TỰ DO CÙNG NGÔN NGỮ
50
Năm Văn Học Tiếng Việt Hải Ngoại
1975-2025
ký ảnh của Trang Hoàng
Phạm Chu Thái
Thả Trôi Lục Bình
Phạm Chu Thái , tên thật Phạm Phúc Thái , sanh 1954 tại Hà Nội . Sau Genève , cùng gia đình di cư vào Nam , lớn lên tại Sàigòn .
- Tiểu học Chu Mạnh Trinh , Phú Nhuận .
- Trung học Võ Trường Toản (1965-1972) , Sàigòn .
- Đại học Khoa Học (1972-1975) , Sàigòn .
- Giáng Sinh 1977 , vượt biển tại Rạch Giá , đến Malaysia , ở trại Pulau Besar .
- Mùa Xuân 1978 , đến Canada , định cư tỉnh bang Québec .
- Làm nhiều nghề để mưu sinh , nghề cuối cùng : Senior Designer trong suốt 30 năm cho hãng dầu hỏa Petro-Canada .
- Hiện tại về hưu : xúc tuyết , làm vườn , cắt cỏ , tắm sông hồ , đi bộ hành , nằm võng .
- Xa Hà Nội … Xa Sàigòn … Từ ấy ……
Phạm Chu Thái
(Cuộc Trăm Năm , có những điều không nên thổ lộ , chỉ nên tự mình chôn kín rồi mang xuống Tuyền Đài . Những dòng viết dưới đây, rất riêng tư , càng cố chôn kín lại càng ngân vang , lẽ ra phải là những điều không nên thổ lộ)
*
Thuở xưa , vừa xong Tú Tài , vào học năm đầu Đại Học , thì Cha chết . Nhà vốn nghèo , nó phải tính chuyện vừa học vừa mưu sinh . Một buổi chiều năm xưa ấy , thả bước lang thang trên vỉa hè đường Tự Do, rồi với chút đắn đo , nó đẩy cửa bước vào Nhà hàng Khánh Ly . Đang đảo mắt dáo dác nhìn quanh thì Chị từ góc bàn trong cùng đang ngồi với vài người khách đứng lên , đi lại gần , trên tay điếu thuốc lá , mỉm cười hỏi nó : Em muốn gì ? Nó thưa : Em sinh viên còn đi học , nghèo , muốn kiếm việc . Chị nhìn thẳng vào mặt nó một lát , rồi hỏi : Em muốn việc gì ? Nó thưa : Bất cứ việc gì . Chị lại hỏi : Em muốn bắt đầu khi nào ? Nó lại thưa : Bất cứ khi nào . Chị mỉm cười , khẽ để bàn tay chạm lên vai nó , rồi nói : Thế thì bắt đầu hôm nay . Cuộc phỏng vấn xin việc kết thúc nhanh chóng đến bất ngờ . Nó bỡ ngỡ nhìn Chị: đằng sau gương mặt lạnh đẹp kiêu sa kia là cả một tấm lòng phóng khoáng quảng đại . Từ buổi chiều hôm ấy , nó chính thức trở thành nhân viên nhà hàng . Được Cô Chủ giới thiệu , chẳng mấy chốc nó trở thành đại ca . Trong tuần , đi học về , nó được nhà bếp cho ăn : khi tô bún bò Huế , khi tô canh chua ngò ôm cá bông lau , khi sườn heo rim xả ớt , khi thịt bò xào rau muống tỏi . Ăn xong , nó pha ly cà phê đá , châm điếu thuốc , ngồi ghế nệm sau quầy làm đại ca , ngoắc tay khiển bọn đàn em chạy việc . Ban tối , khi nhà hàng đóng cửa , nó lên gác học bài đọc sách rồi thiếp ngủ tại đó . Sáng dậy đi học , ăn bánh mì trứng ốp-la , ly cà phê sữa , rồi đàn em làm sẵn cho ổ bánh mì thịt xíu mại mang đến trường . Một thời gian sau , nhà hàng sửa sang lại , trở thành Phòng trà Khánh Ly . Chị lại bảo nó : Thái từ nay lên nhà dạy 2 đứa con chị . Nhà chị , phải đi lên cầu thang xoắn ốc , chỉ là 1 căn phòng rộng , không tường vách , xa-lông , bàn ăn , giường ngủ , bàn trang điểm , tủ quần áo , tất cả trong không gian đó . Mỗi tối nó lên dạy học , cũng là lúc Chị sửa soạn xuống Phòng trà làm việc , thường là lúc Chị vừa tắm xong , từ ngoài đẩy cửa bước vào , trên người quấn chiếc khăn lông , đi ngang nó , vô tình để lại mùi hương da thịt và giọng nói thoáng nhẹ : Thái , quay lưng lại , Chị thay đồ . Lần nào cũng thế , nó quay lưng lại , cố lên giọng giảng bài Toán Đố , trước đôi mắt rất láu lỉnh của con học trò Ly Cơ , trưởng nữ của Chị , đang chăm chăm quan sát nhìn Thầy … Cậu học trò Michael Berg sau này lớn lên trở thành vị Luật sư thành danh , cuộc đời đã sành sỏi phong lưu , đã trải qua lắm mối tình trường với những người phụ nữ văn minh có học nơi chốn thị thành hoa lệ . Nhưng chàng chẳng thể nào quên được mối tình đầu , năm 1958 , khi chàng 15 tuổi , với người thiếu phụ Hanna Schmitz , 36 tuổi , mù chữ , không biết đọc , ở làng quê tỉnh lẻ năm xưa , chỉ vì da diết trong tâm tư một mùi hương xác thịt thầm kín mà chàng đã thiết tha bú mút nơi người tình , mùi hương không thể tàn phai theo năm tháng . Mối tình thầm kín đầu đời ấy, chàng chôn kín , bố mẹ không biết , thầy cô không biết , chị em không biết , bạn bè không biết , vợ con không biết . Mãi đến 30 năm sau , khi dắt con gái đi thăm ngôi mộ nàng Hanna Schmitz , chàng mới thổ lộ với đứa con (The READER) …. Ngày nay , đôi khi nhớ đến Chị , đôi khi nghe người khác nhắc đến Chị , trong nó luôn hiện lên hình ảnh người Chị ÂN NHÂN , đã một thời nâng đỡ cưu mang nó trong quãng đời mặt trắng thư sinh . Món nợ ân tình đó , nó đã khất mãi , chẳng biết lấy gì để trả cho hết nợ nần . Nhưng bên cạnh đó , nó cũng đã chôn kín bao lâu nhưng chẳng bao giờ nguôi được , thanh âm thoáng nhẹ liêu trai của nàng ca nhi 28 tuổi : “Thái , quay lưng lại , Chị thay đồ” và mùi hương da thịt nữ nhi thầm kín , đã dấy lên trong cảm xúc nó một niềm đam mê tội lỗi của xác thịt . Đã hơn 50 năm trôi qua , nó luôn mang tâm tư của một kẻ tội phạm chưa bao giờ chịu đầu thú .
*
Sau 75 , nó thường chở Bùi Giáng trên chiếc xe đạp của nó rất nhiều lần . Trên xe , ông luôn thích ngồi đằng trước , trên chiếc đòn ngang . Người ông nhẹ hẫng , chở như không chở . Như để trả công đền bù sức lao động của nó , ông luôn bắc chuyện cho nó đạp quên đường dài . Ông nói , giọng rất Sàigòn-Miền Nam : mày giỏi hơn tao . Nó đang đạp xe , nghe khích tướng , hớn hở hỏi lại : giỏi hơn cái gì ? Biết cá đã cắn câu , ông rất thong thả rồi bắt đầu chậm rãi vào chuyện : mày giỏi hơn tao vì mày biết đạp xe đạp , khi xưa tao còn bé , chỉ có ông Tây bà Đầm mới đạp xe đạp vào làng tao phát thuốc chẩn bệnh , làng tao không ai biết đạp xe đạp …. Hồi bé tao thích tắm mưa , nhìn lũ trẻ chăn trâu tắm mưa ngoài sân tao muốn nhập bọn , nhưng Má tao không cho , Má tao không thích tao đùa nghịch kết bạn với lũ trẻ chăn trâu trong làng , luôn bắt tao phải ở trong nhà học bài làm gương cho lũ em , luôn bắt tao phải mặc áo quần lành lặn tươm tất vì tao con nhà giầu xứ Quảng ruộng vườn cò bay thẳng cánh , tao thường lén Má tao đem quần áo lành lặn đổi cho lũ trẻ chăn trâu lấy quần áo vá rách , mày phải biết mặc quần áo vá rách sướng lắm , chơi đùa không sợ bị lấm lem , vuốt ve trâu bò càng thấy mình gần gũi với bò trâu … Xưa kia , Tía tao mỗi chiều chiều , đợi bọn nữ sinh tan học về , là ổng ra thả diều , đi ngang tụi nữ sinh , ổng vừa thả diều ổng vừa không ngừng cất tiếng than thở : tao muốn bay mà bay không muốn tao … tao muốn bay mà bay không muốn tao … tao muốn bay mà bay không muốn tao … Mày coi đó , Tía tao có “điên” không ? … Khi xưa lần đầu tiên tao đi tàu thủy từ Đà Nẵng vô Sàigòn , xuống bến tàu bị thằng sĩ quan Tây hỏi giấy tờ , nó hỏi tao : ông là ai ? Qui êtes-vous ? Tao trả lời : tao là con số Zéro . Thằng sĩ quan Tây vội chấp tay , nói : thưa Ngài , kẻ nào nhận mình là con số Zéro , kẻ đó là vĩ đại . Tao thấy thằng Tây này hiểu biết , có đầu óc tếu , nên lịch sự nói nó : tại hạ là người Việt Nam , tại hạ có một lời nhắn này gởi đến Đại Tướng De Gaulle , nhờ Ngài chuyển gấp , trước khi quá muộn , sẽ rước lấy thảm bại … Mày biết thằng Nguyễn Hiến Lê không , tao ghét thằng đó , thằng đó rất giỏi kiếm tiền , mở nhà xuất bản , in sách , dịch sách , nhờ người khác dịch rồi đứng tên mình , toàn chuyện đạo thính đồ thuyết bá vơ đắc nhân tâm dạy đời hù thiên hạ để chủ đích cầu danh , vơ vét tiền , mua vàng về chôn giấu ở tận Long Xuyên nhưng ở Sàigòn lại luôn đóng tuồng mô phạm thanh bạch Tô Đông Pha-Đào Tiềm-Lâm Ngữ Đường-Kim Thánh Thán , suốt hơn 40 năm ở Miền Nam thằng đó mở miệng ra là Bảo Đại phong kiến bù nhìn tay sai Tây , Diệm Nhu độc tài gia đình trị Thiên Chúa Giáo , Thiệu Kỳ tham nhũng bất tài tay sai Mỹ , xã hội Miền Nam băng hoại đĩ điếm bất công , Bác Hồ liêm khiết , Cụ Hồ đạo đức , cán bộ anh hùng trong sạch , chính phủ Miền Bắc thương dân , xã hội Miền Bắc công bằng , miệng lưỡi thằng đó còn khốn nạn tàn độc hơn thập phần miệng lưỡi thằng Vũ Hạnh , miệng lưỡi thằng Sơn Nam , gấp nghìn lần trái mìn của bọn đặc công nội thành , bởi nó được coi là nhà học giả uyên bác , nhà văn hóa lão thành , trình độ bác cổ thông kim , chẳng đặng đừng nên tao phải nêu đích danh thằng Nguyễn Hiến Lê ra trong cuốn Biển Đông Xe Cát , gọi nó là “hương nguyện” , mày biết “hương nguyện” là bọn nào không ? Khổng Phu Tử lúc sinh thời rất ghét bọn đó , bọn đó giống như bọn Pharisiens trong Kinh Thánh mà Jésus cũng rất ghét , Jésus thương con điếm , Jésus ghét Pharisiens … Mày đã đọc Kim Dung chứ ? Mày biết Nhạc Bất Quần chứ ? Mày biết nhân vật IAGO của Shakespears chứ ?… Mày theo Thiên Chúa Giáo , thế tao hỏi mày trong 4 bản Kinh Thánh viết ra , giống nhau chỗ nào , khác nhau chỗ nào ? … Mày biết vì sao tao tự học tiếng Đức không ? Tao tự học tiếng Đức là để đọc nguyên bổn bản Tuyên Ngôn của Karl Marx bằng Đức ngữ , tìm hiểu vì sao nó được người ta thờ phụng , Cộng Sản dạy : cứu cánh biện minh cho phương tiện , nhưng tao dạy mày : cứ nhìn vào phương tiện thì sẽ biết cứu cánh … Mày có biết vì sao tao không trở về Quảng Nam ? Vì sao mấy chục năm ở Sàigòn tao không trở về quê hương Quảng Nam của tao? Có lúc trong giấc mộng , tao thấy tao lái phi cơ ném bom xuống đất Quảng Nam của tao , vì sao ? Vì người Quảng Nam nay đã khác người Quảng Nam xưa . Người Quảng xưa hiền lành chất phác thiện lương , đó là tinh hoa Đạo lý thăm thẳm của Đông Phương , là phần phúc đức của giống nòi , hồng ân của nhân loại . Từ ngày cách mạng Cộng Sản du nhập vào đất nước Việt Nam, tụi nó dậy người ta cầm dao cầm súng , dạy người ta giết đồng bào mình bằng cuốc xẻng bằng búa rìu rồi chôn sống , dạy phải thật ác độc , phải thật gian manh , phải đào tận gốc trốc tận rễ theo lời Bác dạy thì mới là cháu ngoan của Bác , thì mới thật giác ngộ Giai Cấp , thế nên người Quảng đã trở nên độc ác tột cùng , gian manh tột cùng , đến cái mức độ bất khả luận bàn , bất khả ngữ giải , bất khả tư nghì … Mày biết Hán Ngữ không ? Mày biết Đường Thi không ? Văn minh Tầu ngày nay đã giết chết Đường Thi , đã giết chết Hán Ngữ , chữ Tầu ngày nay chỉ còn cái xác , đã mất đi cái hồn … Mày theo Thiên Chúa Giáo , thế mày có nghe đến tên Thích Nhất Hạnh bên Phật Giáo không ? Mày đã đọc quyển DIALOGUE do Lá Bối xuất bản năm 1965 chưa ? Chắc mày còn nhỏ chưa đọc , tao kể mày nghe : khi xưa Nhất Hạnh nài nỉ tao viết cái Avant-Propos cho quyển sách , tao bán cái sang Tam Ích và Hồ Hữu Tường , nhưng Nhất Hạnh không chịu , muốn người viết phải là tao , tao đành nhận lời , viết xong đưa nó đọc , nó đề nghị cắt đi một đoạn , đoạn Hölderlin-Rilke-Nguyễn Du chung nhau hòa âm , Đông-Tây giao hảo , mày phải biết , những đứa con thật sự Tây Phương , những đứa con thật sự Đông Phương , chúng rất giống nhau , là anh em của nhau , đồng qui nhi thù đồ , tao nhượng bộ Nhất Hạnh cắt đi đoạn đó vì nó là chủ biên , nhưng khi đem in nó lại lén lút bí mật thòng thêm vào 8 chữ trong phần Avant-Propos tao viết rồi ký tên Lá Bối bên dưới , sau này có người bên Tây hỏi nó ai là tác giả viết phần Avant-Propos thâm sâu quá , hay quá , thì Nhất Hạnh nó mủm mỉm cười cười từ bi bông hồng cài áo nhỏ nhẹ chánh niệm nở hoa sen siêu thoát niết-bàn bảo Lá Bối viết đó , ký tên Lá Bối bên dưới đó , mà Lá Bối thì phải hiểu là Nhất Hạnh , Nhất Hạnh là Lá Bối , nhưng với tao thì cái điều bất khả vãn hồi đáng nói là 8 chữ khốn nạn đổ dầu vào lửa , 8 chữ dẫn đến thế đối đầu , lực chọi lực-ai thắng ai , vì 8 chữ đó mà tương tranh Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo càng lúc càng trầm trọng chia rẽ , chiến tranh Việt Nam càng lúc càng bùng nổ ác liệt , chiến tranh càng bùng nổ ác liệt thì Nhất Hạnh lại càng có cơ hội danh lợi tiến thân lên sân khấu diễn tuồng chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện , hình ảnh Nhất Hạnh đầu trọc chắp đôi bàn tay xảo thuật bồ câu trắng hiện ở New-York và thằng Jean-Paul Sartre ngày ăn 3 bữa nhà hàng thịt bơ bụng phệ ở Paris khi giả đò đóng tuồng ném quyển sách La Nausée xuống đất trưóc hình ảnh em bé Phi-Châu gầy đói trơ xương , cả 2 rất giả hình , rất giống nhau , tợ thị nhi phi , chẳng khác gì Hồ Chí Minh lấy khăn chùi nước mắt khi nghe tin Tạ Thu Thâu bị giết , Phan Văn Hùm bị giết , Bùi Quang Chiêu bị giết, Phạm Quỳnh bị giết , tao ngưng viết cho Giữ Thơm Quê Mẹ sau 2 số báo cũng kể từ đó , tao tuyệt giao với Nhất Hạnh cũng kể từ đó , bài văn tao viết gởi René Char trong Dialogue đó , Char hồi đáp lại bằng toàn bộ tác phẩm của mình kèm theo lá thư viết tay gửi đến riêng tao , lá thư tâm tình nói về số phận Việt Nam rồi sẽ bị thọ nạn đóng đinh trên đỉnh GOLGOTHA ... Mày biết Albert Camus chứ , trước khi sang Thụy Điển đọc Discours de Suède , mày biết Camus đã làm gì không , đã đi bộ đến nhà Bố Mẹ của Simone Weil , căn nhà số 3 đường Auguste Comte , con đường đối diện Vườn Luxembourg thơ mộng đó , để xin Mẹ nàng cho phép được vào phòng Thánh Nữ chiêm bái , để một mình trong phòng tưởng nhớ mùi hương băng trinh còn lưu luyến lại nơi trần thế … Mày có biết bọn Cộng Sản bên Tây đặt biệt danh cho Simone Weil là gì không ? … Mày có biết Char và Camus là đôi bạn tri âm tri kỷ , rất qúy trọng nhau , cùng chung một nỗi niềm suy tư , Camus phải viết trên vài chục trang giấy để tỏ bày , thì Char chỉ cô đọng lại trong 2 câu thi ca tư tưởng … Deux hirondelles , tantôt silencieuses , tantôt loquaces , se partagent l’infini du ciel et le même auvent ... Không có René Char ra tay hổ trợ , thì Camus đã bị tụi Cộng Sản trong nhóm Les Temps Modernes của thằng Sartre giết chết rồi sau khi đại tác phẩm L’Homme Révolté vừa ra mắt , mấy ai hiểu Martin Heidegger bằng René Char , tâm sự Heidegger u uẩn lắm , Heidegger viết văn u uẩn kỳ bí lắm trên vòm thời đại bảy mẹ năm cha , mấy ai hiểu người Triết Nhân nơi rừng đen Forêt-Noire Đức quốc kia bằng người Thi Nhân thủ lãnh kháng chiến vùng Basses-Alpes Pháp quốc nọ, dưới tàng cây Dẻ Marronnier sau 10 năm Thế Chiến kết thúc họ đã trao đổi tâm sự gì giữa Thi Ca và Tư Tưởng , như Héraclite và Homère , như Khổng-Phật và Nguyễn Du , Heidegger rất coi thường Sartre nhưng rất coi trọng Char , Heidegger ghé sang Pháp thăm Char , không thăm Sartre , Pour l’Aurore … Pour le Crépuscule … Mais pourquoi huppés comme des Alouettes ? … Xưa kia , bao nhiêu ruộng nương Tía Má tao để lại cho tao , tao đem bán rẻ lại hết cho những người nông dân , có nhiêu đem hết in bộ sách Martin Heidegger , tỏ lòng tri âm đến nhà tư tưởng hoằng viễn đệ nhất cổ kim , để đền đáp ân nghĩa non nước Việt Nam đang nguy cơ trước hiểm họa trào lưu duy vật vô thần … Đọc một nhà tư tưởng , một nhà thơ , một nhà văn , một nhà thuyết pháp , mọi mọi nhà nhà trong thiên hạ , mày phải ghi nhớ một LỜI vạn thế sư biểu này của Khổng Phu Tử để quán xuyến đa đoan mọi chuyện , mày có thể quên hết lý thuyết sách vở chủ nghĩa trường phái nhưng chỉ cần ghi nhớ một LỜI này , mày có biết đó là một LỜI gì không , cái LỜI mà phải đến cuối đời nơi Bến Ngự thì Phan Bội Châu mới liễu ngộ … Mày nói mày đọc Sa Mạc Trường Ca tao viết mày chẳng hiểu tí gì , điều đó cũng đúng thôi , tao viết Sa Mạc Trường Ca không phải để cho người Việt Nam đọc , mà để bọn Tầu đọc , cho Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông đọc , đọc xong chúng sẽ trúng phải chưởng pháp xuyên tâm “cách sơn đả ngưu” vô hình vô ảnh của tao nên Hồ Chí Minh đã phải vỡ tim mà chết , Hồ chết trước Mao chết sau … Thôi , bây giờ đạp xe về nhà mày , uống trà vối hút thuốc lào , mày có căn gác thơ mộng lắm , mình sẽ tiếp tục ngao du ngày tháng , Cộng Sản từ Bắc vô Nam giải phóng tao chỉ thấy trà vối và thuốc lào là vĩ đại , chỉ thấy rau đay và cua đồng là vĩ đại ……
*
Nó đạp xe vô ngõ hẻm , bên hông Nhà Thờ Bà Chiểu , ghé thăm Nguyễn Tôn Nhan . Thấy bạn còn trẻ , gương mặt rất thư sinh thi sĩ , mà hoàn cảnh đã vợ con đùm đề , nó hỏi trêu chọc . Nhan cười , đôi mắt sáng lung linh sau cặp kính cận , tác giả tập thơ “THÁNH CA” nói thì thầm giọng Bắc vừa đủ nó nghe : Đêm khuya , nằm cạnh gái Huế , nghe nó thủ thỉ giọng Huế, chịu không thấu . Nó thích những câu nói chân tình như thế . Nó thích nhất câu văn rất chân tình này của Nietzsche : “J’ai toujours mis dans mes écrits toute ma vie et toute ma personne . J’ignore ce que peuvent être des problèms purement intellectuels” .
*
Sau 75 , nó ngồi vỉa hè bán sách , khu Passage Eden đường Lê Lợi , đôi mắt thường hay mông lung nhìn đường phố . Một hôm , có 3 người đàn ông xáp đến gần , một người hỏi thăm nó về người này người kia người nọ cùng bán sách nơi đây . Nó trả lời không biết không biết không biết . Rồi người đó tự giới thiệu : đây là Ngọc Thứ Lang , đây là Nguyễn Thụy Long , và tui Cung Tích Biền . Nó kín đáo đưa mắt nhìn quan sát : Ngọc Thứ Lang nom tiều tụy xanh mét run rẩy như người bệnh , suốt buổi chẳng nói câu gì ; Nguyễn Thụy Long nom đàn ông nước da rám nắng khỏe mạnh nhưng sắc mặt buồn trầm tư , suốt buổi cũng chẳng nói câu gì ; chỉ riêng Cung Tích Biền là hồ hởi hoạt bát , nói không ngớt , lại có duyên , giọng Quảng-Sàigòn , liên tục trôi chảy hết chuyện người này lại bắc ngay sang chuyện người kia , không chuyện gì của ai nơi chốn võ lâm ngũ nhạc môn phái giang hồ thập ác mà Cung Tích Biền lại không biết , tất cả đều được biên tập sáng tạo lại qua phiên bản mê cung rất đặc thù Cung Tích Biền , trình độ nửa cân tám lạng , rất gần mà cũng rất xa , rất giống mà cũng rất khác , sánh với Duyên Anh , sánh với Hoàng Hải Thủy .
Đã quá trưa , đói bụng , nó nhờ người bạn trông dùm cửa hàng , đi ăn trưa . Không đành đi một mình , nó mời cả 3 ra ăn nhà hàng Continental , thời đó 1975-1976 bán cơm quốc doanh , nghe nói giá rẻ , ăn cốt lấy no . Nó đã đi qua muôn nghìn lần vỉa hè Continental qúy phái sang trọng trong suốt 20 năm , nhưng hôm đó là lần đầu tiên nó bước vào trong nhà hàng ngồi ghế ăn , và đó cũng là lần cuối cùng . Hôm đó cũng là lần đầu tiên nó gặp Ngọc Thứ Lang-Nguyễn Thụy Long-Cung Tích Biền , và đó (có lẽ) cũng là lần cuối cùng .
*
Một buổi sáng năm xưa , đầu năm 1977 , nó chở Bùi Giáng trên đường Lê Quang Định , rồi quẹo vô ngõ chùa Già Lam . Chợt thấy 3 nhà sư từ hướng Già Lam đi ra , Bùi Giáng nhận ra , nhẩy phóc xuống xe , chỉa tay vào mặt nhà sư đi chính giữa cao lớn đẫy đà , mặc bộ đồ lam lụa là thẳng thớm , mà pháp về Đệ Nhất Khổ Đế : Khi xưa chúng mày kèn cựa quyết tử với đám Công Giáo , bây giờ bọn Cộng Sản vô đây , cho tụi bay chết chùm . Vị nhà sư cao lớn đẫy đà mặc bộ đồ lam lụa là thẳng thớm đó , là Thượng Toạ Thích Thiện Minh , phải rời khỏi Trung tâm Quảng Đức vì đã bị Ủy Ban Quân Quản tiếp thu , vừa đến tá túc nơi chùa Già Lam . Khi xưa , nó đã vắn tắt kể chuyện này . Nhưng trong bài Luận văn , thì đó chỉ mới là phần Nhập-đề . Phần Thân bài và Kết luận , nó đã đem giú 10 năm , dưới lớp men âm hàn băng giá vùng Bắc Cực .
2 ngày sau bữa chỉa tay vào mặt nhà sư cao lớn đẫy đà mặc bộ đồ lam lụa là thẳng thớm đó , cũng trên con hẻm Già Lam đó , Bùi Giáng nhận được bát cơm người dân trong xóm cúng dường , liền đưa bát cơm cho nó , bảo : mày đói , ăn đi , tao không đói . Đang cúi xuống húp bát cơm canh bông bí , chợt thấy một thanh niên cầm thanh củi xông đến đánh sau lưng Bùi Giáng , nó vội buông bát cơm , chỉ kịp nhảy tới đưa cánh tay ra đỡ đòn . Thanh củi giáng trúng tay , nó đau điếng ngã xấp mặt , nhưng cũng còn hồn vía ngước lên nhìn cảnh tên thanh niên rượt đuổi theo Bùi Giáng . Nó chẳng ngờ Bùi Giáng thân pháp rất nhanh nhẹn , né đòn trong đường tơ kẻ tóc khi thanh củi liên tục giáng xuống . Sự việc xảy ra quá chớp nhoáng , người trong xóm lúc đó mới kịp thời nhẩy ra can tên thanh niên . Bùi Giáng lại gần nó , cầm cánh tay nó nâng lên , bảo : mày không sao , không sao , chỉ mất chút vía . Nó đi lại con hẻm yên bình này đã hơn chục lần , nhưng hôm nay chẳng hiểu sao lại xẩy ra tai nạn . Nhưng Bùi Giáng thì có lẽ rất hiểu . Cũng 2 ngày sau đó , đang ở trên gác trông con , cánh tay còn đau nhức ê ẩm , thì Bùi Giáng đến nhà , xông lên thang gác . Nó thấy ông áo quần tả tơi rách nát , gương mặt tím bầm rỉ máu , nó hỏi . Ông nói : tao vừa tỷ đấu với thằng võ sư cận vệ Thích Thiện Minh ngay trong sân chùa Già Lam , chung quanh đám sư khoanh tay đứng nhìn , thằng võ sư tưởng hạ tao đo ván dễ dàng , nhưng đâu có dễ ăn . Rồi ông kể nó nghe diễn tiến trận thư hùng , những đòn cước , những đường quyền , những thế , những chưởng , những chỉ , những chảo , những hổ , những long , những xà , những phụng , những gió táp mưa sa , những bời bời bát bộ … Nó nghe , nhưng mắt nhìn những vết thương đang rỉ máu . Nó đưa ông tấm khăn , thau nước , rồi xuống nhà pha bình trà vối , đợi ông tậpYoya điều trị thương tích trên căn gác . Sau tuần trà , vài hơi thuốc lào , ông bảo nó : mày chở tao lại Già Lam lấy đồ , tao không ở đó nữa . Nhà nó trong con hẻm vùng Gia Định-Đồng Ông Cộ , đến Già Lam chỉ chừng 15 phút . Đến nơi , nó để chiếc xe đạp cạnh cầu thang , rồi leo lên lầu . Vừa bước lên , chợt thấy một vị sư đầu trọc mặc áo thun sát nách đang đứng tấn , khoanh đôi cánh tay lực lưỡng đang nhìn xuống nó như thách thức khiêu chiến . Trong đời , nó chưa từng nhìn thấy một vị sư Việt Nam nào lại cao lớn , to béo và lực lưỡng như thế , không khác gì một võ sĩ SUMO . Nó bước lên vài nấc thang rồi vội vàng phân bua : tôi đến đây chỉ để dọn dẹp … Chưa kịp nói hết câu thì Bùi Giáng từ sau lưng đưa nhanh 2 ngón tay khóa lên đôi môi nó . Phòng Bùi Giáng là căn đầu tiên bên trái , tất cả bảo tàng ve chai đủ mọi hình thù sắc mầu trang trí trong phòng , ông để lại , một rừng lá chuối phủ lên những cơm thừa canh cặn của trần gian cúng dường , ông để lại , chỉ lấy đi mươi cuốn sách , vài tấm vải ông khoác lên người . Mươi cuốn sách đó , ông đưa nó giấu trên căn gác nhà nó , phân nửa bao bọc bằng giấy nhật trình , phân nửa kia bao bọc bằng giấy mầu lộng lẫy . Nó thắc mắc , hỏi ông . Ông nói : sách qúy bao giấy nhật trình lem luốt , sách không qúy bao giấy mầu sặc sỡ , kẻ trộm ăn cắp sách sẽ lựa sách đẹp , bỏ lại sách xấu . Từ đó cho đến cuối đời , Bùi Giáng sẽ không còn bao giờ trở về Già Lam nữa …
2 ngón tay khóa lên đôi môi nó hôm đó , sẽ mãi mãi còn ở trong tâm khảm , là bài học lớn nhất mà Bùi Giáng dạy nó . Ra hải ngoại , mỗi khi nhớ đến , đáy lòng trào dâng lên một niềm tủi hổ về sự hèn yếu của chính mình . Nó có 3 đứa con : 1 trai 2 gái . Thuở chúng còn bé , một hôm có người tới nhà mách con nó đang đánh lộn với trẻ con trong khu xóm , nó vội chạy ra , nhìn thấy thằng con trai dáng gầy ốm tóc đen đang quần thảo với 3 thằng Tây con tóc vàng to xác , 2 đứa em gái nhỏ gầy cũng xăn tay nhảy xúm vào đánh trợ lực với thằng anh , nó vội xông đến can , phải trái với người lớn trong khu xóm , rồi dắt 3 con về nhà . Trên đường về , nhìn 3 đứa con rất can trường , biết bảo bọc thương yêu nhau , nó mừng rơi nước mắt . Lớn lên , nó không bao giờ la mắng con cái . Nó thấy chúng đởm lược can trường hơn mình , thông tuệ hơn mình , đẹp đẽ hơn mình , có tình thương quảng đại không ích kỷ khép kín như mình , chúng biết tự tay cuốn bánh tráng ăn với đủ loại rau thơm và húp nước mắm xì xụp , như mình , chúng mê cơm cà bung tía tô và canh dưa chua thì là , như mình . Ra hải ngoại , công việc đầu tiên nó làm để kiếm tiền , là nghề : rửa bát đĩa , xon nồi . Mỗi đêm khuya , khi tan việc từ nhà hàng Tây khu Vieux Québec , nó lội bộ trên những con đường dốc 40 phút về căn nhà trọ . Đêm Đông đầu tiên nơi xứ người , bầu trời tuyết rơi mù mịt phủ trắng khắp đường phố , tan việc xong nó đạp trên lớp tuyết cao ngập đến đầu gối , 90 phút sau mới về đến nhà trọ . Hôm ấy lại nhận được báo Quê Mẹ bên Pháp , tờ báo đầu tiên khi ra hải ngoại nó đặt mua dài hạn . Nó tắm nước nóng , pha bình trà nóng , uống hết tách trà nóng , rồi thong thả mở báo đọc . Thấy báo Quê Mẹ đưa tin nóng hổi : Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị Cộng Sản giam và đánh chết ở trong tù . Nó rót thêm tách trà , châm điếu thuốc , bao nhiêu kỷ niệm xưa hiện về . Giây phút ấy , nó nghĩ , có lẽ chỉ mình nó hiểu vì sao Thượng Tọa Thích Thiện Minh phải bị đánh chết , mà không phải người hùng làm rung chuyển nước Mỹ là Thượng Tọa Thích Trí Quang . Trong đất nước bị Cộng Sản cai trị , tuy có rừng luật để làm phấn son cho chế độ , nhưng Cộng Sản chỉ xài luật rừng : muốn bịt mồm ai thì bịt mồm , muốn bắt ai thì bắt , muốn đánh ai thì đánh , muốn giết ai thì giết . Đó là đặc quyền toàn trị Cộng Sản . Thượng Tọa Thích Thiện Minh còn cậy mình là nhân vật đã từng có chức sắc cao cấp Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên trong Giáo Hội, một chiến lược gia đại hùng đại lực đại từ bi trong hàng ngũ Tăng Già đấu tranh , một Tôn Giáo đã đồng hành cùng Dân Tộc suốt hơn 2000 năm , đã có Vạn Hạnh là Quốc Sư , Phật Giáo là Dân Tộc , Dân Tộc là Phật Giáo , đã hy sinh góp công rất lớn trên con đường hoằng dương Đạo Pháp : lật đổ một chế độ kì thị áp bức Tôn Giáo độc tài gia đình trị , sát hại một Tổng Thống Thiên Chúa Giáo 2 đời bàng môn tả đạo ngoại lai , dùng bàn thờ Phật xuống đường khuynh đảo một chính quyền bù nhìn trâu điên hiếu chiến tay sai đế quốc Mỹ xâm lược , và ngày nay thì muốn ra uy : đánh ai thì đánh , muốn ngang quyền Cộng Sản . Trong đám nhà sư khoanh tay đứng nhìn tên võ sư đánh Bùi Giáng nơi sân chùa Già Lam năm xưa đó , không thiếu những tên Công An cũng đầu trọc áo sư đang đứng khoanh tay dõi mắt nhìn rồi về báo cáo cơ quan . Thích Thiện Minh bị Cộng Sản đánh chết , bởi vì lẽ đó , vì muốn ngang quyền Cộng Sản : muốn đánh ai thì đánh . Sau biến cố xẩy ra cho vị Cao Tăng trong Giáo Hội Phật Giáo , thì Ôn Già Lam thân tâm thường tịnh trước khi viên tịch không thể không kinh hoàng , Ôn Ấn Quang đại trí tuệ đại vô úy đại từ quang phải xanh mặt im lặng như núi vô ngôn chờ chết . Phật Giáo Sử mai sau sẽ còn nhắc đến tên Hòa Thượng Thích Trí Thủ , Hòa Thượng Thích Trí Quang , Hòa Thượng Thích Thiện Minh . Nhưng trong Đêm Đông băng tuyết giá lạnh đầu tiên nơi xứ người , nó rót thêm tách trà nóng , châm thêm điếu thuốc lá , rồi tự hỏi với chính mình trong bóng đêm khuya tĩnh mịch nơi căn nhà trọ Bắc-cực : số phận NHÀ SƯ SUMO kia rồi sẽ trôi giạt về đâu trong Văn Tế ? … Tiết tháng Bảy … mưa dầm … sùi sụt … Thương thay Thập loại chúng-sinh ... Phách đơn … Hồn chiếc ……..
*
Tháng Tư 1977 , nó được Nhà Nước chọn , cho đặc ân trúng tuyển Nghĩa Vụ Quân Sự . Ngày trình diện nhập ngũ , nó lấy ít áo quần vật dụng bỏ vào nải , từ biệt Mẹ , vợ và thằng con vừa đầy năm (thằng bé đẹp vô cùng , mấy lần Bùi Giáng xúi nó đem con lại chùa Già Lam , thừa lúc sư tăng nhắm mắt tụng kinh thiền định , ông sẽ đặt hài nhi ngồi trên đầu tượng Phật nơi chánh điện , nhưng nó lại sợ bất kính Phật , lòng còn chấp trước , nào dám nghe theo) , từ biệt mái nhà và căn gác xép thân yêu phủ đầy bóng mát của tàng cây Phượng , nơi có muôn vàn kỷ niệm riêng tư , nơi 1001 câu chuyện về nước non , về tứ hải , về người xưa , về người nay , về Chân Nhân , về Gian Hùng , kẻ nào đăng đường , kẻ nào nhập thất … mà Bùi Giáng chậm rãi “tuần tuần thiện dụ” giảng dạy nó nghe bên bình trà vối và chiếc điếu cầy , tất cả nó không ngờ sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại . Hôm ấy , nó không đi đến địa điểm nhập ngũ trình diện , mà khởi đầu cho mình cuộc trường chinh vạn lý lăng ba vi bộ . Ban ngày , nó rảo bước , hôm thì khu Phan Đình Phùng Bàn Cờ Nguyễn Thiện Thuật , hôm thì Lý Thái Tổ Nguyễn Tri Phương Bà Hạt , hôm thì Khánh Hội Chợ Quán Cầu Chữ Y , hôm thì Ngã Tư Bảy Hiền Lăng Cha Cả , hôm Ngã Ba Ông Tạ , hôm Đakao Tân Định , hôm Thị Nghè Hàng Xanh , hôm Phú Nhuận Võ Di Nguy … Ban đêm , chọn công viên , vỉa hè , gốc cây , trà trộn nơi tụ tập dân bị đuổi đi kinh tế mới bỏ về thành phố nay sa cơ màn trời chiếu đất , nằm bơ vơ thao thức , ngẫm hoàn cảnh gia đình tan tác , mình lại thương mình : nhớ con , nhớ vợ , thương Mẹ góa bụa suốt đời chăm lo nuôi con và cháu , mà đẫm lệ . Cuối năm 1977 , trong Mùa Giáng Sinh , nó đi xuống Tà Niên-Rạch Giá vượt biên . Trước khi đi , nó buộc nó phải đi tìm Bùi Giáng , không thể không nói với ông lời từ biệt . Kiếm khắp Sàigòn , không thấy . Nó đành phải trở về vùng đất nhà Gia Định-Bà Chiểu , kiếm ông . Rất may , chiều hôm ấy , thấy ông đứng ngay ngã ba đường , trước Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định , đang khua tay thoăn thoắt điều khiển dòng xe cộ và luôn miệng nhắn nhủ không ngớt gửi tới dòng người xuôi ngược từ Cầu Bông đi Gò Vấp , từ Chi Lăng đi Thị Nghè , một câu thơ Tiền chiến : Cô hãy dịu dàng , chầm chậm thưa Anh . Nó đến gần , ông nhận ra , ngưng tay hỏi nó bấy lâu đi đâu sao không gặp . Nó không đáp , dìu ông vô lề đường . Ông ngỡ rằng nó trốn ông , sợ bị liên lụy , sợ bị ăn đòn , nên đường mật dụ dỗ khuyến khích nó : mày phải chịu khó đi theo tao , tao sẽ truyền thụ “Y-Bát” cho . Rồi lại ngại thằng học trò Toán học không hiểu 2 từ “Y-Bát” là gì , ông giải nghĩa thêm : tao sẽ truyền dạy cho mày bí cấp pháp môn Vô Úy : “bị chúng đánh mà không đau” . Nó nào còn lòng dạ nào theo học bí cấp võ công Huyền Môn Tâm Pháp-Khổ Hạnh Đầu Đà tột cùng hành xác đó , cái trần gian dưỡng chất gọi là “vui thôi mà” thượng thừa khốc liệt buồn tủi đó nơi ông phải được hiểu là khởi phát đi từ nơi trăm năm hồng lệ , kẻ chân không độc hành vác Thập Giá trên con đường gai nhọn Calvaire của Thế Kỷ Hai Mươi , kẻ đã uống vào lòng biển khơi trăm giòng sông nhơ bẩn của thế sự đảo điên gian trá tình đời vẫn không nguôi ngoai dâng lên niềm tạ ơn phụng hiến rửa chân cho bụi hồng : Trần gian ôi cánh bướm cánh chuồn chuồn . Khi xưa , Jésus de Nazareth bị nện búa đóng đinh vào đôi lòng bàn tay phun máu nơi đỉnh đồi Golgotha , chắc còn phải đau , nấc lên trên Thập Giá : Mon Père , pourquoi m’as-tu abandonné ? Nó cầm đôi bàn tay ông , đôi bàn tay tiều phu mở lối con đường rừng , lùa bò lên đồi sim , viết nghìn câu tâm bút , dúi vào nắm tiền mà sắp tới đây nó nghĩ sẽ không cần xài đến , nói nhỏ bên tai : tui lội bộ trốn đi bộ đội bấy lâu , nhà nước công an đang rình xử lý tui , mai tui đi Rạch Giá vượt biên , thôi nghen ông Giáng , gặp ông nói nhiêu đủ rồi nghen ông Giáng , tui đi nghen ông Giáng , tui đi nghen . Nó nhìn sâu vào đôi mắt ông , đôi mắt xanh rất trẻ thơ , rất tinh anh , rất có thần , đôi mắt vô ngôn không nói mà nói rất nhiều , rồi quay gót trở về đường Lê Văn Duyệt hướng Cầu Bông . Bỗng bất ngờ nghe thanh âm tạ từ giây phút biệt ly vang vang của Bùi Giáng sau lưng trên con đường ngã ba : Bớ ông nhà nước … Bớ ông công an … Bớ ông bộ đội … Bớ nước nhà độc lập tự do hạnh phúc xã hội chủ nghĩa bách thắng … có người vượt biên … có người vượt biên … vượt biên … vượt biên … Bớ ông nhà nước … Bớ ông công an … Bớ ông bộ đội … Bớ nước nhà … vượt biên … vượt biên … vượt biên … Cái điệp khúc tri hô ngân vang không dứt trong giờ phút phân kỳ , cho dù là sự thật , cũng chẳng ai để tâm , vì là lời nói quàng xiên của kẻ điên kẻ khùng kẻ mất trí , đầu đường xó chợ , lạc chợ trôi sông , khố rách áo ôm , sứt chỉ đường tà , ăn xổi ở thì , tẩu hỏa nhập ma , thân tàn ma dại , rượu vào lời ra , bạ đâu nói đó . Điều đó , chính ông lại càng biết rất rõ . Ông lại càng biết rất rõ cái bí cấp pháp môn thượng thừa thù thắng lô hỏa thuần thanh song trùng ba-la-mật của huyền ngoại chi âm : phơi bày mà u mật , ẩn tàng mà hiển lộ . L’être se retire en ce qu’il se déclore dans l’étant (Martin Heidegger) . Nhưng nó nghe , không phải từ lời từ chữ , mà từ cái giọng , từ cái ánh mắt , từ cái thính quan không cốc túc âm : cái giọng cái ánh mắt cái siêu âm thiết tha , ẩn tàng mà hiển lộ , gởi tới sông dài biển rộng hải giác thiên nhai phong ba tang hải lưu ly phù trầm ly hương dâu bể viễn xứ ra khơi một niềm Chúc Phúc . Đó là lần cuối cùng nó gặp Trung Niên Thi Sĩ-Bùi Giáng , vừa độ tuổi trung niên .
7 ngày sau , người sũng nước biển , nó ngồi bệt , xoãi chân trần trên bờ cát hoang vu vùng duyên hải của Malaysia , hít thở bầu thanh khí tự do đầu tiên , bên cạnh vợ con , cùng một nhóm 27 người Việt chênh vênh chưa hoàn hồn , dõi mắt nhìn chiếc ghe thanh mảnh Kiên Giang gỗ sao chét mủ nghìn năm cổ truyền , trình độ nhược tiểu nước phèn kinh rạch thương hồ đi sông , đã ra khơi thuận buồm xuôi gió , đã lướt sóng hải hành vượt trùng dương biển mặn hoàn thành sứ mệnh đưa người vượt biển , Đôi Mắt ghe giờ đây kiệt sức đang lịm dần , ánh lên lời vĩnh quyết , nhất khứ bất phục phản , rồi trầm mình chìm sâu xuống lòng Đại Dương .
*
Nửa xin để lại bên cầu
Nửa xin trường mộng nhiệm mầu mang đi
(Bùi Giáng)
*
Năm xưa , tại thành phố Montréal , đã xảy ra một biến cố lớn liên quan đến Văn Học : tập thơ đầu tiên viết sau 1975 của Bùi Giáng được gửi ra nước ngoài , được Bùi Giáng “ỦY THÁC” cho 7 nhà thơ hải ngoại . 7 nhà thơ hải ngoại được “ỦY THÁC” , đó là : Phạm Nhuận , Hoàng Xuân Sơn , Hồ Đình Nghiêm , Luân Hoán , Bắc Phong , Lưu Nguyễn và nhiếp ảnh gia Lê Quang Xuân . 7 nhà thơ này cùng với vị đại đệ tử của Thích Nhất Hạnh là Chân Văn-Đỗ Qúy Toàn (tất cả đều cư ngụ trong thành phố Montréal) thành lập nhóm Việt Thường để xuất bản Thơ Bùi Giáng . Cuốn Thơ Bùi Giáng và 7 nhà thơ “ỦY THÁC” đã ra mắt đầu tiên tại Montréal , 31-8-1990 , cũng lại được Đỗ Qúy Toàn khai trương vinh danh giới thiệu , rất đông khán thính giả đến tham dự , chật kín cả hội trường Đại Học . Cuốn Thơ và các nhà thơ “ỦY THÁC” cũng được ra mắt những thành phố khác ở Canada và Mỹ , và cũng được gởi đi bán khắp hiệu sách . Hôm ra mắt tập Thơ Bùi Giáng tại Montréal , nó không đến tham dự . Nó rất đau xót nhìn món quà kỷ niệm Bùi Giáng gửi tặng mình (để đền đáp lại món quà đầu tiên nó vừa gửi về cho Bùi Giáng , qua trung gian bà cụ già quê Vĩnh Long trường chay niệm Phật tu Thiền , cũng lần đầu tiên từ Canada đi về Việt Nam , về nước bà cụ đã nhờ đứa cháu chở xe gắn máy chạy khắp Sàigòn kiếm Bùi Giáng , cuối cùng có người mách , gặp Bùi Giáng tại Gia Định-Bình Hòa , cụ trao tận tay Bùi Giáng 3 món quà nó nhờ gửi về đã dặn đi dặn lại phải gặp tận mặt trao tận tay : tấm hình , lá thư , món tiền) đã bị kẻ trung gian cầm đem sang đây , gian manh tráo cho kẻ khác , từ đó nẩy sinh ra vở tuồng kịch bản : Bùi Giáng “ỦY THÁC” 7 nhà thơ hải ngoại . Kẻ cầm tập thơ Bùi Giáng âm thầm mang ra hải ngoại rồi gian manh đánh tráo , trao tay cho kẻ khác , chẳng ai khác hơn , chính là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn , kẻ viết ca từ « Sống trong đời sống cần có một tấm lòng » , khác chi mô « tấm lòng Mậu Thân » của Hoàng Phủ Ngọc Tường , bạn chí thân của Sơn , với Huế . Ở trong nước , Bùi Giáng hoàn toàn không hay biết gì về vở tuồng kịch bản “ỦY THÁC” , và bản thân cũng chẳng nhận được đồng xu bỏ túi từ tác quyền cuốn thơ kia . Sau này , người thân trong gia đình về nước đưa tin , Bùi Giáng mới biết , và từ đó Sàigòn có thêm 1 giai thoại về Bùi Giáng . Giai thoại đó là : Bùi Giáng đi khắp Gia Định-Gò Vấp , Chi Lăng-Phú Nhuận , Trương Minh Giảng-Kỳ Đồng , Phan Đình Phùng-Cao Thắng , Đakao-Tân Định , Thị Nghè-Hàng Xanh … để đố người dân Sàigòn : đố ai biết được 3 chữ TCS là tên viết tắt của người nhạc sĩ nào ? Dân Sàigòn đều bĩu môi , đáp : đố gì dễ ẹc , đó là Trịnh Công Sơn chứ ai ! Đợi đến người cuối cùng trả lời xong , ông mới từ tốn đáp : đó là 3 chữ viết tắt tên nhạc sĩ Thằng Cộng Sản . Từ đó , Bùi Giáng tuyệt giao với Trịnh , cho đến chết . Ở hải ngoại , 35 năm đã trôi qua kể từ sự cố , 7 nhà thơ “ỦY THÁC” kia (có 5 người mà Bùi Giáng chưa từng nghe đến tên) đã nhập vai đóng tuồng thành công trót lọt , đã phù phép làm mờ mắt được biết bao chúng nhơn nơi trần thế . MA nhất trượng PHẬT nhất xích , là thế . Nghìn cơn mộng mỵ chiêm bao không chuộc được một trận gió bão tan tành , là thế .
Đã hơn 20 năm , nó chọn làm kẻ DẠI , rời thành phố ánh sáng tiện nghi hoa lệ chốn lao xao Kẻ Chợ , ra vùng ngoại ô tỉnh lẻ đèn mờ điện câu làng quê đồng ruộng , kiếm mảnh đất bên bờ sông làm Nơi Vắng Vẻ , vay mượn thanh khí trường giang hàn thủy làm chốn nuôi TÂM . Đã hơn 20 năm , nó một mình ngồi trên chiếc băng gỗ tự tay nó hình thành , chấp vá lại từ những khúc gỗ phế thải trôi dạt đôi bờ , trầm tư nhìn cảnh chiều tà trên giòng sông sau mảnh vườn , thả hồn vào cổ lục nghìn năm Chân Kinh Vô Tự của HÓA CÔNG . Bao nhiêu kỷ niệm tươi vui , bao nhiêu kỷ niệm đau xót , như tiên dược và độc dược , muốn biết thì phải nếm , nó đều đã nếm trải , nó đều đã thả trôi theo đám lục bình trổ bông tím biền biệt chiều hoang trên giòng sông cuồn cuộn cuốn ra biển cả trong giây phút trẩm tư kim cổ vô cùng giang mạc mạc đó . Không có Bùi Giáng dạy vỡ lòng bài học Sầu Thoan Nghê , nó sẽ không viết văn . Văn nó viết , nơi cõi thế , Bùi Giáng chưa hề đọc bằng đôi mắt trần . Nơi “Cõi Trên Kia” , Bùi Giáng sẽ đọc nó bằng hào quang tâm nhãn . Đôi lúc kỷ niệm đau xót kia man mác hiện về , bao năm nó đã âm thầm chôn kín , không thổ lộ với thế nhân , nhưng nó cũng không thể vô ơn với quá khứ , cũng không thể vô tâm nỡ đành quên dĩ vãng . Nàng ca nhi Connie Francis trong suốt cuộc đời 87 tuổi cũng chẳng thể nào vô ơn với quá khứ , cũng chẳng thể nào vô tâm nỡ đành quên cái đêm dạ vũ bi kịch dĩ vãng năm xưa khi tuổi còn thanh xuân : I remember the night and the Tennessee Waltz …. Nó nhận phần thua thiệt , không có được cho mình một giọng ca truyền cảm để cùng tỏ bày tâm sự đến tha nhân , chỉ có được cho mình nỗi hiu quạnh một mình lẳng lặng nghe thanh âm cô liêu tiếng bìm-bịp kêu chiều và lãng đãng nhìn cảnh tà huy sắp mất dần trong đêm tối rồi ngậm ngùi tự hỏi : Rồi đây , sắp tới hồi vãn tuồng , 7 nhà thơ “ỦY THÁC” kia liệu còn khả năng phù phép làm mờ mắt được trước ĐÔI MẮT DIÊM VƯƠNG .
*
Chỉ khi tâm sự được hả hê bộc bạch , bọn cường hào bị tiêu trừ rã đám bởi đường kiếm vô chiêu , bởi viên đạn kết liễu từ nòng súng Colt Walker 1847 , gã hiệp khách mù Zatoichi mới bình nhiên chống gậy độc hành về phương Đông ban mai mặt trời mọc , nàng thôn nữ Jane Got A Gun mới thanh thản cùng người yêu cỡi song mã về miền viễn Tây dựng mái nhà nhìn ra biển cả như ước nguyện ; chỉ khi ấy Đông-Tây mới hòa nhịp , cùng nhau hát lên bài ca : Aujourd’hui je vois la vie … avec les yeux du cœur … Cửa Hàm Tử : phải chém cho xong đầu tướng giặc Toa Đô , Bến Chương Dương : phải đoạt sáo đuổi Thoát Hoan rút tàn quân tháo chạy về phương Bắc ; chỉ khi ấy mới an tâm ngồi xuống ngắm khóm Trúc , pha ấm trà Thái Nguyên , hưởng mùi hoa Bưởi hoa Cau và ngâm câu thơ : Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã / Sơn hà thiên cổ điện kim âu . Tình Quê Hương , là thế .
PHẠM
CHU THÁI
Hiver 2025 - Canada