TỰ DO CÙNG NGÔN NGỮ
50
Năm Văn Học Tiếng Việt Hải Ngoại
1975-2025
ký ảnh của Trang Hoàng
Đỗ Trường
Mai Thảo– Người Giữ Lửa Cho Văn Học Việt Hải Ngoại
Đỗ Trường sinh 1960- người gốc gác Nam Định. Tốt nghiệp trung học 1978. Học đủ các nghề từ Nam ra Bắc đều bỏ giữa chừng- quay về Hà Nội sống với gia đình.
Năm 1987 sang Đức lao động- và ở đó đến nay tròn 38 năm.
Nhà văn Đỗ Trường khởi nghiệp đam mê viết tiểu thuyết. Nhưng khi bước qua lĩnh vực phê bình văn học, Đỗ Trường được độc giả Hải Ngoại, nhất là độc giả từ Miền Nam Việt Nam Cọng Hòa sống khắp nơi trên thế giới, vồn vã đón nhận. Điều gây chú ý ở các bài phê bình của Đỗ Trường,, có lẽ đến từ tính suy nghĩ tự do, suy nghĩ độc lập, và lòng yêu mến văn chương không bị khép nép o ép vào “Đảng Tính” mà anh hấp thụ từ nền Giáo Dục Cọng Sản ở Miền Bắc thời niên thiếu và trưởng thành . Các bài phê bình của Đỗ Trường có thể xem như là những bài đầu tiên thể hiện tính “Giao Lưu” giữa 2 nền Văn Chương Nam Bắc Quốc Gia Cọng Sản, trong sáng nhất. Của một nhà văn tuy được giáo dục từ lò Cọng Sản Miền Bắc, nhưng có được dấu hiệu cởi mở tìm hiểu, thành thật quan tâm, và hồn nhiên nhận định, về nền Văn Chương Miền Nam. Tuy vẫn còn những hạn chế về nguồn dữ liệu tham khảo khi tìm đến nên Văn Học Miền Nam trước 1975, nhưng bước tiên phong của Đỗ Trường đáng được ghi công và lưu ý một cách đặc biệt.
Tác phẩm đã xuất bản:
1- Những Vết Thương Không Bao Giờ Thành Sẹo. Truyện ngắn, Vipen Berlin,2013
2- Từ Hộ Chiếu Buồn Đến Đau Thương Hành. Chân dung và phê bình, Vipen Berlin, 2015
3- Không Thể Sống Trong Im Lặng. Chân dung và phê bình, Vipen Berlin 2017
4-Sau Tiếng Chuông Chùa, truyện ngắn, Vipen berlin 2019
6- Về Miền Ký Ưc, truyện dài, Viet Duc, 2020
5-Men Còn Đọng Lại Nơi Đáy Vò, chân dung và phê bình, Nhân Ảnh 2022
7- Mùa Trăng, truyện ngắn- tùy bút, Nhân Ảnh 2023
8- Chân Dung Văn Học Một Góc Nhìn, Chân dung - phê bình, Nhân Ảnh 2024
*Vài nét về Văn
học Việt hải ngoại.
Dường như, nói đến Văn học hải ngoại, ta
thường nghĩ ngay đến cái mốc 30 tháng 4-1975, khi người Việt ồ ạt trốn chạy, bỏ
nước ra đi. Nhưng với tôi, có lẽ không hẳn vậy. Bởi, Văn học hải ngoại đã được
manh nha từ trước 1975 khá lâu, với những cây viết phần lớn là du học sinh.
Ngay từ thập niên 50, ngoài tác phẩm Đời Phi Công của Nguyễn Xuân Vinh, ta thấy
đã xuất hiện hàng loạt các nhà thơ viết rất hay, mới lạ: Cung Trầm Tưởng, Hoàng
Anh Tuấn, Nguyên Sa, Minh Đức Hoài Trinh… Đến thập niên 60, 70 cùng với nhà phê
bình Đặng Tiến, các văn thi sĩ: Thi Vũ, Đỗ Quỳnh Dao, Mai Ninh, Phan Thị Trọng
Tuyến… (Pháp Quốc) và ngoài ra còn có nhà văn Ngô Nguyên Dũng (Đức) nhà thơ Lê
Hân (Hoa Kỳ/ Canada) cũng để lại ấn tượng khá sâu sắc trong lòng người đọc. Họ
đều là sinh viên, do vậy thời gian này viết không nhiều. Tuy chưa đậm nét, song
nó như những viên gạch lót đường cho những sáng tác sau này của họ, cũng như
Văn học Việt hải ngoại.
Khi đọc Văn học Việt hải ngoại từ sau 1975
đến nay, tôi thường (tạm) chia ra thành ba giai đoạn để theo dõi, đánh giá. Có
thể nói, giai đoạn đầu từ năm 1975 đến cuối 1979 như một sự chuyển tiếp của Văn
học miền Nam ra vùng đất mới, với những nhà văn, nhà thơ: Võ Phiến, Mặc Đỗ, Du
Tử Lê, Viên Linh, Linh Bảo, Thanh Nam, Túy Hồng…
Giai đoạn hai, từ đầu năm 1980 đến 1990 sự
khởi sắc Văn học hải ngoại. Bởi, ngoài thành lập Hội văn bút Việt hải ngoại
(1979) thuộc Văn bút quốc tế và người đứng đầu là Minh Đức Hoài Trinh, còn có
thêm sự góp mặt của các nhà văn, nhà thơ thuyền nhân, hay đoàn tụ như: Mai
Thảo, Duyên Anh, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân
Hoàng…Và đặc biệt sự xuất hiện của các nhà văn, nhà phê bình trẻ: Lê Thị Huệ,
Trần Trung Đạo, Hoàng Mai Đạt, Đỗ K (Khiêm) Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng, Khánh
Trường hay Trần Vũ, Hồ Đình Nghiêm, Nguyễn Ngọc Ngạn, Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn
Vy Khanh… với giọng văn mới lạ, đưa sinh khí mới đến văn thơ Việt hải ngoại.
Từ 1990 đến nay với sự góp mặt các nhà văn
H.O, và chính phủ các nước bảo lãnh như: Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên, Nhã Ca,
Trần Dạ Từ, Thảo Trường…cùng những người lính, tù nhân cũng là chứng nhân của
lịch sử buộc phải cầm bút: Phạm Tín An Ninh, Song Vũ, Trạch Gầm, Lâm Chương,
Cao Xuân Huy hay Vương Mộng Long…Vì vậy có thể nói, Văn học hải ngoại đã bước sang
trang mới, với nhiều đề tài, đa sắc. Đề tài chiến tranh, người lính vẫn còn ám
ảnh, đè nặng lên ngòi bút của các văn nhân thi sĩ. Song có điều đáng tiếc, mảng
phê bình ậm ạch, chưa thể song hành cùng sự phát triển đa dạng của thơ văn. Ta
có thể thấy, ở hải ngoại có nhiều nhà lý luận, phê bình, biên khảo tài năng.
Tuy nhiên, các bác vẫn giữ lối viết chung chung, lừng khừng, chưa đi thẳng vào
từng tác phẩm, tư tưởng tác giả một cách rạch ròi, né tránh những vấn đề mang
tính thời sự, hoặc tác phẩm gai góc, va chạm. Nhất là đối với những nhà văn mới
và các tác phẩm gần đây. Mà phần đông tác giả là những người lính thất trận,
trải qua năm tháng dài tù tội.
Việc thành lập Hội văn bút Việt hải ngoại
ngoài sự nỗ lực của nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh cùng các cộng sự, ta còn thấy
đó là nhu cầu tất yếu của Văn học hải ngoại. Bởi vậy, trước dấu mốc quan trọng,
và sự khởi sắc ấy, nhà văn Mai Thảo sau một thời gian cộng tác với Báo Đất Mới
của Thanh Nam, ông đã tái lập Tạp chí Văn. Một tạp chí ông đã từng phụ trách ở Saigon
trước 1975. Ở đó, Mai Thảo không chỉ đưa những tác phẩm của các nhà văn tên
tuổi đến với người đọc, mà ông còn phát hiện, nâng đỡ nhiều nhà văn trẻ. Cả
cuộc đời không vợ con, có thể nói Mai Thảo đã dành trọn vẹn cho văn học nghệ
thuật, kể cả những lúc cuộc sống cô đơn, bi đát nhất.
Mai Thảo tên thật là Nguyễn Đăng Qúy, sinh
năm 1927 tại Nam Định trong một gia đình phú hào. Do vậy, ông được học hành,
kết giao bạn bè rộng rãi. Tuổi trẻ ông đã từng tham gia kháng chiến. Rồi cũng
như Phạm Duy, Minh Đức Hoài Trinh… khi đã nhận ra sự thật, Mai Thảo bỏ về
thành. Năm 1954, ông di cư vào Nam. Ở Saigon, Mai Thảo chủ trương thành lập Tạp
chí Sáng tạo. Ngoài ra, ông còn là linh hồn Tạp chí Văn, và tham gia Chương
trình văn học nghệ thuật ở Đài phát thanh Saigon cho đến 1975. Năm 1977 Mai
Thảo vượt biên và định cư tại Cali-Hoa Kỳ. Ông mất ở đó vào đầu năm 1998.
Cùng với bút danh Nguyễn Đăng, Mai Thảo
viết trên 50 tác phẩm, đủ các thể loại từ tùy bút, truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch bản phim, tiểu luận cho đến thi ca. Nhưng đọc Mai Thảo, mảng truyện ngắn
tùy bút, và thi ca cho tôi nhiều cảm xúc hơn cả. Bởi, sự trộn tùy bút vào
truyện ngắn làm cho văn xuôi của Mai Thảo lóng lánh, giàu chất thơ. Với biện
pháp thay đổi trật tự từ ngữ (cấu trúc cú pháp) câu văn, tạo nên âm hưởng ngân
vang, du dương. Đây là nghệ thuật đặc sắc trong văn xuôi Mai Thảo. Tuy nhiên,
đôi lúc do quá lạm dụng miêu tả, lạm dụng cảm xúc, nên Mai Thảo có những câu
văn dài dòng, chậm, nhạt và sáo cho độc giả cảm giác mệt mỏi, ngại đọc.
Và đọc Mai Thảo, ta có thể thấy, không chỉ
trong cuộc sống, mà tư tưởng tự do sáng tạo nhất quán, xuyên suốt, đậm nét trên
trang văn, và cuộc sống Mai Thảo: “Để con người vẫn được làm người, và trái
đất vẫn còn là trái đất, chúng ta cần phải tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do.
Tự do là máu huyết của chúng ta. Tự do là không khí là hơi thở. Con người không
thể mất được máu huyết không khí và hơi thở“. (Thư gửi người bên kia vĩ
tuyến)
*Vẻ đẹp mang tính chân thực, với lòng nhân
bản, vị tha qua nghệ thuật tùy bút, truyện ngắn đặc sắc Mai Thảo.
Hiệp định Genève 1954 cắt ngang hình đất
nước. Đến với tự do, con đường duy nhất không riêng nhà văn, mà mọi người buộc
phải rời bỏ Hà Nội vào miền Nam. Bởi, Hà Nội đã hết nắng. Hà Nội đã thiếu không
khí, thiếu hơi thở. Màn đêm đen trùm kín cả Hà Nội… Trong hoàn cảnh, tâm trạng
ấy, Mai Thảo đã trộn truyện ngắn vào tùy bút để viết nên “Đêm giã từ Hà
Nội“. Có thể nói, đây là một trong những truyện ngắn hay chân thực nhất của
Mai Thảo. Ở đó, ta không chỉ thấy tài năng miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật,
mà còn thấy sự liên tưởng phong phú, với những hình ảnh ví von, so sánh sâu sắc
qua biện pháp tu từ của ông. Và giọng văn thật nhẹ nhàng, truyền cảm, Mai Thảo
làm cho người đọc nhiều cảm xúc, như được trở về thời gian, không gian của trên
bảy chục năm trước, khi phải rời xa Hà Nội:
“Phượng nhìn xuống vực thẳm. Hà Nội ở dưới ấy.
Từ chỗ anh đứng, Phượng nhìn sang bờ đường
bên kia. Những tảng bóng tối đã đặc lại thành khối hình. Từng chiếc một, những
hàng mái Hà Nội nhoà dần. Phượng nhìn lên những hàng mái cũ kỹ, đau yếu ấy,
giữa một phút giây nhoè nhạt, anh cảm thấy chúng chứa đựng rất nhiều tâm sự,
rất nhiều nỗi niềm. Những tâm sự câm lặng. Những nỗi niềm nghẹn uất. Của Hà
Nội. Của anh nữa. (…) Trên đầu Phượng, những ngọn lửa nhìn xuống. Ấy là những
con mắt đau yếu của một Hà Nội không ngủ. Những ánh lửa tròn, nhợt nhạt, bé
nhỏ, bị giam chặt giữa bóng tối. Phượng nghĩ đến những vì sao xa xôi đứng chết
ở một góc trời cũ. Hệ thống ánh sáng Hà Nội đã hết bay múa. Bóng tối dềnh lên
những đường lung linh. Từng điểm lửa gục đổ.“ (Đêm
giã từ Hà Nội)
Với tư tưởng tự do như vậy, cho nên ngay từ
những ngày đầu cầm bút tính nhân bản, lòng vị tha dường như đã đi sâu vào trang
văn Mai Thảo. Và “Trên những ngả đường không oán thù“ là một truyện ngắn
điển hình cho đặc điểm này. Tuy nó không nằm trong số truyện ngắn, tùy bút đặc
sắc nhất về mặt nghệ thuật của Mai Thảo, nhưng tính hiện thực, lòng vị tha đã
vượt lên trên tính nghệ thuật ấy. Ở đó, ta còn thấy sự giải quyết mâu thuẫn nội
tâm nhân vật rất hay và sâu sắc qua ngòi bút của nhà văn. Lòng hận thù của Quận
trưởng Hoàng với Xuân (đội cải cách) lên đến đỉnh điểm. Nhưng khi biết Xuân
cũng di cư vào Nam, Hoàng đã tha thứ, dù trong lòng đầy mâu thuẫn. Bởi vậy, đọc
“Trên những ngả đường không oán thù“ ta không chỉ thấy hình ảnh tàn nhẫn
của cải cách ruộng đất hiện lên một cách chân thực, sinh động, mà còn thấy lý
trí, tư tưởng Mai Thảo thật rõ ràng, trước nỗi đau, mất mát đó:
“Xuân đập bàn hét lớn. Y sô ghế tiến lại trước mặt ông cụ:
- Tên địa chủ này còn là bố một thằng Việt gian phản động. Nó đang làm quận trưởng ngụy quyền. Nhân dân đòi đền tội.
Ông cụ già cứ quỳ như thế mà nhận lấy trận đòn thù. Như thế suốt đêm. Cũng là trận đòn cuối cùng. Buối sáng hôm sau chúng kéo lê ông cụ về đến đầu ngõ rồi bỏ đi. Ông cụ bỏ mình ba hôm sau (…)
Hoàng liền tìm đến chỗ Xuân ở, mang theo khẩu súng lục và những viên đạn anh định dành cho y. Hình ảnh người chết hiện lên. Những ảnh đuốc lửa bập bùng của đêm đấu tố. Căm thù.
Vậy mà đến giữa hẻm, Hoàng quay trở ra. Anh bỏ căm thù, bỏ ngõ tối lại sau lưng.
(…) Anh nghĩ đến Xuân. Đến cuộc sống mới
Xuân tìm thấy được ở bên này. Giúp cho những người như Xuân được trở lại làm
người, anh đã đánh thêm một đòn chí tử vào thành lũy Cộng sản. Mở cho những
người như Xuân một lối thoát là gấp rút thêm sự đổ vở của Cộng sản, là gây được
niềm tin tưởng ở Tự Do cho những người còn ở lại bên kia. “. (Trên
những ngả đường không oán thù)
Không chỉ khi đã định cư, tị nạn ở Hoa Kỳ,
Mai Thảo có ước mong trở về: "Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do
và tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở đây nhưng nội tâm thì rất buồn bã.
Buồn cho dân tộc tôi. (…) Chúng tôi cảm thấy như bị đánh mất phần hồn."
mà ngay từ thập niên sáu mươi ở Saigon ông đã mơ có ngày trở về nhà ở vùng biển
Chợ Cồn, nơi sinh ra và lớn lên. Bởi vậy, có thể nói, nỗi nhớ nhà, nhớ quê
thường trực trong ông. Ước mơ, và khát vọng ấy, cho Mai Thảo cảm xúc viết nên: “Căn
nhà vùng nước mặn“. Một tuyệt bút của ông. Với tôi, đây là tùy bút toàn
bích nhất trong sự nghiệp sáng tạo (văn xuôi) của Mai Thảo, cũng là một trong
những tùy bút hay, cảm động nhất của nền Văn học Việt Nam kể từ trước đến nay.
Bởi, ngoài giọng văn trữ tình, sâu lắng, dường như ta còn thấy những kỷ niệm,
hay đồ vật, cảnh vật xung quanh Mai Thảo đều có linh hồn và cuộc sống riêng: “Mái
nhà ngó xuống, cửa sổ nhìn ra, nước trong lòng bể nhìn lên, quê hương vây lấy
tôi“. (Căn nhà vùng nước mặn). Và lời văn đẹp, trau chuốt truyền cảm giàu
chất thơ là đặc điểm nổi bật nhất trong văn xuôi của Mai Thảo, chứ không chỉ ở
bút ký này. Nếu gọi ông là nhà văn của cảm duy cảm, duy mĩ thì cũng đúng thôi:
“Tôi sẽ về. Thẳng một mạch. Như con chim sẻ
qua hàng nghìn đỉnh cây, hàng nghìn nóc nhà, vào thẳng cái tổ của nó trên kẽ
mái. Tôi sẽ đi theo sức hút mầu nhiệm của một hình ảnh đẹp. Mỗi cây số đường
gần thấy lòng ấm nóng trở lại. Cảm động và thơ dại trở lại. Đôi mắt tôi rưng
rưng, tâm hồn tôi dịu xuống và tôi đi băng băng. Tôi về thẳng căn nhà cũ của
tôi. Những đoạn đường cuối cùng không có bạn hữu, khuất bóng thành phố, không
tiếng động - tôi muốn thế - tôi sẽ về nhà một mình. Đó là lúc buổi chiều. Nắng
đồng vàng bụi. Vòm trời đỏ thẫm. Bóng tôi đổ xuống con đường nhỏ. Qua những lá
tre ngón tay. Hết một con đê chân trời. Khỏi một gốc đa cũ, đến một dòng sông
hiền từ chảy dưới một chân tường. Mặt tường ghi những chữ vụng dại tôi đã viết
lên, gửi đi cái kiến thức sơ đẳng của quyển sách vỡ lòng lên mặt tường cũ” (Căn
nhà vùng nước mặn)
Thành thật mà nói, tôi rất khoái đọc truyện
ngắn, tùy bút mang tính thời sự của Mai Thảo. Dù mảng đề tài này, ông viết không
hay cho lắm, nhưng tư tưởng, trang viết rất rạch ròi. Thật vậy, bác viết trắng
phớ ra thế này, chả trách bị quy cho cái tội biệt kích văn hóa. Để rồi sau 1975
bác phải chui lủi, trốn chạy. Rất may, bác không bị vào rọ, bằng không số phận
bác sẽ là Vũ Hoàng Chương thứ hai. Ta hãy đọc lại lời văn cảm nhận rất dân dã,
chân thực về bên kia vĩ tuyến của Mai Thao ở trích đoạn trong: “Câu chuyện
của chị Ngự“ dưới đây, giọng điệu sao giống mấy cụ bà ở miền biển Chợ Cồn
quê ông, mắng rủa nhau đến thế:
“Từ những tiếng sóng hoàng hôn của vũng
biển cũ đến tiếng cỏ lá sao động trong đêm rừng, vẫn chỉ là một hình thái của
thiên nhiên bên cạnh những tâm tình rộng lớn của người tự do. Bên kia vĩ tuyến,
đất Cộng Sản không có tiếng động. Biển Cộng Sản không có tiếng sóng. Rừng Cộng
Sản không có tiếng lá. Đời sống Cộng Sản không có tiếng người. Chỉ có những
hình người. Không có những con người. Đất bên ấy ngập ngụa những đồng chí,
những cán bộ, những anh hùng. Nhưng con người thì không có nữa“.
Thay đổi trật tự từ ngữ, hay dấu ngắt nhịp
trong câu văn, dường như Mai Thảo đã thành công thi pháp mới sáng tạo để câu
văn ngắt, hay trải dài theo cảm xúc. Tuy nhiên, đôi khi câu văn dài dòng, rườm
rà gây cảm giác nặng nề cho người đọc. Bởi vậy, không phải ai cũng khoái đọc
Mai Thảo. Và“Một chuyến tàu trên sông Hồng“ là tùy bút được nhiều người
biết đến của Mai Thảo, nhưng có những câu (hay đoạn văn) lòng thòng, rối rắm,
chứng minh điều đó:
“Một gói muối vừng rang mặn, mẹ ngồi xổm
rang vừng trên cái bếp kiềng ba chân, trong căn nhà bếp sát vách chuồng trâu
khói rơm kết đóng thành bồ hóng phủ kín như một lớp rêu đen nhẫy trên các đầu
kèo, mẹ giã vừng bằng chày gỗ trong cối đá có vân xanh, mẹ xát vừng trên cái
nia tre nhỏ, rồi gói vào lá chuối tươi cùng khoanh cơm nắm nhuyễn như bột mẹ nấu
trong cái niêu đất nhỏ bằng gạo tám thơm để dành trong lu sành đặt dưới gầm bàn
thờ, bằng nước mưa mùa hè chảy xuống cái bể rêu có ống máng cau dẫn nước từ đầu
chái xuống“.
Có thể nói, Mai Thảo là nhà văn tài năng
hàng đầu về miêu tả thiên nhiên, diễn biến tâm lý nhân vật. Với trí tưởng tượng
và sự liên tưởng phong phú, Mai Thảo không chỉ làm cho lời văn sinh động, sâu
sắc mà còn đưa đến người đọc nhiều điều mới mẻ. Tùy bút, truyện ngắn Mai Thảo
giàu chất thơ, thiên về cảm xúc, với tấm lòng bao dung, nhân ái, do vậy lời văn
sáng và đẹp. Sự thay đổi trật tự của từ ngữ, hay dấu ngắt câu, Mai Thảo có thể
đã thành công về giọng điệu, đặc trưng phong cách riêng, nhưng chưa hẳn đã làm
thỏa mãn không ít người đọc nghiêng về trật tự, cấu trúc truyền thống.
*Trang thơ cứu rỗi linh hồn cô đơn.
Nếu văn xuôi Mai Thảo mở ra, giãi
bày, chia sẻ tâm hồn, cuộc sống với tha nhân, thì thi ca gói gọn lòng mình
trong nỗi cô đơn quạnh quẽ. Ở đó dường như ông mới trút bỏ hết được nỗi lòng
mình. Bởi vậy, những năm cuối đời, Mai Thảo mới chưng cất nên: “Ta thấy hình
ta những miếu đền”. Một tập thơ duy nhất, được xuất bản năm 1989, gói gọn
nỗi cô đơn, buồn đau ấy của ông. Mai Thảo viết phần nhiều thơ tứ tuyệt, mang
tính triết lý, trí tuệ khác với tùy bút nghiêng về cảm xúc của ông.
Sự chia ly là nỗi buồn lớn nhất cuộc đời
Mai Thảo. Một lần ra đi, và một lần trốn chạy, để Mai Thảo không bao giờ được
quay trở về chốn cũ. Nỗi nhớ thương ấy, để ông viết nên: Cành. Một bài thơ với
phép so sánh, đọc lên đau quặn thắt cả tâm hồn:
“Cành đứt lìa mong ngày ghép lại
Vào thân hồng thuỷ ở rừng xa
Mười lăm năm chỉ niềm mong ấy
Cháy bỏng trên từng đốt ngón ta“ (Cành)
Và được gặp lại tưởng là vui, vậy mà sâu
thẳm nỗi buồn trong lòng thi sĩ. Chỗ đặt là một bài tứ tuyệt thật hóm hỉnh, ý
nhị như vậy của Mai Thảo. Đọc nó, tôi bật tiếng cười, nhưng chợt nhận ra, dường
như không phải với tiền nhân:
“Đặt tay vào chỗ không thể đặt
Vậy mà đặt được chẳng làm sao
Mười năm gặp lại trên hè phố
Cười tủm còn thương chỗ đặt nào“
(Chỗ đặt)
Và những đêm dài quạnh quẽ ấy, nhà thơ đã
mượn hoa, mượn trăng để vẽ nên khung cảnh hiu hắt, với bóng hình cô đơn đến tận
cùng của mình: “Sớm ra đi sớm hoa không biết/ Đêm trở về đêm cành không hay/
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu/ Nơi góc tường in cái bóng gầy“ (Không
tiếng). Có một điều đặc biệt, thơ Mai Thảo nghiêng về lý trí, song cũng ăm ắp
hình tượng. Và tài năng liên tưởng, mượn hình ảnh, hình tượng để thổ lộ, giãy
bày, so sánh nỗi buồn đau thật sâu sắc, độc đáo của ông. Thật vậy, “Một
mình“ là bài thơ điển hình, mang hình thức nghệ thuật này của Mai Thảo. Với
hình ảnh từ ngữ, sinh động, có thể nói đây là một trong những bài tôi khoái, và
xúc động nhất trong tập thơ “Ta thấy hình ta những miếu đền” của ông:
“Ngồi tượng hình riêng một góc quầy
Tiếng người: kia, uống cái chi đây?
Uống ư? một ngụm chiều rơi lệ
Và một bình đêm rót rất đầy“
Dù ban ngày, hay lúc nửa đêm dường như cửa
nhà Mai Thảo lúc nào cũng rộng mở. Sự khao khát bạn bè, khao khát tiếng nói,
tiếng động luôn thường trực trong nỗi niềm cô quạnh Mai Thảo. Khao khát là vậy,
song có lẽ, ông chỉ có thể gặp được bạn trong giấc ngủ chập chờn, dưới cơn mưa
rả rích buồn thiu ấy: “Nửa khuya đợi bạn từ xa tới/ Cứa mở cầu thang để sáng
đèn/ Bạn tới lúc nào không biết nữa/ Mưa thả đều trên giấc ngủ đen“ (Đợi
bạn)
Rộng mở là vậy, song Mai Thảo vẫn thấy như
bị giam hãm, cầm tù. Bởi vậy, đọc “Mỗi ngày một“ ta thấy tâm trạng ông
thật bi quan, và chán nản. Và trong cái tận cùng đó:“Gạch miết tới không còn
chỗ gạch“ Mai Thảo muốn tìm đến một sự giải thoát, mang tính vĩnh hằng
chăng:
“Mỗi ngày một gạch mỗi ngày giam
Lên bức tường câm cạnh chỗ nằm
Gạch miết tới không còn chỗ gạc
Gạch vào trôi giạt tới nghìn năm“
Đọc “Ta thấy hình ta những miếu đền“ mang
tính triết luận giữa cực tiểu và cực đại hay vi mô và vĩ mô của Mai Thảo làm
tôi nhớ đến bài Mặt Trời Và Hạt Sương của Trần Mạnh Hảo: “Mặt trời quá vĩ
đại/ Hạt sương quá nhỏ nhoi/ Mặt trời không mang nổi/ Dù một hạt sương rơi/
Nhưng trong hạt sương ấy/ Có bao nhiêu mặt trời“. Không biết hai bác nhà
thơ gốc gác Hải Hậu, Nam Định này có khoái đọc Trang Tử hay không? mà có sự
chiêm nghiệm để viết nên những trang thơ triết lý sâu sắc đến vậy:
“Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương…“
(Ta thấy hình ta những miếu đền)
Mai Thảo làm nhiều thơ mang tính chiêm
nghiệm, triết lý. Và bài thơ nào đọc cũng khoái, và gợi cho ta nhiều điều phải
suy nghĩ như: “Cục Đất“, hay “Em Đã Hoang Đường Từ Cổ Đại“…Và với
tôi “Em Đã Hoang Đường Từ Cổ Đại“ có lẽ là bài thơ thất ngôn toàn bích
nhất của Mai Thảo. Bài thơ gồm 5 khổ, mỗi khổ hoàn toàn có thể là một bài thơ
thất ngôn tứ tuyệt hay. Và khổ cuối cùng dưới đây, không chỉ có lời thơ rất
đẹp, mang mang hồn cổ phong, chạm đến triết lý nhà Phật, mà ta còn thấy sự
chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ:
“Đừng khóc dẫu mưa là nước mắt
Đừng đau dẫu đá cũng đau buồn
Tâm em là Bụt tâm anh Phật
Trên mỗi tâm ngời một nhánh hương“
Tiếng hú gọi trong không gian tĩnh lặng đến
ghê sợ đó, dường như Mai Thảo muốn quẫy đạp, gào thét phá bỏ bằng một trận
cuồng phong chăng? Tôi không rõ, Mai Thảo viết bài thơ “Gọi Thức“ trong
tâm trạng, và hoàn cảnh như thế nào. Bởi vậy, tôi đọc bài thơ theo nhiều tầng
ngữ nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, đặt và đọc “Gọi Thức“ ở thơ về thế sự xã
hội, cho tôi nhiều cảm xúc hơn cả. Đọc nó, cho tôi nhớ đến “Gió đi dưới
trời“ của Thế Dũng (Berlin). Có lẽ, các bác đang gom hết gió, quyết làm một
trận cuồng phong gửi về quê nhà chăng:
“Này suối này rừng cùng tịch lặng
Đất nín nghìn năm cũng lặng cùng
Dậy đi! Dậy hết thành giông bão
Nhảy dựng ngang đời thế đá tung“
Có lẽ, Mai Thảo và Vũ Hoàng Chương đôi bạn
rất tâm linh tương thông, cho nên năm cuối đời đều để lại bài thơ thất ngôn tứ
tuyệt về kiếp người rất hay, và sâu sắc. Nếu Vũ Hoàng Chương với “Dấu Hỏi
Vây Quanh Kiếp Người“ đọc ai cũng chờn chờn, rợn rợn: “Dấu hỏi vây
quanh trọn kiếp người/ Sên bò nát óc máu thầm rơi/ Chiều nay một dấu than buông
dứt/ Đinh đóng vào săng tiếng trả lời.” thì Mai Thảo: Không Hiểu. Một bài
thơ cũng mang câu hỏi, suốt đời viết văn làm thơ Mai Thảo không thể trả lời. Và
chỉ khi tiếng búa đóng vào săng, hay nằm trong đất, đọc sao trời mới tìm ra lời
giải đáp. Cũng như Vũ Hoàng Chương mở ra cái hữu hạn của đời người, trong cái
vô hạn của vũ trụ thiên nhiên, cuộc sống, Mai Thảo thản nhiên đi vào cõi vô
tận:
“Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi“
Tôi nghĩ, văn thơ Mai Thảo sẽ còn sống mãi, nếu người đọc vẫn còn yêu cái đẹp, và rung động trước nó. Và trên hết, ta thấy cái tình của ông đối với văn chương, đối với bạn bè. Đó là cái giá trị sâu sắc, lâu dài của Mai Thảo. Và cho đến nay, với tôi, chưa có ai có thể thay thế vai trò: NGƯỜI GIỮ LỬA CHO VĂN HỌC VIỆT HẢI NGOẠI của Mai Thảo, trong lòng người đọc.
Đỗ
Trường
Leipzig ngày 11-4-2024