TỰ DO CÙNG NGÔN NGỮ
50
Năm Văn Học Tiếng Việt Hải Ngoại
1975-2025
kư ảnh của Trang Hoàng
Phan Tấn Hải
Hạnh Phúc Là Đang Sống Với Chữ
Phan Tấn Hải
sinh ngày 22-2-1952 tại Sài G̣n. Tốt nghiệp ban Triết
đại học Văn Khoa Sài G̣n trước 1975. Thường
kư tên Phan Tấn Hải (tên khai sinh), Nguyên Giác (Pháp danh). Viết
nhiều thể loại, cho nhiều báo. Phan Tấn Hải
được bạn bè văn giới quư trọng như là một thiền
thơ. Bản tính thẩm đẫm triết lư nhà Phật, đời
sống và cách viết của Phan Tấn Hải là
gương lành khiêm cung về một người trí thức
đọc, hiểu, sống như một Phật Tử
Vào Đời tận tụy phục vụ tha nhân như một
cách xiển dương Phật Pháp giữa đời
thường. Mấy mươi năm sống ở Quạn
Cam, California, Phan Tấn Hải là cây viết chính bao sân cho
tờ báo lớn Việt Báo mà chủ biên chủ nhiệm
là hai vợ chồng nhà thơ Trần Dạ Từ và nhà
văn Nhă Ca.
Tác giả, dịch giả một số sách Việt ngữ
sau đây:
– Cậu Bé và Hoa Mai (tập truyện, Nhân Văn 1986).
- Thiếu Nữ Trong Ngôi Nhà Bệnh (tập truyện, AVF,
2017).
- Một Nơi Gọi Là Việt Nam (thơ, 1987) .
- Ba Thiền Sư – Tác giả: John Stevens, Nguyên Giác dịch
Việt.
- Chú Giải Về Phowa – Tác giả: Chagdud Khadro, Nguyên Giác dịch
Việt.
– Lời Dạy Tâm Yếu Về Đại Thủ Ấn.
- Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ.
- Thiền Tập – biên dịch.
- Tuyển tập thơ nhạc Hoa Bay Khắp Trời (nhạc
sĩ Trần Chí Phúc phổ nhạc). 2015.
- Thiền Tâp Trong Đời Thường. 2017.
- Thiền Tông Qua Bờ Kia. 2017.
- Thiền Tông Bất Lập Văn Tự. 2017.
- Kinh Nhật Tụng Sơ Thời. 2018.
- Kinh Pháp Cú Tây Tạng. 2019.
- Viết từ phương xa. Truyện, bút kư. 2019.
- Khoảnh khắc chiêm bao. Truyện, bút kư. 2019.
- Để Ngộ Tông Chỉ Phật. 2020.
- Từ Huyền Thoại Tới Tâm Kinh. 2021.
- Thiền Tông Cửa Không. 2024.
Sách song ngữ Việt-Anh:
- Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters.
- Teachings and Poetry of the Vietnamese Zen Master Tue Trung Thuong Si
(1230-1291)
- Tran Nhan Tong (1258 – 1308): The King Who Founded A Zen School
- The Zen Teachings of Master Duy Luc (unpublished)
- The Way of Zen in Vietnam. Ananda Viet Foundation. 2020.
Bài này được viết trong những ngày cuối năm 2024. Có thể gọi là để tiễn đưa năm cũ và nghĩ tới năm mới cũng được. Nhưng chỉ đơn giản, theo tôi nghĩ, rằng viết chỉ nên là viết, không là ǵ khác hơn viết. Tôi cảm nhận hạnh phúc tràn ngập khi gơ những ḍng chữ. Mọi chuyện y hệt như tiền định. Tôi đă mê chữ từ khi c̣n thơ ấu, khi c̣n cặm cụi viết từng mẫu tự trên giấy học tṛ. Và rồi nhiều năm, sau hơn nửa thế kỷ, khi ngồi trước màn h́nh và đưa tay gơ bàn phím, niềm vui đó vẫn không xa ĺa tôi. Tiếng Việt, tiếng Anh… tôi ăn, ngủ, cười, nói, đi, đứng, nằm, ngồi đều như thấy ḿnh tắm gội trong chữ, hít thở với chữ, tất cả đều làm tôi vui. Đây không phải là những ǵ có tính mê hoặc, mà chỉ là niềm vui rất đơn sơ, như dường tự nhiên là không có ǵ thay thế chữ được.
Để nh́n cho đúng, nói theo kiểu phê b́nh. Tôi là nhà báo, và đôi khi viết truyện và làm thơ. Bởi v́ nghề báo là như thế, khi cần th́ phải viết đủ thứ. Chính nơi Quận Cam, tôi có cơ duyên quen với rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo… và tôi đă học từ những thế hệ đi trước đó. Và bây giờ khi viết bài này, là cơ duyên được nhà văn Lê Thị Huệ, chủ trang Gió O, mời viết. Nh́n tới, là mép bờ của năm 2025, tính ra là vừa 50 năm Miền Nam sụp đổ. Tôi phải nh́n nhận rằng, tôi cảm động khi được mời viết một cái ǵ có tính văn chương. Hóa ra ḿnh cũng có chút ǵ gọi là văn chương.
Một số h́nh ảnh và kỷ niệm vẫn c̣n in trong đầu tôi, bất kể trận gió vô thường đă cuốn trôi phăng mọi thứ. Tôi vẫn hạnh phúc vô cùng tận, khi mỗi ngày vẫn c̣n sức để ngồi dịch tin. Chỉ cần ngồi gơ chữ thôi là vui rồi. Tôi trân trọng từng ngày, từng giờ, từng phút trong đời ḿnh. Nhiều văn nghệ sĩ tôi quen nơi đây (Quận Cam, California) đă ra đi rồi. Để nhớ lại các bạn văn (xin mạn phép, gọi quư đàn anh là bạn), tuổi nơi đây là tính theo năm từ trần, được trừ cho năm ra đời, những người mà tôi chợt nhớ và hẳn là nhớ không đầy đủ.
Nguyễn Tất Nhiên, 40 tuổi ra đi. Giang Hữu Tuyên, 55 tuổi. Lê Uyên Phương, 58 tuổi. Cao Đông Khánh, 59 tuổi. Cao Xuân Huy, 63 tuổi. Phùng Nguyễn, 65 tuổi. Đỗ Ngọc Yến, 65 tuổi. Đào Mộng Nam, 66 tuổi. Ngô Vương Toại, 67 tuổi. Nguyễn Đức Quang, 67 tuổi. Vũ Khắc Khoan, 69 tuổi. Nguyễn Lương Vỵ, 69 tuổi. Phạm Công Thiện, 70 tuổi. Mai Thảo, 71 tuổi. Nguyễn Mộng Giác, 72 tuổi. Nguyễn Mạnh Trinh, 72 tuổi. Nguyễn Chí Thiện, 73 tuổi. Vũ Ánh, 73 tuổi. Thảo Trường, 74 tuổi. Nguyễn Xuân Hoàng, 74 tuổi. Vũ Huy Quang, 75 tuổi. Vơ Đ́nh, 76 tuổi. Khánh Trường, 76 tuổi. Du Tử Lê, 77 tuổi. Đinh Cường, 77 tuổi. Nguyễn Ngọc Bích, 79 tuổi. Họa sĩ Rừng, 81 tuổi. Tô Thùy Yên, 81 tuổi. Nghiêm Xuân Hồng, 82 tuổi. Bùi Bích Hà, 83 tuổi. Nhật Tiến, 84 tuổi. Cung Tiến, 84 tuổi. Viên Linh, 86 tuổi. Minh Đức Hoài Trinh, 87 tuổi. Nguyễn Đ́nh Toàn, 87 tuổi. Thi Vũ, 88 tuổi. Cung Trầm Tưởng, 90 tuổi. Vơ Phiến, 90 tuổi. Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, 91 tuổi. Phạm Duy, 92 tuổi. Thích Nhất Hạnh, 96 tuổi.
Tất cả các văn nghệ sĩ hải ngoại tôi có cơ duyên quen biết đều có những ước mơ sáng tạo của riêng họ. Trong cương vị phóng viên, tôi phải quan sát chuyện cộng đồng, và do vậy cũng tường tŕnh các hoạt động văn nghệ của các văn nghệ sĩ. Dĩ nhiên là, tôi chú trọng nhất về lĩnh vực sáng tạo, c̣n chuyện đời tư các bạn văn th́ nhiều khi tôi không nhắc tới. Tôi cầm máy ảnh tới dự những cuộc ra mắt sách, chụp h́nh, và về viết bản tin. Và rồi, chứng kiến những bước chuyển biến của cộng đồng, của nghề báo và của làng văn.
Nói cho đúng ra, tôi chú trọng với văn học hơn là ngồi dịch tin cho báo, hay là chạy theo tường tŕnh các Hội Tết hàng năm. Ban đầu, khi vào Hoa Kỳ, nơi tôi cư trú đầu tiên là Virginia, và những bài đầu tiên tôi viết là truyện ngắn. Viết bằng bút bi, bằng bút mực nguyên tử trên giấy, rồi gửi qua Bưu điện tới Tạp chí Nhân Văn ở San Jose. Đó là cơ duyên ban đầu quen với nhà văn Tưởng Năng Tiến. Tại địa phương, tôi thỉnh thoảng viết cho hai báo của anh Giang Hữu Tuyên và anh Ngô Vương Toại. Thỉnh thoảng tôi lại viết về Phật giáo cho Tạp chí Hoa Sen, nơi nhà văn Nguyễn Mộng Giác làm Chủ bút, và cũng nhờ các bài nơi đây là cơ duyên để tôi trở thành Chủ Bút Tạp chí Giao Điểm. Nhưng một bước ngoặt lớn của văn học hải ngoại là Tạp chí Hợp Lưu, một tờ báo chấp nhận làm diễn đàn văn học cho cả trong và ngoài Việt Nam. Người đứng chủ động cho Hợp Lưu là họa sĩ Khánh Trường, và được hỗ trợ từ rất nhiều nhà văn hải ngoại.
Đó là bước tất yếu phải xuất hiện, bời v́ trước Tạp chí Hợp Lưu là một tuyển tập do các nhà văn hải ngoại thực hiện, nhan đề Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, một tuyển tập sau này được nhà phê b́nh Thụy Khuê ghi là, "Trước khi Hợp Lưu ra đời, nhóm Thân Trọng Mẫn đă cho in Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, một tuyển tập khá đồ sộ, dầy 797 trang, gồm những bài viết và sáng tác ở trong nước trong thời kỳ cao điểm "phản kháng" 1986-1989. Đây là một cố gắng lớn để thực hiện sự giao lưu "trong - ngoài" giữa những người cầm bút tranh đấu cho tự do và sự thật." Thực hiện tuyển tập này may mắn có nhiều tài liệu phần lớn là nhờ hai anh em ruột cùng trong nghề văn, nhà văn Nhật Tiến ở hải ngoại và em là nhà văn Nhật Tuấn trong VN. Chỉ tiếc rằng tuyển tập “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” đă tuyệt bản, cũng không có bản đánh máy trên mạng, bời v́ thời đó chưa có Internet. Thời đó, tất cả những người tham dự trong tuyển tập đều đọc qua các bản in giấy và bản photocopy đen trắng, đôi khi mờ chỗ này, lem chỗ kia. Ảnh hưởng dĩ nhiên rất là lớn, bởi v́ sau đó, rất nhiều nhà văn không c̣n suy nghĩ như trước đó nữa. Tôi chỉ lười viết văn học là khi bận rộn hàng ngày với tờ Việt Báo (ban đầu, tên là Việt Báo Kinh Tế, rồi tên là Việt Báo Daily News). Chỗ này tôi xin ghi lời cảm ơn nhà thơ Trần Dạ Từ và nhà văn Nhă Ca, hai người đă đưa tôi vào công việc rất bận của Việt Báo và là nơi tôi đă học rất nhiều. Nói bao quát hơn, tôi phải cảm ơn tất cả các nhà văn trong đời này, v́ cứ mỗi lần được quen biết hay được đọc những ǵ họ viết, tôi lại thấy có thêm những phần tôi học thêm. Cũng nhờ nghề báo, tôi có cơ duyên giao tiếp với các văn nghệ sĩ cà gần và xa, như Du Tử Lê, Đặng Tiến, Trần Vũ, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn, Hoàng Xuân Sơn, Trang Châu, Luân Hoán, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trân Sa, Trương Vấn, Lưu Na, Trịnh Y Thư, Đặng Thơ Thơ... Thói quen của nghề báo tuyệt vời là như thế, cứ mỗi ngày là mỗi học thêm.
Tôi có một niềm vui là chiêm nghiệm vô thường. Dễ cảm nhận nhất là nh́n vào cảm thọ trong tâm ḿnh. Thí dụ, như khi nh́n tranh (và hội trường Việt Báo là nơi có nhiều cuộc triển lăm tranh của Họa sĩ Rừng, Khánh Trường, Nguyễn Đ́nh Thuần, Đinh Cường, Nguyên Khai... Tôi đứng gần các tranh, nh́n màu sắc, h́nh thể, bố cục, nh́n vào cảm thọ của tâm ḿnh, rồi lùi bước một chút, rồi xa một chút, cũng nh́n như thế, rồi nh́n cảm thọ của ḿnh, để tự ngạc nhiên hỏi v́ sao tâm của ḿnh biến đổi, v́ sao cảm thọ có lúc như bứt rứt, có lúc như hoan hỷ, có lúc như sầu muộn... Tại sao có sự tương tác như thế. Không phải là cái ǵ cao siêu kiểu như nhà phê b́nh thẩm mỹ Huỳnh Hữu Ủy ưa viết, mà tôi chỉ thắc mắc về sự biến đổi của tâm ḿnh khi đứng trước các tấm tranh. Có phải xuân hạ thu đông là từ ḷng ḿnh hiển lộ ra hay sao? Tôi cảm nhận được hơi nóng, hơi mát... từ các tấm tranh toát ra.
Tương tự như thế, tôi vẫn đọc đi, đọc lại một số câu thơ, hay một số đoạn văn mà tôi có cơ duyên gặp phải, và thắc mắc. Như một số đoạn văn của Lê Lạc Giao buộc tôi phải đọc nhiều lần, để suy đoán rằng tôi có quen ai đó ở một sân trường Sài G̣n, hay nơi một trung tâm quân sự học đường. Ḿnh từng quen bạn này, bạn kia, y hệt như kiếp trước bỗng hiện ra. Như thơ Nguyễn Lương Vỵ, thơ Nguyễn Thị Khánh Minh... ai cũng muốn làm một cái ǵ đó, nhưng rồi phải gói lại các những ḍng chữ. Lật qua vài trang, là thấy đời ḿnh trôi thêm chục năm, chữ chưa viết hết ḍng đă thấy ḿnh tóc trắng.
Có nhiều nghề bây giờ đă biến mất. Thời đầu thập niên 1990s gửi tin cho nhau chủ yếu là qua máy fax. Nói chuyện th́ chỉ có điện thoại để bàn. Qua thời đánh máy không dấu, phải bỏ dấu tiếng Việt bằng tay là tới nhu liệu (phần mềm) tiếng Việt VNI. Thế rồi tiếng Việt VPS, VNU. Nhưng chữ VNI có vị trí ưu thắng nhiều năm, và bây giờ, cách gơ VNI trở thành thói quen của nhiều người, kể cả khi sử dụng các font chữ sau này như Unicode. Trước đó th́ cực lắm, khi điền dấu bằng thủ công trên giấy, rồi cắt, dán, đưa xuống nhà in, chụp ảnh thành phim, vào máy in ra thành giấy báo.
Trong thời kỳ làm báo bằng cắt dán, một thiên tài của làng báo Quận Cam là nhà thơ Lê Giang Trần. Anh có tay nghề cắt dán nhanh nhẹn, để mấy tờ giấy lên nhau, cắt 1 tờ là đúng một tờ, không phạm tới tờ thứ nh́. Nói cắt 2 tờ, là Lê Giang Trần ch́a dao ra cắt đúng 2 lớp giấy, không phạm tới lớp giấy thứ ba. Bây giờ, nghề cắt dán đă vào quá khứ, nghề báo giấy cũng bị báo mạng đẩy cho co cụm, Lê Giang Trần lui về vị trí làm thơ, niềm vui muôn đời của anh.
Nói về làm thơ nhiều, làm thơ nhanh, cứ vài ngày có một bài thơ, th́ nổi bật nhất Quận Cam là nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, người cũng có khiếu nói chuyện, hàng tuần nói chuyện văn học trên làn sóng phát thanh 1480 AM. Tôi ở trong nghề báo, hầu hết là dịch tin, một nghề đ̣i hỏi ngồi làm việc trong vắng lặng nhiều hơn là giao tiếp, nên tự thấy gần với những người làm thơ chậm răi, lẵng lẽ. Do vậy, tôi thấy ḿnh gần với những người làm thơ lặng lẽ, như Mai Thảo, Nguyễn Lương Vỵ, Phạm Việt Cường. Và tôi cũng tự thấy ḿnh gần với những người viết kỹ, viết ít, thí dụ như Phạm Công Thiện, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Huy Quang, Bùi Vĩnh Phúc, và nhiều người khác.
Có nhiều năm, người tôi gần gũi nhất là Vũ Huy Quang. Anh có khiếu nói chuyện tuyệt vời, ứng biến nhanh nhẹn của dân Hà Nội. Nhưng v́ ḷng anh cực kỳ thơ mộng, nên Vũ Huy Quang có lẽ là người thường trực kẹt tiền, xe hư và công việc đổi liên tục giữa những thời gian dài thất nghiệp. Những năm cuối đời, Vũ Huy Quang sống nhờ công việc chăm sóc mẹ (chính phủ California trả lương cho người thân chăm sóc). Vũ Huy Quang là người có vài mối t́nh thơ mộng nhất cơi này, và cũng rất mực sóng gió; dĩ nhiên tôi không kể ra làm chi. Khi cụ Nghiêm Xuân Hồng c̣n sinh tiền, cứ mỗi tháng, khi lănh tiền già xong, cụ Hồng điện thoại, bảo anh Vũ Huy Quang rủ Phan Tấn Hải ra quán ăn cơm, một h́nh thức cụ Hồng làm từ thiện (mà đúng ra, phải gọi là bố thí). Trong những buổi cơm trưa hàng tháng đó, không phải cơm chay, mặc dù cụ Nghiêm Xuân Hồng đang giảng kinh hàng tuần ở một ngôi chùa và tôi vẫn viết những bài nghiên cứu về Phật học, phần lớn là anh Vũ Huy Quang nói chuyện. Ngôn ngữ anh Quang là cực tả, nhưng không nên hiểu là cộng sản, chỉ nên hiểu như tư tưởng của Bernie Sanders trên chính trường Hoa Kỳ. Cụ Nghiêm Xuân Hồng th́ thoát tục rồi, thường là ngồi im lặng cười (tôi không nghĩ là cụ lắng nghe ǵ cả, bởi v́ cụ có vẻ như thường trực đang sống trong cơi Phật nào đó).
Về kỷ luật viết, nhà văn Mai Thảo nghiêm chỉnh nhất, v́ Tạp chí Văn hàng tháng vẫn phải xuất bản. Nghề báo giấy bấy giờ là suy yếu rồi, nhưng nhờ nhiều cơ duyên, Tạp chí Văn vẫn duy tŕ được. Một phần v́ c̣n nhiều độc giả, một phần là nhờ in ở Kim Ấn Quán (ở Los Angeles) với chi phí in rẻ hơn in ở Quận Cam, do chủ nhà in là một cựu tăng sĩ quư trọng anh Mai Thảo. Mỗi tháng, nhà văn Mai Thảo chuẩn bị sẵn khoảng 800 phong b́ lớn, vừa vặn một ấn bản, viết tay sẵn tên nơi gửi và tên người nhận, rồi bảo tôi chở anh từ Quận Cam tới nhà in này, đưa từng cuốn vào phong b́, rồi tới một Bưu điện Los Angeles gửi đi. Ban đầu người chở anh Mai Thảo đi tuyến đường xa (khoảng gần 1 giờ, và đóng gói phong b́) là do nhà thơ Trầm Phục Khắc. Khi Trầm Phục Khắc dọn nhà xa hơn, công việc chở anh Mai Thảo tới nhà in, và gửi báo do tôi đảm nhận. Anh Mai Thảo là người tế nhị, thỉnh thoảng hỏi tôi có sống được không (hiển nhiên, tờ Việt Báo dọn ṭa soạn nhiều lần và cũng không phải là tờ báo có khả năng cạnh tranh xuất sắc về tài chánh), thỉnh thoảng anh hỏi về sức khỏe của Dung (ai cũng thấy là nàng hạc xương mai, chưa bị gió thổi bay là may rồi). Tuy nhiên, nói về kỷ luật viết th́ nhà văn Nguyễn Mộng Giác là thượng thừa, v́ trong thời đại chưa có máy vi tính, khi các nhà văn c̣n viết bút mực trên giấy, mà viết được nhiều ngàn trang cho các bộ trường thiên như Mùa Biển Động, như Sông Côn Mùa Lũ... th́ hy hữu.
Hai vị Mai Thảo và Nguyễn Mộng Giác đều đi xa rồi. Trước khi đi thật xa, hai vị đều sắp xếp sẵn để các tạp chí có thể được duy tŕ. Mai Thảo bàn giao Tạp chí Văn cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Nguyễn Mộng Giác bàn giao Tạp chí Văn Học cho nhóm nhà văn: Trịnh Y Thư, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy và Khánh Trường. Một thời gian ngắn sau, trong một bữa cơm trưa, Khánh Trường bảo Phạm Việt Cường và Phan Tấn Hải rằng tụi ḿnh làm Tạp chí Hợp Lưu đi, vậy là thêm một tạp chí và có chủ trương vượt lằn ranh văn học của thời quá khứ phân đôi. Lúc đó, Phạm Việt Cường và tôi thỉnh thoảng tới nhà Khánh Trường lục cơm nguội ăn, v́ vợ Khánh Trường có sự tốt bụng của người Miền Tây. Tôi đứng tên khai thuế cho Tạp chí Hợp Lưu, người làm giấy tờ cho Hop Luu Foundation là Sonny Lưu, mọi thủ tục giấy tờ anh đều làm miễn phí. Nhưng góp sức cho Hợp Lưu là rất nhiều, không kể hết, như Nhật Tiến, Đặng Tiến, Thụy Khuê, Vũ Huy Quang, Lê Bi (c̣n tên là: Hoàng Chính Nghĩa, Lê An Thế), Nguyễn Hương, Đỗ Kh. (tức, Đỗ Khiêm), Đỗ Hữu Tài, Lưu Hy Lạc (bây giờ là Vương Ngọc Minh)...
Trong khi đó, nói về khám phá văn học, chịu suy nghĩ nhiều nhất có lẽ là nhà phê b́nh văn học Bùi Vĩnh Phúc, và nhà thơ Khế Iêm. Tôi có thói quen đọc đủ thứ hàng ngày, nếu có th́ giờ. Trong thời kỳ chưa có Internet, trong những năm đầu làm việc ở Việt Báo, tôi ưa thích đọc báo OC Register, Los Angeles Times, và New York Times. Trong khi hai báo đầu in ở Quận Cam, tờ New York Times in ở một nhà in chi nhánh ở Long Beach. Tôi tự đọc nghiền ngẫm, tự phân tích câu văn, ưa thích nhất là cách đặt câu đơn giản trong các bản tin AP, Reuters... Nhiều câu phức tạp trên New York Times, nhất là nơi các bài b́nh luận, tôi vẫn không hiểu trọn nghĩa nổi. Hàng rào văn phạm chỉ vượt qua được cho tới khi tôi học thuộc hai cuốn sách về văn phạm tiếng Anh. Sau đó, tôi đọc tiếng Anh tới đâu là phê tới đó. Và tương tự, tôi đọc tiếng Việt trong một tinh thần khác. Trong tiếng Việt cũng vậy, tôi luôn luôn học được một điều ǵ đó khi đọc các nhà văn khác. Như khi đọc sáng tác của Mai Thảo, Nguyễn Mộng Giác, Phạm Công Thiện, Nhật Tiến, Nhă Ca, Thảo Trường, Bùi Vĩnh Phúc, Khế Iêm, Đỗ Kh., Vũ Huy Quang, Nguyễn Bá Trạc, Đỗ Quư Toàn, Lưu Na, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Lương Vỵ, Lê Lạc Giao, Vĩnh Hảo, Nguyễn Văn Sâm, Trần Ngọc Ánh, Tưởng Năng Tiến... tôi nhận ra mỗi người có một thế giới, văn phong khác, cách đặt câu cũng khác. Mỗi người một thế giới. Chính nhờ học tiếng Anh, tôi khám phá ra các thế giới văn học tiếng Việt của từng người.
Với thói quen học tiếng Anh, tôi ưa nhẩm đi nhẩm lại trong đầu nhiều chữ mới học. Đó là thời kỳ chưa có Internet, cũng chưa có điện thoại di động. Đó là thời tôi cứ nhẩm cho thuộc ḷng số điện thoại của nhiều người thân và của các bạn thường gọi. Thời đó c̣n xài bản đồ in trên giấy, trước khi lái xe tới nơi lạ, lại phải nhẩm đi nhẩm lại lộ tŕnh soạn ra sẵn. Với thói quen như thế, một cách tự nhiên (và một cách phản xạ) tôi đă cứ nhớ tới một câu, một h́nh ảnh, hay một nhan đề truyện khi nghĩ tới một nhà văn. Thực sự, như thế là bất toàn, v́ một nhà văn hiển nhiên là mênh mông hơn là một câu, một h́nh ảnh.
Bây giờ, tôi chỉ duy nhất c̣n thuộc số điện thoại của ḿnh, mọi số khác đều quên hết. Nhưng khi nghĩ tới Mai Thảo, tôi lại nhớ tới câu Ta thấy h́nh ta những miếu đền. Nhớ tới Phạm Công Thiện, một cách tự nhiên tôi nhớ tới h́nh ảnh của Mười năm qua gió thổi đồi tây. Nghĩ tới Nguyễn Mộng Giác, tự nhiên tôi nhớ h́nh ảnh của Sông Côn Mùa Lũ. Nghĩ tới Vũ Huy Quang, là tự động nhớ tuyển tập Chín truyện ngắn. Nghĩ tới Lê Thị Huệ, tự nhiên tôi nhớ tới h́nh ảnh Thiếu nữ chờ trăng lên. Nghĩ tới Tô Thùy Yên, tự nhiên tôi nhớ Ta về. Nghĩ tới Khế Iêm, tự nhiên nghĩ tới Thơ Tân H́nh Thức. Nghĩ tới Đỗ Kh. là nhớ Cây gậy làm mưa. Có nhiều người, khi nghĩ tới, tôi không h́nh dung ra được h́nh ảnh cụ thể nào, mặc dù tôi có giao t́nh thân thiết, và rất quư trọng các bạn văn này. Thí dụ, tôi đă dịch khoảng gần 60 bài thơ của Nguyễn Lương Vỵ, nhưng không h́nh ảnh cụ thể nào hiện lên trong đầu khi nhớ tới Vỵ, chỉ trừ ảnh chân dung của Vỵ (mà cũng có thể v́ có quá nhiều kỷ niệm).
Tôi bị bệnh mất ngủ từ năm 2008, và từ đó, lại càng đọc nhiều hơn. Tôi đọc nhiều tới mức, có lần, khi giải thích, tôi nói với nhà nghiên cứu Phật học Huỳnh Kim Quang rằng tôi đă ngày đêm say mê đọc Kinh Phật tới mức hư cả mắt, tới mức phải mổ thay cườm mắt sớm hơn so với tuổi. Cơ duyên làm tôi mất ngủ là khi theo dơi chuyện giáo phái Làng Mai của Thầy Nhất Hạnh bị trục xuất khỏi Tu Viện Bát Nhă năm 2008. Trong vị trí người làm tin, tôi phải quan sát ngày đêm câu chuyện có nhiều diễn biến phức tạp này. Từ đó, tôi bị mất ngủ. Và v́ mất ngủ, tôi đọc nhiều hơn, đọc từ Kinh Phật cho tới văn học. Đọc để đọc, và đọc để suy nghĩ, và đọc để viết. Cũng từ quan sát chuyện học Phật trong Việt Nam, tôi đâm ra say mê văn của Cao Huy Thuần và Đỗ Hồng Ngọc, có thể xem là thế hệ tiếp nối của văn học Phật giáo sau Nhất Hạnh.
Văn học Việt Nam hải ngoại vẫn gần gũi với nền văn học trước 1975. Trong khi đó, có thể đoán rằng các nền tảng truyền thông mới, như YouTube và TikTok, có thể sẽ góp phần thay đổi văn học Việt Nam. Thí dụ, văn phong để có thể đọc trên các nền tảng này sẽ phải đặt câu ngắn hơn (câu dài sẽ đọc vướng), dễ hiểu hơn (ẩn dụ văn học sẽ không thể có chú thích), h́nh ảnh trực tiếp hơn (h́nh ảnh ám chỉ, buộc suy nghĩ sẽ không theo kịp thời gian của băng h́nh). Như thế, các nhà văn tương lai của Việt Nam sẽ tự đi t́m lối riêng, mà thế hệ nhà văn hiện nay (như tôi) không bận tâm tới.
Ngoại trừ một số nhà văn, như Tưởng Năng Tiến, chỉ thẳng một đường đấu tranh cho một xă hội mới. Bây giờ, phần lớn các nhà văn hiện nay (cả trong và ngoài VN) tránh các đề tài nhạy cảm, thí dụ như chuyện bất công xă hội, môi trường ô nhiễm, cán bộ tham nhũng, các quyền tự do cá nhân, đa nguyên chính trị... Cũng chưa thấy các tác phẩm văn học quan tâm nhiều tới các đề tài có thể đang ảnh hưởng hay sắp ảnh hưởng: thí dụ, t́nh yêu khác màu da, t́nh yêu giữa người đồng tính, hay t́nh yêu giữa người và robot. Thế hệ trẻ đang say mê tṛ chơi điện tử sau này, khi họ viết văn có thể sẽ có những cách nh́n mới, tác phẩm mới hơn, để thích nghi với xă hội điện tử hóa nhiều hơn.
Tôi nghĩ rằng thế hệ của tôi có thể sẽ là thế hệ cuối cùng (hay sắp cuối cùng) của những người viết tiếng Việt ở hải ngoại. Thế hệ sau sẽ viết thuần tiếng Anh. Báo tiếng Việt ở hải ngoại có thể sẽ từ từ biến mất trong một thập niên nữa. Văn học tiếng Việt lúc đó chỉ c̣n là chuyện của người trong nước. Phải chấp nhận viễn ảnh vô thường như thế. Phải chăng, các nhà văn hải ngoại như thế hệ của tôi, chỉ là những ḍng chữ cuối cùng của một trang sử sắp lật qua?
Thêm nữa, mùi của những trang giấy mới,
mùi của những ḍng mực in đang bị trận gió
vô thường thổi tới, vùi dập. Xă hội
tương lai hằn là không cần giấy nữa. Và lúc
đó sẽ là chuyện của các nhà văn thế hệ
tương lai, khác hẳn bây giờ, mà tôi không h́nh dung nổi.
Và bây giờ, tôi vẫn rất mực yêu thương những
ḍng chữ c̣n đang được níu kéo nơi đây, mà
tôi đang viết trên trang giấy này.
Phan Tấn Hải
ngày 30/12/2024