Ngô Nguyên Dũng

Hồ Trường An và Những Giòng Hợp Lưu

 

Ngô Nguyên Dũng  sinh năm 1951 tại Sài Gòn. Du học và định cư Cộng hoà Liên bang Ðức từ năm 1969. Cộng tác với Làng Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Gió Văn, và nhiều tạp chí Hải Ngoại và các trang mạng văn chương online

Tốt nghiệp tiến sĩ hoá học tại Đức. Cộng tác với nhiều nguyệt san văn chương quốc ngoại từ 1980. Hội viên Hội Văn bút những Tác giả Lưu vong tại các Quốc gia nói tiếng Đức (Exil-P.E.N., Sektion deutschprachige Länder), thuộc Trung tâm Văn bút Quốc tế.

Với sức viết khá phong phú, Ngô Nguyên Dũng và Hồ Trường An là hai cây bút đồng tính kỳ cựu xuất hiện trên hầu hết các văn đàn nổi tiếng ở Hải Ngoại lâu năm và thường xuyên nhất.

 Đã xuất bản:

- Việt ngữ:

Dòng Chữ Tâm Tình (tập truyện, 1988)

Mười Hai Hoa Cúc (tập truyện, 1988)

Đêm (truyện vừa, 1989)

Tiếng Núi (tập truyện, 1992)

Chuông Đêm (tập truyện, 1992)

Gia Đình Cún (tập truyện, 1994)

Âm Bản (tập truyện, 1994)

Khung Cửa Nắng (truyện dài, 2000)

Hòn Còng Lửa (tập truyện, 2002)

Ngôn Ngữ Tuyết (tập truyện, 2006)

Núi Đoạn Sông Lìa (truyện dài, 2007)

Thơ Ngô Nguyên Dũng (2020)
Đêm và Những Truyện Ngắn Khác (tuyển tập, 2022)

 

- Đức ngữ:

Die Insel der Feuerkrabben (tập truyện, 2011)

Tausend Jahe im Augenblick (truyện dài, 2019)


Ngô Nguyên Dũng

 

 

"Bắt đầu giữa tháng chín dương lịch, trời đã chớm thu trên vùng Champagne. Mùa hái nho đã tới. Các chủ nhân vườn nho đã nhờ sở tìm việc dán áp phích, tìm nhân công đi hái nho."

Cố nhà văn Hồ Trường An đã mở đầu truyện dài Hợp Lưu ([1]) như trên.

Truyện dài Hợp Lưu, tác phẩm thứ nhì sau Lớp Sóng Phế Hưng của Hồ Trường An, là dấu mốc quan trọng sự nghiệp văn chương của ông trong văn đàn ngoài nước, kéo dài từ đầu thập niên 1980 cho tới ngày ông qua đời vào năm 2020 tại Pháp với 25 truyện dài, 12 tập truyện ngắn, 23 tập biên thảo và 2 tập thơ.

Với tôi, Hợp Lưu không những là quyển sách nổi bậc của cố nhà văn Hồ Trường An, mà còn là tác phẩm độc đáo nhất của văn chương ngoài nước. Nổi bậc vì văn phong Hồ Trường An với Hợp Lưu là một ngoại lệ hiếm hoi trong di sản trước tác đồ sộ của ông để lại cho hậu thế. Độc đáo bởi lẽ tình tiết, thời gian và không gian cũng như những nhân vật trong Hợp Lưu là một tập hợp ngoạn mục những biểu tượng hội nhập không vướng mắc của cộng đồng Việt Nam lưu vong vào xã hội tây phương.  

Trong bài Tựa cho truyện dài Hợp Lưu, cố nhà văn Võ Phiến viết:

"Hợp Lưu gồm mười một truyện hợp lại thành một truyện. Tách riêng ra mà đăng báo từng kỳ như đã đăng, đó là mười một thiên truyện ngắn hay, hợp lại thành sách thì là một cuốn truyện dài, cũng hay.

Trong suốt pho truyện dài ấy, gọi là biến cố quan trọng họa chăng chỉ có một đám cưới và vài vụ chửa đẻ. Vậy thôi. Còn lại là những chuyện người này gặp người nọ, cặp này viếng cặp kia, là những bữa ăn, những cuộc chuyện trò, rong chơi. Vậy mà ngày tháng trôi qua không chán, mà thu tàn đông qua xuân lại, cuộc sống lúc nào cũng thấy rộn ràng, lôi cuốn."

"Người này người nọ, cặp này cặp kia" là những ai? Họ, những khuôn mặt tạp chủng với những nhân sinh quan phóng khoáng, rộng lượng chấp nhận mọi quan niệm sống, niềm tin tôn giáo cũng như khuynh hướng tình dục. Họ là những Liên, Jean Paul, Lăng, Quế, Thúy, Marie Louise, Isabelle Jia, Arnaud,  … Mỗi người sở hữu một đời sống tình ái và bản năng dục tính bẩm sinh. Kẻ này là người dị tính, kẻ kia là người lưỡng tính, còn người nọ lại có khuynh hướng đồng tính luyến ái. Họ gặp gỡ, ăn ngủ, chia sẻ cùng nhau những thăng trầm của đời sống, vặt vãnh cũng như lớn lao, nhằm thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và những nhu cầu giao tiếp thường ngày trong đời sống. Đôi khi là những ám ảnh quá khứ, dai dẳng đến nỗi làm cho Liên, mặc dù đang sống hạnh phúc cùng chồng là Jean Paul tại Troyes, một thị trấn vùng Champagne nước Pháp, thường xuyên mộng dữ:

"Nhưng chính trong khung cảnh thân mật và quen thuộc đó, nhiều đêm Liên đã nằm mơ lại những cơn chiêm bao quái dị. Nàng thấy mình trở lại căn nhà từ đường của mình ở vùng Hậu Giang, một đêm nọ, bọn Việt Minh gõ cửa vào nhà bắt ông nội nàng, trói thúc ké rồi điệu ra đám dừa nước bắn chết…" (Tr. 18)

Và bắt Quế, một nhân vật đồng tính luyến ái, lậm chứng mất ngủ:  

"Giờ đây, Quế muốn gác mọi sự ra khỏi căn buồng này. Ở đây chỉ có Arnaud, một người bạn Tây cường tráng nhất trong vấn đề nhục dục, một ngày mà không làm tình hai lần là cảm thấy khó chịu, nhưng tâm hồn hắn trong sáng biết bao, như một vòm trời chiều hè tạnh ráo, không một bóng mây nhẹ thành kiến, không một đợi khói mỏng mặc cảm. Êm ái và lâng lâng. Hồn nhiên như cỏ hoang. Nhưng Arnaud vẫn còn ngủ. Quế đối diện với nhịp thở của mình đây. Tôi thở ra đây, tôi trút mọi cặn bã của tâm tư. Tôi thở vào đây, tôi đem vào tôi sự thanh tịnh, trong trẻo như suối nguồn, như gió xuân… Quế nương theo nhịp thở của Arnaud. Thở theo người mình yêu tức là nhập thể vào hắn. Giờ đây, hắn với tôi là Một…" (Tr. 99)

Để rồi sau khi:

"Quế chìm sâu vào giấc ngủ nhẹ nhàng, sảng khoái. Chàng thấy mình chơi vơi trong một bãi đất chứa xe phế thải, đầy sa mù và bóng tối… Chàng soi bóng thấy khuôn mặt mình héo úa, bất an, thấy khuôn mặt già cỗi dớn dác của Huấn, khuôn mặt khùng khùng của triết gia André Glucksmann vào cái thuở thành lập con tàu của người vượt bể, khuôn mặt béo phị của nhà sư khuấy động hồi mồ ma phản chiến, thấy khuôn mặt thanh thản của Arnaud, và khuôn mặt ngập tràn thông cảm của Liên. Tất cả những khuôn mặt đó góp lại, biến lần vào khuôn mặt chàng. Khuôn mặt chàng sao mà trong sáng, siêu phàm, thoát tục mà bao lần soi gương chàng chưa hề gặp…" (Tr. 99-100) 

 

*

Trước 1975, cố nhà văn Hồ Trường An hành nghề ký giả văn nghệ và kịch trường cho nhiều nhật báo ở Sài Gòn, với nhiều bút danh khác nhau. Lẽ đó, ông rành rẽ chuyện đời tư giới văn nghệ sĩ thời danh lúc bấy giờ. Không như đa số những người viết khác, Hồ Trường An sở hữu một kiến thức quảng bác và đa dạng về văn chương, tân nhạc, điện ảnh, thời trang, ẩm thực, v.v… mà nhiều người viết khác không có. Những ưu điểm đó, cộng thêm văn tài, đã giải thích tại sao, sau khi ông đi định cư nước ngoài, chuyển sang lãnh vực văn chương, ông đã gặt hái nhiều thành tựu tốt đẹp. Trong những thập niên 1980-2000, thuở nhu cầu tiêu thụ sách báo văn chương của độc giả Việt Nam lưu vong lên cao điểm, chỉ hai nhà văn có thể sống thoải mái bằng nghề cầm bút: Hồ Trường An và Nguyễn Ngọc Ngạn ([1]).

Trong tất cả những bạn văn, giao tình giữa tôi và cố nhà văn Hồ Trường An sắc nét và lâu dài nhất, kéo dài từ 1980 cho tới giữa thập niên 2010. Ông siêng năng viết thư. Trong mỗi lá thư, ông liếng thoắng thuật chuyện người này người kia trong văn giới, và thoải mái gọi họ là "thằng này", "con nọ". Ông không vị nể một ai, ngoại trừ đôi ba nhà văn tiền bối như Võ Phiến, Mai Thảo. Thỉnh thoảng chúng tôi điện đàm trò chuyện. Ông nói nhiều hơn lắng nghe và có thói quen, đang thao thao chừng như bất tận chuyện đầu làng cuối xóm, chợt cất tiếng: "Thôi nghe!", rồi cúp máy…

Trong khi phác thảo truyện dài Hợp Lưu, hoàn tất xong một chương, ông đều gửi cho nguyệt san Văn và được chủ nhiệm kiêm chủ bút là nhà văn Mai Thảo cho phổ biến nguyên vẹn, không cắt xén những ngữ cảnh "ngôn tình" nhạy cảm.  

Cố nhà văn Võ Phiến luận bàn về những chi tiết này trong bài Tựa cho Hợp Lưu như sau:

"Trong Hợp Lưu thỉnh thoảng gặp một cảnh ái ân, đôi khi một cảnh ái ân nồng nàn, tôi sắp sửa ngại ngùng thì đã nghe đâu đó lời chị Liên ôn tồn bảo Quế: 'Em hãy tìm Chân trong Vọng đi (…) Em chấp trước rồi em ạ.' Tôi bẽn lẽn về chỗ nhát gan của mình.

Hồ Trường An không 'chấp trước'. Anh không ngại các bộ phận cơ thể, các hoạt động sinh lý mà người đời kêu là bẩn thỉu. Anh viết về những cái ấy tự nhiên, khơi khơi, như viết về chuyện hò hát trên sông rạch, về bướm bay chim hót trong vườn. Anh không xem cái gì là bẩn thỉu, cái gì là trong sạch, 'cao quí'."

Khi truyện được in thành sách, tất cả những chi tiết phô diễn cảnh ái ân tay đôi, tay ba bị cắt bỏ. Chỉ còn lại đây đó:

"Marie Louise và Thúy hoàn toàn trái ngược nhau. Marie Louise rất sexy, nhưng da trắng đến ớn lạnh. Khi nàng trút bỏ áo quần lót, điểm nổi bật nhất trên màu da trắng đục như nước cơm vo là hai đầu vú màu hồng dịu như nụ hoa và mảng lông giữa cặp đùi rất rậm vàng chóe cùng màu với màu tóc hoàng kim óng ả của nàng." (Tr. 27) Hoặc: "…Trong cuộc làm tình, Marie Louise thích rên rỉ, gầm gừ, nói tục tĩu. Con người của nàng khi giao tiếp trong xã hội là một mẫu người thanh lịch, ăn mặc sành điệu, cử chỉ khoan thai. Thế mà trên chiếc giường, nàng hiện thân là con thú cái tìm đủ cách để tăng cường khoái cảm… Lăng có đem vận sự về Marie Louise kể cho Liên nghe. Liên có vẻ suy nghĩ rồi bảo:

- Em khó chịu về cái mùi hôi của Marie Louise phải không? Chị không trách em ở điểm đó đâu. Nhưng chỉ tiếc cho em khi ái ân với cô ta không hưởng trọn vẹn và tràn đầy khoái cảm. Cái tâm phân biệt của em lớn quá, biến cho cái goût của em chỉ thưởng thức được mùi thơm ở người con gái mà thôi. Nhưng nếu em yêu được cái mùi hôi ấy thì trong lúc làm tình với cô ta em đã có một thiên đường cảm giác đấy." (Tr. 90-91)

Đôi khi, giữa những dòng chữ rậm rực nhục cảm trần trụi ấy, sau những lý lẽ của nhân vật Liên, bất chợt lóe lên trong Lăng những tia sáng nhị nguyên:

"…Bao giờ cũng vậy, Liên cố quán tưởng cái đẹp và cái xấu chỉ là Một. Đó là mặt xấp và mặt ngửa của một đồng tiền, cái này dính vào cái kia, tùy lúc mà phơi bày. Yêu cuộc đời là phải chấp nhận trọn vẹn một đồng tiền, cả mặt xấp lẫn mặt ngửa, phải đi xa hơn sự yêu thích đối với cuộc tiểu tiện và cái phóng uế nhỏ nhặt giữa thiên nhiên bao la. Yêu cuộc đời là phải chấp nhận cái xấu ngang ngửa hoặc nhiều hơn cái đẹp để rồi trong cái xấu, với lòng thanh tịnh, với tâm từ bi, anh làm biểu lộ cái đẹp mà chỉ riêng anh cảm nhận được thôi." (Tr. 91-92)  

Trong nhiều thập niên dài, lúc sức khỏe và bút lực sung mãn, nhà văn Hồ Trường An sáng tác gần như không ngưng nghỉ. Trong văn đàn ngoài nước thuở ấy, chỉ có hai nhà văn có thể sống bằng ngòi bút: Hồ Trường An và Nguyễn Ngọc Ngạn.

Sau Hợp Lưu, một quyển sách kén người đọc, chiều theo thị hiếu độc giả, nhà văn Hồ Trường An chỉ còn viết về những đề tài đồng quê miền Nam. Văn tài của ông là những đoạn miêu tả món ăn, hoa cảnh, chim muông, vải vóc, những món cổ ngoạn, nữ trang, … kèm theo những mẩu đối thoại rặt ròi Nam kỳ tính. Vì lẽ đó mà ông được gán cho biệt danh "nhà văn miệt vườn" hay "bà già trầu". Và, đặc biệt hơn cả, ông thường đem triết lý Phật giáo lồng vào tác phẩm mình. Hợp Lưu cũng không nằm ngoài những nguyên tắc đó. Nhưng khác, vì trong truyện dài này, ông đã thắp lên những luồng sáng rực rỡ của đời sống tha hương, nhằm xua đuổi bóng tối ảm đạm, tròng tréo những hình ảnh quê nhà đeo bám trong ký ức.

Hãy đọc lại một vài trích đoạn:

"…Nhưng khi qua lễ Pâques, hoa vô kiên bắt đầu nở thì chim én từ phương xa kéo về, loài sơn ca, đỗ quyên và chim trĩ cũng bắt đầu liên hoan trên đồng lúa mì óng ả như nhung biếc, trên đồng cây cải dầu vàng rực như lụa tằm và trên đồng cây cải đường xanh bát ngát…" (Tr. 15). Hoặc:

"Thường vào mùa đông, trong dịp nghỉ cuối tuần, cả hai thường đưa nhau đến vùng quê, làng Saint Benoist chẳng hạn để ăn cơm trưa. Ở đó có chiếc quán nhỏ, trần và sàn lót gỗ ván đánh si, lò sưởi kiểu cổ bằng đá, đốt bằng gỗ. Cả hai uống rượu vang đỏ, ăn dồi heo với khoai tây chiên, sau cùng là món phó mát làm bằng sữa dê. Dồi heo andouillette ở vùng Champagne ngon nổi tiếng. Phó mát làm bằng sữa dê ở đây tuy không bằng loại phó mát ở miền núi Alpes, nhưng cũng có cái ngon riêng, mỗi khi có dịp đi Longueville, Jean Paul thường tìm mua…" (Tr. 40). Và:

"…Tuần qua, vào dịp sinh nhật của Jean Paul, nàng mua một bộ đồ trà bằng sứ Bavière, loại sứ nhẹ màu sữa vẽ hoa đào màu hường nhạt, lá non tươi. Nàng mua thêm sáu chiếc đĩa Robert Haviland in bông uất kim hương thật mảnh mai và duyên dáng, một bộ tách bình cà phê bằng sành Manoir màu nâu vàng. Riêng Lăng và Thúy tặng Jean Paul sáu cái tách cà phê và bình trà (có thể đựng cả cà phê) bằng sành Pommier 'Déor Lupin' màu nâu nổi vân màu gạch nung vẽ những chùm linh lan màu thiên thanh." (Tr. 106)

 

Cho tới bây giờ, vẫn chưa có nhà phê bình văn học nào đề cập khách quan và cặn kẽ văn nghiệp đồ sộ và đa dạng của cố nhà văn Hồ Trường An. Chỉ thấy lác rác đây đó dăm ba bài nhận định, của Nguyễn Mạnh Trinh hay của Thụy Khuê.

Một trích đoạn trong "Hồ Trường An, giọng Nam, hồn Việt" của nhà phê bình văn học Thụy Khuê ([2]):

"Tháng 11 năm 2008, Hồ Trường An bị đứt mạch máu não, bị liệt nửa người, phải ngừng sáng tác nhưng ông vẫn tập đánh máy lại và tiếp tục viết biên khảo.

Tháng 11 năm 2019, Hồ Trường An bị nhiễm trùng phổi, phải nằm bệnh viện gần hai tháng. Đầu tháng giêng 2020, mới được về nhà, nhưng không còn sức để bình phục trở lại.

Cho đến những ngày cuối, Hồ Trường An vẫn thiết tha, không ngừng suy tư và bàn bạc về các tác giả trong văn học miền Nam và hải ngoại, ông vẫn mong một ngày đất nước sẽ thống nhất trong văn học và trong lòng người.

Hồ Trường An là một trong những nhà văn nền móng của văn học hải ngoại, cùng với Nguyễn Mộng Giác, Du Tử Lê, Võ Đình, Kiệt Tấn; trẻ hơn có Đỗ Kh. và Trần Vũ.

Nhưng Hồ Trường An đã không được đánh giá đúng mức, thậm chí còn bị coi thường, với những biệt hiệu như nhà văn miệt vườn, bà già trầu... mới nghe tưởng là tôn vinh, thực ra, ẩn dấu một sự kỳ thị ngầm có ý chê bai tiếng Nam quê mùa, lại được Hồ Trường An kể lể dài dòng như đàn bà con gái.

Hồ Trường An qua đời ngày 27/1/2020, ở Troyes, Pháp."

*

Để kết thúc bài viết này, tôi ghi lại một đoạn văn trong Hợp Lưu đã để lại trong tôi những ray rứt không bao giờ phai trong tâm khảm:

"Hôm qua, trời mênh mang nắng úa. Mặt trời mùa đông tuy có sáng nhưng tái ngắt. Lũ ác là kêu chát chúa trên cây phong. Lũ quạ đen bay sập sợn trên ruộng cải đường…" (Tr. 88)

Và cảm nhận của cố nhà văn Võ Phiến trong bài Tựa:

"Đã lâu lắm, tôi không có dịp gặp lại những con ác là, con quạ sập sợn như thế trong truyện. Thời buổi bây giờ là thời buổi của những lý tưởng cao đẹp, của chính nghĩa ngời ngời, của chiến đấu hy sinh cao cả v.v…, ai nấy mãi hăng say vươn lên nhìn tới, không có thì giờ cúi xuống cái thường nhật nhạt nhẽo. Hồ Trường An nhìn xuống cái nhạt nhẽo, nhìn với tất cả tâm hồn mình. Và quả nhiên không uổng công. Một cái nhìn trìu mến nồng nàn như thế, chiếu vào một xác chết tưởng cũng có thể khiến xác chết trở nên hồng hào sống động, cựa quậy được, huống hồ là xuống cuộc sống thường nhật của những cặp nam nữ đang yêu nhau."


Ngô Nguyên Dũng

(09.2024)


([1]) Đã có lần, trong một cuộc điện đàm, cố nhà văn Hồ Trường An tiết lộ cho tôi biết mớ tài sản trong trương mục của ông. Một con số mà cá nhân tôi suốt đời không dám nghĩ tới.

([2]) http://thuykhue.free.fr/stt/h/HoTruongAn1.html

 

========

Tiểu sử nhà văn Hồ Trường An (1938-2020):

Tên thật của nhà văn Hồ Trường An là Nguyễn Viết Quang. Ông sinh ngày 11.11.1938 tại xóm Thiềng Đức, làng Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long, trong một gia đình có truyền thống văn học. Thân phụ là nhà thơ Mặc Khải, tên thật Nguyễn Viết Khải, tác giả hai tập thơ Sông Nước Cổ ChiênPhấn Nội Hương Đồng. Cô là thi sĩ Phương Đài, tác giả hai tập thơ Đất MẹHiến Lễ Mùa Thơ. Chị là Nguyễn thị Băng Lĩnh, bút danh Nguyễn thị Thụy Vũ. Cùng với Nguyễn thị Hoàng và Túy Hồng, bà là một trong ba khuôn mặt nữ nổi danh của văn học Miền Nam trong thập niên 1960, với những tác phẩm Mèo Đêm, Lao Vào Lửa, Chiều Mênh Mông, Khung Rêu, ...

Trước 1975, sau khi hoàn tất chương trình trung học, song song với nghĩa vụ quân sự là sĩ quan báo chí, Hồ Trường An còn là ký giả văn nghệ và kịch trường cho nhiều nhật báo, tuần san và nguyệt san tại Sài Gòn dưới nhiều bút danh khác nhau.

Năm 1977, ông sang Pháp theo diện bảo lãnh và cộng tác tích cực với nhiều nguyệt san văn chương tại hải ngoại: Quê Mẹ (Pháp), Làng Văn (Canada), Văn, Văn Học (Hoa Kỳ), ...

Truyện dài Phấn Bướm là tác phẩm đầu tiên của ông, sau khi được phổ biến từng kỳ trong nguyệt san Làng Văn, được nhà xuất bản cùng tên ấn hành năm 1986. Trong những thập niên 1980, 1990, ông và Nguyễn Ngọc Ngạn là hai tác giả có những mặt sách được tiêu thụ nhiều nhất và có thể sống bằng nghề viết văn của mình.

Quyển biên khảo văn chương Trên Nẻo Đường Nắng Tới là tác phẩm cuối cùng của ông, ấn hành năm 2013.


Tác phẩm đã xuất bản ở Hải Ngoại của nhà văn Hồ Trường An:

Truyện dài:

Phấn Bướm (1986), Hợp Lưu (1986), Lớp Sóng Phế Hưng (1988), Lúa Tiêu Ruộng Biền (1989), Ngát Hương Mật Ong (1989), Còn Tuôn Mạch Đời (1990), Lối Bướm Đường Hương (1991), Tình Trong Nhung Lụạ (1991), Ngát Thơm Hoa Bưởi Bông Trà (1992), Tình Đẹp Đất Long Hồ (1993), Trang Trại Thần Tiên (1993), Vùng Thôn Trang Diễm Ảo (1994), Thuở Sen Hồng Phượng Thắm (1995), Chân Trời Mộng Đẹp (1995), Bãi Gió Cồn Trăng (1995), Bóng Đèn Tà Nguyệt (1995), Tình Sen Ý Huệ (1999), Hiền Như Nắng Mới (2001), Chiếc Quạt Tôn Nữ (2002), Màn Nhung Đã Khép (2003), Đàn Trăng Quạt Bướm (2005), Trở Lại Bến Thùy Dương (2009).

Tập Truyện:

Chuyện Quê Nam (1991), Tạp Chủng (1991), Hội Rẫy Vườn Sông Rạch (1992), Chuyện Miệt Vườn (1992), Đồng Không Mông Quạnh (1994), Gả Thiếp Về Vườn (1994), Đêm Xanh Huyền Hoặc (1994), Chuyện Ma Đất Tân Bồi (1998), Tập Truyện Ma (2001), Quà Ngon Đất Quê Nam (2003), Trăng Xanh Bên Trời Huế (2009), Truyền Kỳ Trên Quê Nam (2009).

Ký Sự, Bút Khảo, Bút Ký:

Giai Thoại Hồng (1988), Thông Điệp Hồng (1990), Cõi Ký Ức Trăng Xanh (1991), Chân Trời Lam Ngọc I (1993), Chân Trời Lam Ngọc II (1995), Sàn Gỗ Màn Nhung (1996), Cảo Thơm (1998), Theo Chân Những Tiếng Hát (1998), Tác Phẩm Đẹp Của Bạn (2000), Chân Dung Những Tiếng Hát I (2000), Chân Dung Những Tiếng Hát II (2001), Lai Láng Dòng Phù Sa (2001), Thập Thúy Tầm Phương (2001), Chân Dung 10 Nhà Văn Nữ (2002), Tập Diễm Ngưng Huy (2003), Chân Dung Những Tiếng Hát III (2003), Bảy Sắc Cầu Vồng (2004), Giai Thoại Văn Chương (2006), Náo Nức Hội Trăng Rằm (2007), Thắp Nắng Bên Trời (2007), Quê Nam Một Cõi (2007), Giữa Đất Trời Giao Hưởng (2008), Non Cao Vực Thẳm (2011), Ảnh Trường Kịch Giới (2012), Trên Nẻo Đường Nắng Tới (2013).

Tập Thơ:

Thiên Đường Tìm Lại (2002), Vườn Cau Quê Ngoại (2003).