tháng 11 năm 1984, tình cờtôi có mặt ở Hà Nội, trong cuộc rượu với nhà thơNguyễn Sĩ Đại, biên tập viên trang văn nghệ của Báo Nhân DâncùngHoàng Nhuận Cầm tại căn hộ nhỏở18 Hàng Bún. Sau khi nghe Nguyễn Sĩ Đại than thở “Tôi rất cần một bài thơ nói về sự kiện nữ Thủ tướng Indira Gandi bịám sát cho trang thơ của báo Nhân Dân số tới mà chưa chọn được bài nào hai ông có không ?”. Thấy vậy, tôi liền trao ngay cho nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại bài thơ mới viết bởi sự kiện đó đã kích hoạt tôi lặng lẽ viết xong từ mấy hôm trước, Nguyễn Sĩ Đại đọc xong liền cầm bài thơ của tôi đạp xe về ngay 71 Hàng Trống. Sáng hôm sau, Nguyễn Sĩ Đại quay lại 18 Hàng Bún hớn hở nói với tôi và Cầm ngay khi nâng cốc rượuđầu ngày „ may quá, tôi hoàn thành nhiện vụ quan trọng rồi, tổng biên tập đã chọn bài „ Viết trong ngày Indirra Gangdi từ trần“ của Thế Dũng, hai bài khác của hai cây đa cây đề đều bị loại“. Tôi và Cầm tò mò hỏi của ai ? Đại bảo, một của Phan Xuân Hạt, một của Phạm Tiến Duật. Hình như đó là lần đầu tiên thơ tôi xuất hiện trên báo Nhân Dân một cách rất thời sự.
Năm 1984, kịch bản “Giã biệt trong ngày thường” kết quả của quãng đời làm thầy giáo dạy Văn của tôi được Giải thưởng của Sở Văn hóa Thông tin Hải Hưng và năm 1985, tôi vừa hoàn thành kịch dài về Lãn Ồng mang tựa đề “ Có một ông Lười và ba chàng trai” vừa viết xong truyện vừa “ Quyết định lúc nửa đêm” để góp mặt trong tuyện tập văn xuôi nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Công An Nhân Dân ( 1945-1985).
Không những thế năm 1984 tôi còn có thơ dự thi in ở Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Tháng 12 năm 1985, cùng với nhà văn Đỗ Thị Hiền Hòa và nhà văn Thùy Dươngtôi là đại biểu của Hội Văn Nghệ Hải Hưng tham gia Hội nghị Nhà văn trẻ toàn quốc. Tại Hội nghị này, tôi có dịp làm quen với các tên tuổi như Văn Cao, Trần Quóc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Trọng Tạo, Ý Nhi, Thùy Linh, Nguyễn Thị Thu Huệ và chứng kiến sự ra đi của nhà thơ Xuân Diệu trong tư thế khiêng linh cữu của ông cùng với 5 nhà thơ trẻ khác Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Đình Chiến, Đặng Vương Hưng, Bùi Việt Phong, Châu Hồng Thủy
Năm 1986, ngoài việc tham dự lớp đào tạo nghiệp vụ Nghiên cứu Lý luận và phê bình văn nghệ do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức tại trụ sở của Hội ở 65 Nguyễn Du Hà Nội tôi đã tranh thủ thời gian hoàn thành truyện ký “ Đi tìm giấy báo tử” dựng lại chân dung một chiến sĩ tình báo, khiến cho gia đình anh Lê Quang Ánh thoát khỏi tiếng xấu là con cháu của một tên phản độngtừng làm việc ở Phòng Nhì của thực dân Pháp ( thực ra ông Lê Quang Khải bố anh Ánhlà tình báo của ta được cài vào) . Truyện ký này, mãi tới 02 năm 1990 mới được in ở Văn Nghệ Quân Đội ( lúc đó tôi đã ở Berlin).
Dạo ấy, sau cuộc gặp gỡ với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh giới cầm bút Việt Nam hay tự vấn về sự tự cởi tróivà các lãnh đạo hay bàn về tinh thần lấy dân làm gốc. Tôi vốn thích viết gì thì cứ viết hết cỡ cái nào không in được thì bỏ đó, câu nào bị cắt đi thì im. Chỉ bị trói vàkhông tự trói mình bao giờ nên dạo ấytôi không có nhu cầu tự cởi trói.
Vì theo học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Nghiên cứu -Lý luận và Phê bình Văn Nghệ nên tôi thường xuyên qua lại trụ sở Hội nhà văn ở 65 Nguyễn Du. Một hôm tình cờ, nhìn thấy tôi, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú hỏi, Thế Dũng có thơ mới không ? mình đang cần bài cho Tạp chí Tác Phẩm Văn Học số 2.
Được lời như cởi tấm lòng, tôi rút ngay trong túi Thổ cẩm của mình bản thảo thơ mới nhất trao cho chị. Chị đọc luôn và vui vẻ phán, thơ hơi bị nhiều rượu nhưng dùng được luôn. Lúc đó chị là Thư ký Tòa soạn, Nguyễn Đình Thi là Tổng biên tập Tạp chí Tác phẩm Văn học, cho nên tôi mừng lắm. Thế là bài thơ “ Ở phía sâu cửa sổ “ của tôi đã gây ấn tượng ngay trong lần xuất hiện đầu tiên. Nhà nghiên cứu lý luận phê bình Hà Minh Đức, nhìn thấy tôi và Hoàng Nhuận Cầm bèn nói đùa, bạn của Hoàng Nhuận Cầm hỗn thật đấy, chưa chi đã nhảy vào mâm các cụ ngồi. Tôi chưa hiểu ra sao thì Cầm bảo, Tác Phẩm Văn họcvừa ra được 2 số, toàn các tên tuổi cây đa cây đề như Thâm Tâm, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng…v…v… thì mày đã góp mặt trong số thứ2 chẳng phải là nhảy vào mâm các cụ rồi sao ?
Năm 1987, nhân dịp kỷ niệm một năm ra đời Tác Phẩm Văn Học, Tổng biên tập Nguyễn Đình Thi đã chọn bài thơ „ Ở phía sâu cửa sổ“ của tôi để diễn ngâm trong một chương trình Truyền hình. Nhận được giấy mời của Tạp chí, tôi lóc cóc theo ô tô khách từ Hải Dương lên 65 Nguyễn Du trực tiếp đọcbài Ở Phiá Sâu Cửa Sổ dưới ống kính Đài truyền hình Việt Nam. Sự kiện này, làm tôi phấn chấn và trở nên nổi tiếng vì khán giả truyền hình vốn rất đông đảo chẳng kém gì thính giả truyền thanh.
Mùa hè năm 1987, tôi được mời tham gia trại sáng tác kịch bản điện ảnh cùng với các Nhà văn kiêm Biên kịch: Nguyễn Anh Dũng, Bành Mai Phương, Trịnh Thanh Nhã, Hoàng Nhuận Cầm do Bộ văn hóa đầu tư và Xí nghiệp phim truyên Việt Nam giao cho nhà văn kiêm biên kịch Lê Phương phụ trách. Sau 40 ngày, tôi hoàn thành kịch bản phim “ Chuyện Tình Trong Chiêm Bao”.Sau khi nghiệm thu, tôi được lĩnh tiền bồi dưỡng cho trại viên nhưng kịch bản điệnảnhnày không được đưa vào kế hoạch làm phim vì trong cách nhìn thế sự kịch bản có những quan điểm nhạy cảm mặc dù nhà văn kiêm biên kịch Lê Phương rất đồng tình.
Cuối năm 1987, tôi viết xong bài “ Tưởng nhớ Olga Bergol”, năm 1988 tôi viết xong “Ly thứ 9 mắt em buồn biết mấy”, “ Hoa phương đỏ Café đen và Rượu, trường ca “ Nơi tôi khóc cũng là nơi tôi hát” và tiểu thuyết “Tiếng Người trong đá Giáp Sơn”.Nhưng không nơi nào chịu in.
Có thể nói, trước và sau năm 1975, cho tới khi rời Hà Nộigiữa các biến cố thời thế, tôi luôn luôn viết theo cảm hứng tự do của mình. Albert Camus thường nói, con người luôn là một cái bóng của các thiết chế. Khi còn ở trong nước, tôi thường viết tự do tùy hứng tới bếntheo tinh thần “ Cởi trần mà bắn thôi . Trời xanh kia là áo / Đã trả kiếm cho Rùa Vàng mà vẫn không xong”; cho nên câu chữ của tôi hay bị cắt gọt bởi kiểm duyệt. Dường như tôi chưa hề tự trói mình cho nên cũng không có tâm thức tự cởi trói. Nhưng cũng không tránh được cảm giác u buồn và bất lực.
“Không sợ xấu không sợ già không sợ bị bỏ rơi/
Chỉ sợ phải bó tay trước những điều có thể“. Và đôi lúc nhận ra mình đang
là kẻ lưu vong ngay trên quê hương:
Ngựa ngơ ngác phố người đi đâu ?
Phố ngổn ngang người đời vẫn vắng
Tôi thành xứ lạ trong vùng cấm ?
Võ ngựa gõ hồn thơ lưu vong...
( Vô Đề- Thế Dũng 1985)
3. Ta mở cho nhau cửa tới vô cùng
Vô Đề
Tôi xuất khẩu nửa đời tôi sang Đức
Hợp tác với Mặt Trăng hay hợp tác với Mặt Trời
Mồ hôi vui vỡ bảy mầu trong ánh sáng
Mồ hôi buồn ngũ sắc mắt xa xôi
04.1989
Đó là bài tứ tuyệt đầu tiên tôi viết khi ngồi uống Bier cạnh tháp đồng hồ quốc tế ở Quảng trường Alexxander Platz –Đông Berlin.
Ngày 12.04.1989, tôi tới Đông Berlin lúc đã 36 tuổi âm lịch và bắt đầu cuộc sống mới ở Đức tới bâygiờ. Trong số 25 kg hành lý được mang theo, quần áo tư trang chỉ là tối thiểu, phần lớn là những cuốn sách công cụ nghiên cứu được lựa chọn vànhững bản thảo đã xong và còn có thể sửa sang.
Tính đến năm 2025 thì tôi đã có 36 năm sống ở Đức, 36 năm góp mặt vào dòng chảy văn chương Việt ở hải ngoại. Nếu kể từ 1975 đến nay thì trước khi sang tới Đông Berlin như một lao nô tự nguyện thì tôi đã có 14 năm tự do sống cùng ngôn ngữ ngay trên quê hương mình.
Cần phải ghi nhận rằng, trước khi rời Hà Nội tới Berlin, trong thời gian 1975 tới 04.1989, qua các kênh giao lưu „sách cấm“ sau năm 1975, tôi đã có dịp đọcmột số tác giả văn chương Miền Nam, văn chương hải ngoại ví dụ như về khảo cứu: Mười khuôn mặt văn nghệ của Tạ Tỵ, Con đường sáng tạo của Nguyễn Hữu Hiệu, tùy bútThương nhớ mười hai, Món ngon Hà nội của Vũ Bằng, Đêm đêm nghe tiếng đại bác của Nhã Ca, Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng, về dịch thuật như: Đầu xanh tuổi trẻ, Người chồng muôn thủa của Dostoievski do Mặc Đỗ dịch., Một thời để sống, một thời để chết của M.E. Rermarque; Chào nhé Buồn ơi ! của F.X. Sagan, Người xa lạ và diễn văn nhận giải Nobel 1957 của Albert Camus, Văn chương là gì của Jean-Paul Sartre...
Thiết nghĩ, việc bằng cách nào đó mà đã đọc được bài thơ “Nếu tôi chết hãy đem tôi ra biển“ của Du Tử Lê hay những câu thơ của Cao Tần như:
“Bồ bịch hết chẳng đứa nào là Ngụy.
Chiến thắng quang vinh thất bại cũng anh hùng”
Ngay ven hồ Hoàn Kiếm và tìm cách ghé thăm bằngđược nhà thơ Hoàng Cầm ở 40 Lý Quốc Sư khi biết tin ông vừa mới ra tù dạo những năm 80 của thế kỷ trước cũngđã chứng tỏ tâm linh tôi không những không tự trói mình mà còn luôn luôn âm thầm một khát vọng tự do sống trong những vùng ngôn ngữ đa phương.
Nếu như người ta thường nói văn chương Việt Nam hải ngoại là sự nối dài của văn học miền Nam Việt Nam, của những nghiệp văn khởi sự từ Sài Gòn, của những nhà văn ra đi từ Công viên Tao Đàn thì sự hội nhập của tôi với văn chương Việt Nam ở hải ngoại lại là sự nối dài của văn chương miền Bắc, của những nghiệp văn khởi sự từ Hà Nội, của những nhà văn ra đi từ Hồ Gươm.
Ấp ủ từ 1990, tới tháng Tư năm 1991, với sự ủng hộ của các bạn Đức, tôi cùng : Tiến sĩ Trương Hồng Quang, và các Luật gia kiêm dịch giả Nguyễn Văn Hương, Nguyễn Trọng Cử, Lê Duy Trung, Đào Minh Quang, thi sĩ Phạm Kỳ Đăng, Nguyễn Tiến Hùng đã sáng lập và cho ra mắt Tạp chí Đối Thoại. Tạp chí văn hóa xã hội Đức-Việt này ra được tới số thứ 4 thì phải đình bản từ năm 1993 vì không còn nguồn lực tài chính. Nhóm sáng lập và Ban biên tập Đối thoại, đều ra đi từ Hồ Gươm, mỗi người đều có một công việc riêng để tự mưu sinh.
Trong quá trình tham gia làm tạp chí Đối Thoại, tôi quen biết và kết bạn với nhà văn Ngô Nguyên Dũng từ năm 1991. Nhờ mối giao lưu với Ngô Nguyên Nguyên Dũng và các tác phẩm của anh, tôi đã viết bài thơ dài: “Ta mở cho nhau cửa tới vô cùng “ với một tinh thần tự nhận thức bản thân trong những không gian và thời gian thế sự đau đớn:
“ Đời thủa ấy thịt xương sao lãng mạn
Cứ hân hoan làm thằng lính đi đầu ?
Chỉ vì cuộc dối lừa nhau ý hệ
Một bầu trời chia cắt mấy đời đau
Đời thủa nhà ai ngông cuồng quá thể
Mang quê hương làm chợ thử súng gươm !
Hồn thi sĩ thành mấy vùng chiến thuật
Xác thi nhân chia mấy nẻo chiến trường”
…
Thanh Minh ấy tôi kịp về Tảo Mộ
Nguồi đi tìm hài cốt dọc Trường Sơn ?
Mẹ vẫn khóc ! – Chín tầng đời sụt lở
Dân tộc mình trả giá để Cô đơn ?
Vâng, Người ạ: chỉ còn dăm năm nữa…
Thế kỷ này lừa lọc đến thế thôi !
Tôi mong ước giữa Thanh Thiên Bạch Nhật
Những cuộc thoát y thành thật của Hồn Người
…
Hồn vô thủy vô chung truyền nhau lửa
Mặc khôn ngoan đóng mở thật khôn lường
Mặc đôi lúc U Minh hờn sập cửa
Để mù lòa gào xé mãi tang thương !
Cứ mềm yếu hồn nhiên như nước chảy
Cứ trần truồng mãnh liệt yêu thương !
Người cũng thế ? – Cũng khỏa thân Bạch Lộ…
TA MỞ CHO NHAU CỬA TỚI VÔ CÙNG !
Berlin 12.05.1992
Dần dà tôi trở thành cộng tác viên của Tạp chí Cánh Én của Phạm Hoàng- Đỗ Quyên, tạp chí Độc Lập của Ngô Nguyên Dũng ở Dormund, tạp chí Diễn Đàn của Hà Dương Tường-Nguyễn Ngọc Giao ởParis, Tạp chí Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa ở Canada , tạp chíThế kỷ 21 của LêĐìnhĐiểu –Phạm Phú Minh, Tạp chí Hợp Lưu của Khánh Trường, Tạp chí Văn học của Nguyễn Mộng Giác-Nguyễn Xuân Hoàng, Tại Chí Thơ của Khế Yêm ở Mỹ. Con chữ của tôi, tiếng nói tâm tình của tôi tung tăng phiêu du tới những nơi cóđời sống văn chương Việt ngữ theo cung cách của bầy chim gọi đàn.
Từ 01 tháng 08 năm 1994, do được em Trần Phương Lan người cùng nhóm sáng lập Đối Thoại giới thiệu với các bạn Đức, tôi bắt đầu có hợp đồng làm việc tại “Kultur ist Plural e.V“ ở Franfurter Allee 225 Berlin-Lichtenberg. Bằng Tốt nghiệp Khoa văn Đại học Sư phạm I Hà Nội của tôi không phải là bằng do nướcĐức cấp nhưng đã được Thành phố Berlin thẩm định qua bản dịch tiếng Đức cho nên tại đây, tôi đã được hưởng mức lương cầm tay của một nhân viên có học vấn Đại học là 2100 DM /1 tháng. Với tôi đó là một bước tiến quan trọng vì trước đó, dù đi làm trong nhà máy Phanh Berlin hay trên Toa xe tôi thường chỉ được hưởngmức lương dành cho người không được đào tạo gì( chỉ được 700 hoặc 800 DM / 1 tháng)
Từ không gian của Hiệp hội Đa văn Hóa, tôi có thêm nhiều thời gian để viết và nhiều cơ hội giao lưu để có thể sống tự do hơn cùng ngôn ngữ.
Vừa xuất hiện đăng bài ở hải ngoại lại vừa ra sách ở trong nước, tháng 11 năm 1994, tôi gặp gỡ nhà thơ Viên Linh Chủ tịch Văn bút Việt Nam hải ngoạivà dịch giả Lê Trọng Phương dẫn đầu đoàn nhà văn Việt Nam hải ngoại nhân dịp tham dựthành công Hội nghị Văn bút Quốc tế tại Praha-Tiệp Khắc ghé thăm Berlin. Trong buổi gặp gỡ đó, tôi được nhà thơ Viên Linh kiêm chủ tọa chương trình mời lên đọc thơ. Tôi đã đọc „ Tự Vấn“, bài thơ tôi mới viết tháng 08 năm 1993.Đó là một hạnh ngộ, bởi hôm ấy, tôi có được các tập thơ nổi tiếng của Viên Linh, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Sĩ Tế, Mai Vi Phúc, Tô Thùy Yên và có mối giao kết với Lê Trọng Phương, Trưởng ban Dịch thuật của Văn bút Việt nam Hải ngoại. Và sau đó không chỉ Lê Trọng Phương ở Bonn mà cả Viên Linh ở Califolia đều trở nên thân thiết với tôi trong những giao lưu giao cảm bútmực chân tình.
Ban đầu, thông qua sự kết nối của Lê Trọng Phương, tôi tham gia thành lập Trung tâm Văn bútĐông Bắc Âu châu trong tư cách Ủy viên ban chấp hành.
Lúc đótôi có ba tác phẩm đã thành sách: Hoa hồng Đến Muộn ( Tập thơ Hội VHNT Hải Hưng xuất bản 1990): Người Phiêu Bạt ( Tập thơ NXB Hội nhà văn xuất bản 1992) và Tiếng Người Trong Đá Giáp Sơn ( Tiểu thuyết lịch sử-NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội -1993). Từ năm 1995, tôi trở thành Hội viên Hội Văn bút Việt Nam hải ngoại.
Năm 1993, qua sự kết nối của nữ nhà văn Katharina Schaefer, sau khi đọc 15 trang A4 tiểu thuyết kịch „ Chuyện tình dở dang“ của tôi qua bản dịch tiếng Đức của nhà văn Ngô Nguyên Dũng và 3 bài thơ của tôi qua bản dịch của Katharina Schaefer , Ban giám khảo gồm 7 nhà văn củaNGL e.V ( Neue Gesellschaft fuer Literatur Berlin ) đã trao tặng tôi 4000 DM, để hoàn tất bản dịch tác phẩm được chuyển thể từ kịch bản điệnảnh mà tôi đã hoàn tất từ mùa hè 1987 tại Hà Nội. Cùng năm đó, tôi gia nhập Hiệp hội NGL (Văn chương xã hội mới) tại Berlin.
Ngày 20 tháng 01 năm 1996, đêm thơ song ngữ - Việt –Đức „Trước cổng thành Brandenburger „ của tôi đã thành công tại Hiệp hộiĐa Văn Hóa với 6 bản dịch sang Đức ngữ của Lê Trọng Phương. Sau đêm thơ song ngữ này, tôi có thêm khá nhiều các bạn văn chương ngườiĐức và người nước ngoàiđang sống tại Berlin.
Đầu năm 1996, tôi trở thành cộng tác viên của Tạp chí Khởi Hành do nhà thơ Viên Linh làm Chủ biên-nhà văn Nguyễn Tà Cúc làm Thư ký Tòa soạn.
Sau đó, đầu tháng 04 năm 1996, tôi đã cùng Lê Trọng Phương và Mai Vi Phúc đã tới Paris tham dự hội nghị thành lập Trung tâm Văn bút Việt Nam hải ngoại tại Châu Âu. Tôi nhớ dịp đó, chúng tôi có ghé thăm gia đình nhà thơĐỗ Bình và tôi biết thêm nhiều tên tuổi như Đặng Văn Nhâm, Vũ Lan Phương, Thụy Khanh, Hồ Trường An, Huỳnh Tâm.
Đầu tháng năm 1996, tôi và Lê TrọngPhương tổ chức thành lập Trung tâm Văn Bút Đông Âu tại Hiệp hộiĐa Văn Hóa tại Berlin –Lichtenberg với một Ban chấp hành lâm thời,quy tụ các cây bút ra đi từ Hồ Gươm như Nguyễn Đức Việt, Nguyên Thế Việt, Nguyễn Chính Nghi, Đỗ Quang Nghĩa. Lê Minh Hà, Lê Văn Điểm...v..v...
Tháng 6 năm 1996, Trung tâm văn BútĐông Âu trực thuộc văn bút Việt Nam hải ngoạiđược thành lập tại Bonn. Tôi được bầu làm Chủ tịch – nhà văn dịch giả Lê Trọng Phương làm Tổng thư ký nhiệm lỳ 1996-1998. Sau đó chúng tôi làm được tạp chí Gió Đông, được vài số thì hết hơi và phải đình bản.
Cũng trong thời gian 1996-1998, tôi đã tham gia sinh hoạt với nhóm PoeElefan và Hiệp hội Tricle của các nhà văn Mỹ la tinh tại Berlin do Tiến sĩ Sử học Peter Knost làm Chủ tịch. Thời kỳ này các bạn Đức và Peru đã dịch thơ tôi ra tiếng Tâybannha. Có thi sĩ người London tới Berlin sinh sống đã dịch thơ tôi sang tiếng Anh. Do đó tôi đã tham gia vàđồng tổ chức nhiều sinh hoạt văn chương, tại Berlin. Ởđó tôi đọc thơ tôi bằng tiếng Việt, các bạn Đứcđọc thơ tôi qua tiếng Đức vàtiếng Tây Ban Nha.
Tháng 07 năm 1997, Tricle Edition xuất bản tập thơ Từ Tâm.
Trước ngày 03.10.1990, nước Đức có Trung tâm Văn Bút CHDC Đức và Trung Tâm Văn Bút CHLB Đức. Tới năm 1998, hai trung tâm này mới thống nhất lại thành một Trung Tâm Văn Bút CHLB Đức.
Tháng 10 năm 1998, tôi có dịp gặp gỡ nhà văn Vũ Thư Hiên tại Paris, sau đó cuộc trò chuyện mang tựa đề „ Bông hồng vàng và cái cùm sắt „ giữa tôi và anh Hiên ra đời, sau đó đã được đăng trên nhiều mặt báo.
Từ năm 2001, tôi trở thành Hội viên hội Văn bút CHLB Đức và thỉnh thoảng tôi có cơ hội trở về Hà Nội thăm gia đình, bạn bè văn chương và đồng đội năm xưa.
Năm 2003 nhà xuất bản Hội nhà văn tại Hà Nội ấn hành tiểu thuyết Hộ chiếu buồn của tôi. Đồng thời tiểu thuyết Hộ chiếu buồn và tiểu thuyết kịch Chuyện tình dở dang của tôi cũng được nhà xuất bản An Tiêm ấn hành trong năm 2003 tại Mỹ với sự trình bầy bìa của nhà thơ Viên Linh.
Năm 2003, Tricle Edition tại Berlin xuất bản tập Fragen an sich selbst (tập thơ-Tự vấn), và NXB Horlemann xuất bản Unvollendete Frühling ( Mùa xuân dang dở-tập thơ do Lê Trọng Phương và một số dịch giả chuyển ngữ từ tiếng Việt sang tiếng Đức), từ đó ngoài Lê Trọng Phương, tôi kết nối thường xuyên kết nối với nữ dịch giả Karin Enzanza và với Horlemann Verlag qua nữ nhà văn Beate Horlemann.
Năm 2005, NXB Hội nhà văn Việt Nam xuất bản tuyển tập Từ Tâm.
Năm 2006, tiểu thuyết Tình Cuội được xuất bởi NXB Hội nhà văn.
Năm 2009, NXB Hội nhà văn tại Hà Nội xuất bản tiểu thuyết Một nửa lá số.
Năm 2010, Horlemann Verlag đã xuất bản ấn bản tiếng Đức của tiểu thuyết Hộ chiếu buồn đã được xuất bản bởi Horlemann Verlag do sự chuyển ngữ của Karin Enzanza & Nguyễn Đức Thắng với tựa đềGiấc Mộng Orly. Năm 2011, Horlemann Verlag xuất bản tập thơ Cơn bão đêm qua chưa phải cuối cùng do sự chuyển ngữ của Karin Enzanza
Tôi luôn luôn viết trong những mối liên hệ với thời gian và không gian sống cụ thể của mình cho nên viết với tôi luôn giống như tự mở cho mình những cánh cửa. Do Thiên la Địa võng của thể chếở Hà Nội không bao giờ ngưng kiểm soát những công dân đang phiêu bạt ở xứ người, cho nên viết với tôi luôn đồng nghĩa với việc thường xuyên phải vượt qua sự sợ hãi dù đang sống ở Đức. Vì thế viết với tôi cũng đồng nghĩa với việc ta mở cho nhau cửa tới vô cùng.
4.Gió đi dưới Trời, bỗng dưng hồi ức.
Theo Bát Tự Hà Lạc thì đời tôi luôn gắn bó với 2 Quẻ Dịch : Sơn Lôi Di và Thiên Phong Cấu. Bằng hồi tưởng, tôi đã chiêm nghiệm thành thơ:
…
51
Thiên Phong Cấu là Càn trên Tốn dưới
Là Gió bay dưới Trời phiêu lãng phiêu lưu
Là nhân dịp tha hương mà gặp bạn
Ngộ nhân duyên cơ hội nên Người…
( Thủa Kinh Dịch lưu Vân Tay Lạc Việt-Thế Dũng)
o
Năm 2010, tôi và Tiến sĩ Peter Knost cùng nhau sáng lập Buchverrlag Vipen. www.vipen.de. Chúng tôi thay nhau làm giám đốc và luôn cùng nhau điều hành Vipen. Tôi hy vọng có thể thích gì thì tự xuất bản tùy theo sức của mình. Để sống tự do cùng ngôn ngữ, Vipen đã phát hiện và tìm thấy các tác giả nhưChristaWolf, Markur Wolf, Đỗ Trường, Trần Thanh Cảnh, Hoàng Minh Tường, Wolgang Brenner, các dịch giả như Thiên Trường, Nguyễn Gia Thưởng, Bùi Viết, Stefanie Billeter, Dominique Swamberk, Ngụy Hữu Tâm...v..v...Tính đến 30.04.2025, Vipen của chúng tôi cũng chỉ xuất bản được không quá 25 đầu sách.
Không chỉ cộng tác với báo giấy từ những năm đầu của thế kỷ 21, tôi bắt đầu có bài đăng trên một số tờ báo mạng của người Việt như: Talawas ở Đức, Đàn Chim Việt ở Balan, Người bạn đường ở Nga, www.gio-o.com ở Mỹ và một vài báo mạng ở trong nước. Năm 2013, qua một kỳ sát hạch ngôn ngữ và văn hóa tôi trở thành công dân CHLB Đức.
Nhân dịp Gio-o.com kỷ niệm 10 năm 2001-2011, nhà văn chủ biên Lê Thị Huệ có phỏng vấn tôi một bài dài. Khi in thành sách trong tập Gió Đi Dưới Trời( Vipen 2013) có tựa đề là Gió Đi Dưới Trời Bỗng Dưng Có Thể. Trong đó có một một câu hỏi dài nhưng có sức cật vấn sâu sắc khiến tôi nhận ra bản thân mình.
Lê Thị Huệ: Câu này hơi đặc biệt. Vì sự lặp lại của nó. Tôi đã đặt câu hỏi với nhà văn Hồ Đình Nghiêm, một nhà văn gốc Huế, sau 1975 đã vượt biển – hay còn gọi là vượt biên và tỵ nạn chính trị tại Canada. Thế Dũng là nhà văn gốc Hải Dương sang lao động ở Đông Đức, vì biến cố bức tường Bá Linh Cộng Sản sụp đổ mà ở lại Berlin . Tư thế của anh là nhà văn ra đi từ miền Bắc; khác với nhà văn Hồ Đình Nghiêm ra đi từ miền Nam, sau chiến tranh Nam-Bắc Quốc Cộng 1954-1975. Một gặp gỡ thú vị là cả hai cùng đang trưng bầy các sáng tác trên Gió –O vào thời điểmwww.gio-o.com kỷ niệm lên Mười 2001-2011.
Tôi thích gọi tôi là “ Nhà văn Hải ngoại”, vì sự ra đời của từ này gắn liền với tư thế từi chối chủ nghiã Cộng Sản của những người tỵ nạn chính trị ra khỏi Việt Nam từ năm 1975. Và vì thế từ đó mới có từ”Nhà Văn Hải Ngoại”. Tôi yêu kỷ niệm với sự chào đời này, nên thích nhận mình là “ Nhà Văn Hải Ngoại”hơn là “ Nhà Văn Lưu Vong” ( người ta có thể Lưu Vong ở ngay chính trên quê hương của họ); hoặc là “Nhà Văn Di Dân”. Từ Nhà Văn Di Dân nghe không hách xì đằng, không mang một thái độ chính trị mãnh liệt, gấu như Nhà Văn Hải Ngoại. Trongcái mớ bùng xùng tôi vừa kể, anh gọi tên anh là gì ?
Thế Dũng:
Khi chưa rời Việt Nam, với tôi, danh xưng ‘Nhà văn hải ngoại” gắn liền với các khái niệm lao khổ và can đảm vì tôi đã đọc được khá nhiều nhà văn miền Nam qua tủ sách tham khảo ở Thư viện Quân đội. Sau khi tới Berlin , tôi đọc thêm nhiều nữa, tôi thấy danh xưng nhà văn hải ngoại chỉ thuần túy là một cách khu biệt đất sống của người cầm bút. Tôi cũng không thích được hoặc bị gọi là “Nhà Văn Lưu Vong” mặc dù từ những năm 80 của thế kỷ trước , khi chưa rời Việt Nam, tôi đã thấy tôi là kẻ lưu vong ngay trên quê hương. Dù ở đâu và bao giờ thì lưu vong cũng là một nỗi đau. Tôi cũng không thích dược hoặc bị gọi là Nhà Văn Di Dân hoặc Nhà Văn Di Cư mặc dù với thân phận nhà văn thì di cư chính là một định mệnh mà hạnh phúc hình như lại là sự an cư. Lúc ngoài hai mươi, bố tôi đã từng là Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Khi mười tám tuổi, tôi đã từng ao ước trở thành Đảng viên và luôn luôn là đối tượng cảm tình Đảng. Thế rồi, “chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Tôi thấy mình bị vỡ mộng. Thế rồi chợt một chiều tôi thấy mình tan hoang trước các thần tượng sụp đổ ngổn ngang và chợt bị mê hoặc với hiện sinh và huyền học. Trước khi nhắm mắt vào tháng Chạp năm Bính Dần (1986), bố tôi rất buồn khi tôi an ủi ông. Bố yên tâm đi, không trở thành Đảng viên con vẫn có thể làm người tử tế. Lúc đó tôi đã nhận ra mình chỉ có thể sống cuộc đời của một kẻ không Đảng phái. Bạn bè của tôi, nhiều người là Đảng viên, thậm chí có người nghiện Đảng viên như nghiện thuốc phiện, như nghiện một thời trang và cũng có nhiều người không ưa Cộng sản. Tôi thích được liên minh với sự tử tế và minh triết ở tất cả ; dù người ấy là Cộng sản hay không. Tôi không có duyên với các Đảng phái vì con người tựi do cá nhân bất kham trong tôi không ưa sự áp chế và ràng buộc nào ngoài sự ràng buộc và áp chế của tự nhiên. Tôi thán phục tinh thần Tam Giáo Đồng nguyên trong m,ấy đời thịnh trị nhất của nhà Trần. May mà sớm biết ngưỡng mộ lý thuyết về sự tương đối giữa cáctrường thống nhất trong vx trụ của Albert Einstein và sớm bị mê hoặc bởi sự biến hóa khôn lường của Kinh Dịch; cho nên dù lăn lóc giữa cuồng phong thời thế tôi vẫn luôn luôn tự biết tu thân dưỡng tính để tự tái tạo phận mình. Tôi cũng thuộc vào loại được (hoặc bị) gọi là “ Nhà Văn Hải Ngoại” vì đã có hộ khẩu ở Berlin từ hơn hai mươi năm nay. Tự nguyện tới Đông Đức theo một hợp đồng xuất khẩu lao động năm năm giữa hai nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự xuất ngoại của tôi không có gì hiển hách. Không tới nước Đức trong tư thế từ chối chủ nghĩa Cộng sản của những người tỵ nạn chính trị ra khỏi Việt Nam năm 1975, không ở lại nước Đức theo quy chế tỵ nạn chính trị, nên tôi không có tự cảm gì về cái gọi gọi là “mãnh liệt” hoặc “gấu” trong danh xưng “Nhà văn Hải ngoại “. Tháng 05 năm 1990, tôi đã từ chối sự bồi thường 3000DM và vé hồi hương của CHDC Đức để trước hết ở lại nước cho đủ 5 năm (1989-1994) cái hợp đồng đã bị phá vỡ vì sự sụp đổ của Đông Âu.
Sau đó, tôi đã tận dụng quy chế về Quyền được ở lại của những người Việt Nam đã tới Đông Đức theo hợp đồng xuất khẩu lao động để ở lại CHLB Đức theo Luật dành cho Ngoại kiều. Do đó, tôi không có hoài cảm gì để thích thú khi được gọi ( hoặc khi ự gọi mình) là Nhà văn Hải ngoại với tư thế từ chối chủ nghĩa Cộng sản một các hiên ngang. Trong hồi ức, tôi vẫn có rất nhiều hình ảnh người Cộng sản tử tế tài ba. Dù đau đớn, tôi vẫn thường xuyên phải giã biệt chính mình. Năm 1980, luận văn tốt nghiệp Đại học Sư phạm I Hà Nội với nhan đề:Hình tượng bà Bauvary và sự vỡ mộng của văn chương Pháp trong thế kỷ 19 của tôi được cô giáo Thái Thu Lan cho điểm 9/10. Không có khả năng đảo chính sự tồi tệ của chính mình thì không thể trở thành một người khác tử tế hơn. Không thể tự lật đổ sự kém cỏi của bản thân mình thì tôi không thể trở thành tôi đích thực.
Ngẫm lại, hoá ra trong nhiều năm nay,trong tâm thế vỡ mộng, tôi đã lặng lẽ cách xa với chính quyền ở Hà Nội. Sự biệt ly này thoạt tiên giống hệt như sự kết thúc tự nguyện của một cuộc tình đầu không có giấy giá thú với lý do tính tình không hợp. Sau đó là sự biệt ly điềm nhiên trong thái độ từ chối một sản phẩm tinh thần đã quá hạn sử dụng. Với tôi, sự từ chối chủ thuyết này để tiếp nhận một chủ thuyết khác luôn luôn là sự phát triển nội tại tất yếu cuả một bản thể thường xuyên hoài nghi để khám phá. Vì thế, tôi rất trân trọng niềm hứng thú với danh xưng Nhà văn Hải ngoại trong tâm thế hoài cảm của bạn. Còn tôi, trong tâm thế vị lai, tôi chỉ thích tự gọi mình là nhà văn Việt Nam. Nhưng bỗng nhiên có ai đó gọi tôi là Nhà văn Hải ngoại hay Nhà văn Lưu vong hoặc Nhà văn di cư tôi thấy cũng không sao.
Tôi muốn nhắc lại câu hỏi của chị Lê Thị Huệ và lời đáp của tôi trong bài phỏng vấn “ Gió đi dưới Trời bỗng dưng có thể…” là để tự nhìn lại 50 năm tự do cùng ngôn ngữ của đời mình.Vậy là Gió đi dưới Trời bỗng dưng hồi ức ? Mới đây, tôi lại viết về Gió khi nhìn lại cuộc tha hương dằng dặc của đời mình:
…54
Những nụ hôn không quốc tịch giao hồn
Người tình nào cũng có một căn cước
Sống như Gió dưới Trời nên phát khóc
Khi chợt thấy mình tóc trắng như mây
( Trích Thủa Kinh Dịch lưu Vân Tay Lạc Việt- Thế Dũng)
Có lẽ Lê Thị Huệ cũng là một trong rất nhiều tên tuổi Đức hoặc Việt từng là biến thể của Sao Thái Âm từng là quý nhân phù trợ trong lá số Tử Vi văn chương của Thế Dũng?
5. Viết là luôn không ngừng trỗi dậy bất chấp mọi đớn đau.
Năm ấy (2011) nhà văn Lê Thị Huệ còn hỏi tôi một câu rất khó quên.
Lê Thị Huệ:
Sống đa phương viết đa loại như Thế Dũng , cũng là người hơi bị hiếm. Đời sống thật và thế giới sáng tác, hỏi bạn thế giới nào mạnh hơn vậy?
Thế Dũng:
Với tôi đời sống thật luôn luôn mạnh hơn. Luôn luôn là sức mạnh sinh thành ra thế giới sáng tác. Thật tuyệt vời nếu được sống như mình muốn và như mình thích. Muốn gì thì gì, trước hết vẫn cứi phải sống thật hết mình, thật đã đời. Dù thành hay bại cũng cứ phải sống cho tới bờ tới bến. Hạnh phúc hay bất hạnh thì vẫn cứ sống một cách điềm nhiên và mãnh liệt. Chưa yêu chưa sống hết mình thì đừng vội lo những hoa hồng tan nát có thành thơ hay không ? Sống cái đã. Sau đó mới là sự sống lại một lần nữa bằng ngòi bút phục hiện chân tướng sự thật. Thế giới sáng tác có lẽ chính là sự phục sinh của đời sống thật. Kẻ dám sống có thể không muốn viết hoặc không thèm viết. Những ai không dám sống thì…chắc là sẽ không dám viết.
Nhìn lại thế giới sáng tác của mình sau 50 năm tự do cùng ngôn ngữ, nhớ lại những năm chưa rời nước, trong nhiều lần tranh luận với người bạn vong niên về tự do sáng tác, về tinh thần tự cởi trói của văn nghệ sĩ lúc đó, tôi hay diễn giải rằng tôi luôn luôn viết hết chữ hết nghĩa mà tôi muốn chứ tôi không tự trói tôi bao giờ. Nhưng anh bạn vong niên của tôi , một nhà báo từng học Đạo diễn sân khấu, một người rất mê Kim Định và thương xuyên đau đớn vì anh luôn nghĩ rằng Kinh Dịch vốn là của người Việt nhưng đã bị người Trung Hoa chiếm đoạt, chỉ cười nhạt mà nói rằng. “ Các cậu chỉ nói phét, một khi đã ăn lương của người ta, đã nhận bổng lộc của người ta thì các cậu viết kiểu gì cũng sẽ phải theo ý của người ta. Làm gì có tự do sáng tác. Làm gì có nhà văn ?Chỉ có văn nô, bút nô thôi…”.
Tôi chán chẳng buồn cãi; mà cũng không cãi được, vì tôi nhớ lại những câu, những những đoạn văn của mình hoặc của đồng nghiệp khác mà tôi đã duyệt nhưng lại bị Tổng biên tập gạch bỏ không thương tiếc. Lúc đó tôi đang hưởng lương để làm công tác biên tập và viết lách với tư cách Trưởng ban Lý luận -Nghiên cứu và Phê bình Văn nghệ Của Hội Văn học Nghệ thuật Hải Hưng.
Từ khi tới nước Đức ( 12.04.1989), tự đi làm để có lương tự nuôi bản thân và nuôi các con chữ của mình thì các con chữ của tôi mới có một đời sống tự do. Dù có vất vả gian truân hơn nhiều so với những năm được hưởng lương để chuyên làm công tác biên tập và viết lách khi còn ở trong nước; nhưng tôi luôn tự cảm thấy an vui hạnh phúc khi thấy ngòi bút của mình luôn tự do.
Giờ đây nhìn lại đời sống bút mực của mình từ thời điểm 30.04.2025 ngược lại 50 năm về trước (30.04.1975), tôi có quá nhiều nỗi ngậm ngùi. Nhiều nhà văn nhà thơ thân quen của tôi đã ra đi. Ở trong nước thì có thể kể ra những tên tuổi như Thu Bồn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Nhuận Cầm, Đà Linh, Nguyễn Thụy Kha đều đã qua đời. Ở Đan Mạch thì nhà văn Đặng Văn Nhâm, ở Pháp thì nhà văn Hồ Trường An đã mất. Nhà thơDu Tử Lê, nhà thơ Viên Linh thì đã qua đời ở Mỹ.Nhiều người đã có duyên đưa con chữ của tôi vào dòng văn chương hải ngoại như nhà văn Lê Đình Điểu chủ biên Tạp chí Thế kỷ 21, nhà văn kiêm họa sĩ Khánh Trường, chủ biên Tạp chí Hợp Lưu, nhà văn Nguyễn Mộng Giác, chủ biên Tạp chí Văn học ở Mỹ cũng đã ra đi.
Gần đây, tình cờ đọc trên Fachbook, thấy nhà văn Ngô Nguyên Dũng đang ở Sài Gòn, tôi rất vui và gửi tới anh ấy lời chúc mừng đã trở lại quê hương vì khi chúng tôi quen nhau vào năm 1990-1991 thì việc trở lại Sài Gòn với anh ấy chỉ là một ước ao. Anh ấy nhắn lại rằng, tôi đã về lại Sài Gòn từ nhiều năm nay rồi, tôi lại càng vui hơn.
Dù hưởng lương hưu của nước Đức từ năm 2021 nhưng tôi thấy mình chưa bao giờvề hưu trong cuộc sống tự do với các con chữ. Vipen của tôi vẫn ra được sách dù mỗi năm chỉ xuất bản được 1 cuốn hoặc 2 cuốn . Năm 2024, Vipen đã xuất bản được 2 cuốn: Những người đàn bà của Berltolt Brecht của Hiltrud Haentzschel và tuyển tập thơ Thủa Kinh Dịch lưu Vân tay Lạc Việt ( Thơ Thế Dũng).
Nhiều năm nay, tôi thích sống khép kín, không ham giao du thù tạc, cũng không có hứng cộng tác viết bài với các báo chí ở trong cũng như ở ngoài nước mà chỉ cố gắng tranh thủ thời gian để đọc các nhà văn trẻ và viết nốt những điều còn dở dang. Gần đây các tác phẩm của nhà văn Đặng Thân (1964), củaĐỗ Hoàng Diệu ( 1976) của nhà văn Người Buôn Gió (1972), của nhà văn Nguyễn Phúc Lộc Thành (1964), của thi sĩ Thái Hoàng Duy (1977) , của hai nữ văn sĩ tuổi Bính Dần là Linh Lê (1986) và Hà Thủy Nguyên (1986) ở Hà Nội, và tiểu thuyết Trống Đồng của Phong Nguyên, nhà văn Mỹ gốc Việt đã khiến tôi trở thành một nhà văn quèn biết lạc quan trong khâm phục và kính trọng sự tự do thông thái của những cây bút hậu sinh.
Gần đây, tôi nghiệm ra đã đành nhà văn nào cũng là chiếc bóng của cái thể chế đang dung dưỡng nó;nhưng biên độ tự do cùng ngôn ngữ của nhà văn phụ thuộc vào bản lĩnh và nội lực văn hóa của từng cây bút cụ thể chứ không chỉ phụ thuộc cây bút ấy có hộ khẩu hoặc quốc tịchở quốc gia nào.
Giờ đây tôi vẫn tranh thủ thời gian để viết nốt,viết cho bằng xong bộ tiểu thuyết dài 6 tập đã được khởi sự từ nhiều năm nay. Dự định là năm 70 tuổi sẽ xong; năm nay đã sang tuổi 72 mà vẫn chưa kết thúc được; nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc, vẫn vừa viết nốt tiểu thuyết và vừa làm thơ khi có thể. Nghĩa là sẽ không có hưu trí. Nghĩa là vẫn không nguôi ngẫm nghĩ về thân phận của con chữ, con người:
“72
Dù ở Đông Âu Tây Âu hay Bắc Mỹ
Vòng Vỹ -Kinh xác thực cuộc giang hồ
Vẫn biết sinh ra không phải để lang bạt
Cứ mỉm cười trong từng chuyến du cư
73
Tự diễn biến nhiều khi như bất biến
Dịch nhân hành náo nức những biên cương
Thể chế khác sinh thành nhân phẩm khác
Người Việt phiêu lưu muôn nẻo đời thường
74
Vọng Nhân Đạo Dịch Kinh như Linh Thể
Gốc Việt di cư hào kiệt gọi bầy
Tinh hoa Việt tàng thân nhiều Quốc tịch
Linh lực hóa thành Ngàn Mắt Ngàn Tay
( Trích Thủa Kinh Dịch lưu Vân Tay Lạc Việt-Thơ Thế Dũng 2024)
Có đêm đang ngủ ở Hà Nội đang buồn vì lâu rồi không gặp lại nhà văn Lê Trọng Phương, tôi lại mơ thấy mình gặp gỡ nâng cốc với Viên Linh trên đê Nghi Tàm. Có lẽ vì trước khi nhắm mắt xuôi tay, sau gần 70 năm rời xa Hà Nội và ngót 50 năm rời khỏi Sài Gòn, Viên Linh chưa một lần trở lại được quê hương ? Những câu thơ thương nhớ ngày mai của anh vẫn làm tôi khắc khoải :
Sinh ở đâu mà dạt bốn phương ?
Trăm con cười nói tiếng trăm dòng
Mai sau nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung. »
( Trăm dòng-tr.38-Thủy Mộ Quan-Thơ Viên Linh)
Bỗng dưng, tôi nhận được lời mời của nhà văn Lê Thị Huệ nhân dịp 50 năm văn chương hải ngoại.Nghĩa là chị Lê Thị Huệ vẫn trao cho tôi danh xưng “Nhà văn hải ngoại“, cái danh xưng mà nhiều năm trước, chị đã cho là rất “hách xì đằng“.
Điều thú vị là ngày 24 tháng 01 năm 2024, trong bài phát biểu tại VGU Bình Dương, tổng thống CHLB Đức Franke Walter Steimeier (1956), một người tôi chưa từng được quen biết cũng đã không chỉ công khai thừa nhận tư thế nhà văn hải ngoại của Thế Dũng mà còn trích dẫn tôi rất “oách”.
Ông nói:” Thế Dũng, một nhà thơ Việt Nam ở Berlin đã rất có lý khi viết về phương châm sống của đất nước quý vị như sau:” Sống là luôn trỗi dậy không ngừng bất chấp mọi đớn đau”.Tôi hoàn toàn đồng ý với nhà thơ về điều đó. Tôi đã đến đây một vài lần và nghĩ rằng, mọi người có thể chứng kiến đất nước này luôn luôn trỗi dậy”. ( VGU-Bình Dương 24.01.2024-Franke Walter Steinmeier).
Nhìn lại 50 năm trỗi dậy không ngừng bất chấp mọiđớnđau để sống sót mà tự do cùng ngôn ngữ của đời mình, tôi có thể nói rằng. Viết cũng là luôn trỗi dậy không ngừng bất chấp mọi đớn đau.
Viết có nghĩa là sinh thành cùng tận
Là không ngừng trỗi dậy dẫu đớn đau
Là đối diện Mùa Xuân và nước mắt
Có nghĩa là thương nhớ tới Mai sau.
Cảm ơn nhà văn Lê Thị Huệ và Gio-o.com
Thế Dũng
02.06.2025