tranh: Vy Tran
Bùi Văn Phú
Tiếng Mẹ Đẻ, Tiếng Anh Của Tôi
Bùi Văn Phú đến Hoa Kỳ từ năm 1975. Tốt nghiệp đại học University of California, Berkeley. Là giáo sư toán tại đại học cộng đồng vùng Bắc California. Là phóng viên độc lập lâu năm cho nhiều báo Tiếng Việt ở Hải Ngoại và các đài BBC, VOA.
Bùi Văn Phú
Cuối tháng 4 năm 1975, khi xe tăng và bộ đội cộng sản miền Bắc tiến vào thủ đô Sài Gòn thì tôi bỏ nước ra đi.
Ba tháng sau được định cư ở Mỹ. Bước vào đời sống mới, xa lạ. Bỡ ngỡ và buồn vui lẫn lộn. Lúc đó chỉ chú tâm vào việc học tiếng Anh cho nhanh để hiểu mọi chuyện chung quanh, từ việc đi chợ, mua sắm, đi học hay xem tivi, nghe đài. Tiếng Việt xem như muốn quên đi, vì thấy không cần thiết và cũng không còn có cơ hội sử dụng lại trong đời sống thường nhật như khi còn ở quê nhà.
Nhưng nào tôi có quên được tiếng mẹ đẻ vì trong giấc mơ, nhiều khi là những cơn ác mộng thấy tôi nói chuyện với người thân, bạn bè và có khi sợ vì bị kẹt lại ở quê nhà nên la ới ới bằng tiếng Việt. Xa gia đình mới vài tháng mà tưởng thời gian đã thăm thẳm trong quá khứ.
Ghi danh học ESL ở Berkeley Adult School và trong vòng 4 tháng cuối của năm 1975 tôi đã học từ sơ cấp, trung cấp rồi lên cao cấp. Tôi nhớ thày Sayre của lớp cao cấp nói tiếng Anh chỉ mấp máy miệng nên khó nghe và thày chú trọng đến ngữ vựng, hay gọi học trò là Mr. hay Ms., Mrs. rồi cho một chữ và học sinh phải lập lại phát âm, đặt chữ vào câu và nói cho cả lớp nghe. Một lần thày gọi: “Mr. Bui, versatile”. Tôi trả bài cho thày: “Versatile. He is a versatile person.” – Anh ấy là một người đa tài. Tôi chỉ biết làm câu đơn giản thế thôi.
Bài học về văn hoá, thày hỏi tên của từng học trò có ý nghĩa ra sao. Tôi giải thích “Phú” nghĩa là “rich” và Bùi là “taste like peanut.” Cô bạn học người Nhật, tên Kimyo Minakata tiếng Nhật có nghĩa “strange southerner” – người miền nam xa lạ, mà tôi còn nhớ vì cô đã giúp tôi gửi thư về Việt Nam liên lạc với gia đình. Các bạn khác tên Dominic, tên John hay Peter, Paul là tên của các thánh trong Thiên Chúa Giáo mà tôi đã biết.
Tôi nghĩ về các tên gọi trong tiếng Việt, nếu người miền Nam hay đặt tên như anh Hai, cô Ba, dượng Tư, thím Năm, chú Sáu thì dịch ra tiếng Anh dễ vô cùng: Two, Three, Four, Five, Six… Hay Hùng, Dũng, Tài, Chiến, Cúc, Lan, Mai, Dung, Hạnh cũng dịch được. Với tên họ của người Việt là Trần, Võ, Ngô, Lê dịch sát nghĩa là “ceiling”, “karate”, “corn”, “pear” hay họ Bùi của tôi còn có nghĩa tiếng Anh, như tôi và các bạn đã hiểu một cách ngây ngô trần trụi để thực tập thảo luận trong lớp. Còn Nguyễn, Phạm, Phan, Trương, Mạc thì khó dịch, khó hơn cả dịch kiểu như “no star where” nữa. Vậy là học tiếng Anh nhưng tôi lại có cơ hội ôn tiếng Việt, mà thực ra tôi vẫn phải dùng tiếng Việt, phải nghĩ trong đầu bằng tiếng mẹ đẻ rồi tìm cách dịch sang tiếng Anh, trước khi nói hay viết ra.
Trong các lớp ESL đa số là sinh viên du học đến từ Nhật, Hong Kong, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thuỵ Sĩ, Đức nên ngoài giờ học trong lớp còn có những buổi dã ngoại giới thiệu nếp sống, văn hóa Mỹ. Kỷ niệm mà tôi nhớ nhất là một buổi trưa, cô dạy lớp sơ cấp dẫn học trò xuống dowtown Berkeley ăn hamburger ở tiệm Oscar, góc đường Shattuck và Hearst. Lần đầu tiên ăn món đặc trưng của Mỹ, nướng trên bếp gang, kẹp bánh mì có rau sà-lách, cà chua, hành nướng nên ăn thấy thơm ngon quá. Vì thế sau này tôi không bao giờ thích hamburger ở McDonald’s, thương hiệu ăn nhanh nổi tiếng và là một nét văn hoá Mỹ lan toả khắp thế giới.
Đầu năm 1976, hết học Berkeley Adult School tôi xin vào trường College of Alameda là một đại học cộng đồng.
Lúc học ESL gặp nhiều bạn ngoại quốc, bàn chuyện muốn vào đại học phải có điểm TOEFL (Test of English as a Foreign Language), điểm SAT (Scholastic Aptitude Test) nên tôi cũng đi thi để chuẩn bị vào đại học.
Bảng điểm thi TOEFL năm 1977 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Tháng 2-1976 tôi đi thi TOEFL lần đầu tiên, được 462 điểm, chưa đạt tiêu chuẩn. Một năm sau, tháng 2-1977 đi thi lần hai được 540 là đủ để xin vào các đại học 4 năm.
Trong bảng kết quả điểm, native country thì thấy ghi “Vietnam”, còn native language là tiếng mẹ đẻ thì không hiểu sao không được gọi là “Vietnamese” mà ghi “Annamese”. Hoa Kỳ đã can dự vào Việt Nam trong 20 năm, hàng triệu lính Mỹ đã có mặt tại Việt Nam, chính phủ Mỹ đã chi tiêu cả trăm tỉ đôla ở đó, thế mà trung tâm tổ chức thi tiếng Anh cho sinh viên nước ngoài lại thiếu cập nhật ngôn ngữ thế giới, vì “Annamese” là thời Pháp thuộc còn “Vietnamese” đã được dùng ít ra từ ngày tôi học tiếng Anh lớp Đệ Thất, mà hôm nay trên đất Mỹ, ngôn ngữ Việt vẫn được gọi là “Annamese”. Như thế, tôi đến từ Việt Nam thì cũng sẽ được gọi là “Annamese” vì trong tiếng Anh, người Việt hay tiếng Việt đều là “Vietnamese”.
Tháng 12-1976 tôi thi SAT, ngạc nhiên khi thấy điểm toán được 640 trên 800. Trong số học sinh lớp 12 ở Mỹ đi thi đạt mức điểm này hay cao hơn chỉ có 10% còn 90% dưới 640 và nếu tính cả học sinh lớp 10, 11 đi thi SAT thì tôi trong tóp 3%.
Tôi không còn nhớ bài thi ra sao, chỉ nhớ hầu hết là toán đại số vì hình học và lượng giác tôi rất kém và câu trả lời là khoanh tròn A, B, C, D. Chắc chắn không có nhiều bài toán đố (word problems hay applications) vì nếu có nhiều tôi chắc đọc không hiểu để giải và điểm toán sẽ được không cao như thế. Như điểm kết quả của Anh văn, so với học sinh lớp 12 tôi được xếp vào nhóm 6% cuối bảng và phần ngữ vựng tiếng Anh của tôi còn kém lắm sau 16 tháng ở Mỹ, chỉ ở mức 1%.
Điểm TSWE (Test of Standard Written English) tôi được 53 trên 60, trong số học sinh lớp 12 của Mỹ đi thi 23% được 53 hay cao hơn, 77% đạt điểm thấp hơn 53. Vì đã học văn phạm tiếng Anh nhiều từ ngày còn ở quê nhà nên tôi hiểu cách viết và được điểm khá.
Ở College of Alameda, sau khi học mấy lớp toán và được điểm A, tôi có làm tutor trong trường. Việc này giúp tôi học nói tiếng Anh mau hơn và tốt hơn. Có một sinh viên lớp xác suất thống kê nhập môn, cô làm hầu như mọi bài tập ứng dụng (word problems) trong sách nên tôi phải đọc trước để chuẩn bị vì khi đến phòng giúp sinh viên, cô chỉ muốn học với tôi. Cô nói tôi giảng bài rõ ràng và dễ hiểu.
Điểm SAT dù không cần cho tôi để xin vào đại học nhưng cũng đã định hướng tương lai nghề nghiệp của mình vì ra đời tôi dạy toán và lý hoá. Trong nhiều kỳ thi có toán và viết luận văn tôi luôn đạt đủ điểm đậu ngay lần đầu trong số 50% thí sinh. Sau khi đi nước ngoài làm việc 5 năm, trở lại Mỹ đi thi CBEST để vào học sư phạm thì điểm toán của tôi là 74 trên 80.
Lúc mới qua Mỹ đâu có ai hướng dẫn mình nhiều về đại học. Nghe nói thi nọ thi kia thì cũng đi thi xem khả năng của mình ra sao trên quê hương mới. Nhưng tất cả những kỳ thi tôi đã trải qua trong hai năm từ ngày đến Mỹ lại không cần thiết. Vào đại học cộng đồng không cần điểm TOEFL hay SAT, chỉ cần trên 18 tuổi là trường nhận. Xin chuyển lên năm thứ ba tại Đại học U.C. Berkeley cũng không cần những điểm đó mà chỉ cần điểm GPA của hai năm vừa qua, tôi đạt 3.94 trên 4 và những môn cần cho ngành để lấy bằng cử nhân.
Đơn xin vào U.C. Berkeley của tôi lúc đầu bị từ chối vì chuyển lên năm thứ 3 thì ngoài những lớp chuẩn bị chuyên ngành, một sinh viên cũng phải học xong English 1B, lớp thứ hai của Composition and Reading, và có ít nhất hai năm học ngoại ngữ.
Tôi viết thư yêu cầu nhà trường tái xét và đưa chương trình học hè năm 1977 với lớp English 1B sẽ hoàn tất vào cuối tháng 8. Còn ngoại ngữ tôi giải thích tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, tiếng Anh tôi học từ năm lớp 6 đến lớp 12, như thế có thể coi tiếng Anh là ngoại ngữ của tôi được không. Hay là, vì từ nay tôi sẽ sống ở Mỹ luôn, phải học nói tiếng Anh cả ngày vậy thì tiếng Việt có được xem như là ngoại ngữ hay không?
Sau khi gửi thư đi, chừng hai tuần sau tôi nhận thư trả lời. Nhà trường chấp nhận cho tôi vào học, với điều kiện phải học xong English 1B trước ngày khai trường vào giữa tháng 9, và chấp nhận ngoại ngữ của tôi là tiếng Việt, nhưng tôi phải đi thi.
Mừng mừng, lo lo. Tôi đang học English 1A, chủ yếu là cách viết luận văn các loại như so sánh, tranh luận, bênh chống, hướng dẫn cách làm gì đó, còn 1B là đọc truyện, kịch, thơ và bình giảng. Kịch “A Street Car Named Desire” của Tennessee Williams, tiểu thuyết “Cannery Row” của John Steinbeck tôi còn hiểu, qua thi ca Mỹ thì chịu nên nói với giáo sư cho tôi đọc thơ Việt, trong tập thơ song ngữ “A Thousand Years of Vietnamese Poetry” do giáo sư Nguyễn Ngọc Bích soạn dịch, và thầy đồng ý. Tôi nhớ đã chọn thơ cổ của Bà Huyện Thanh Quan và thơ hiện đại của Trụ Vũ để bình giảng. Cuối tháng 8/1977 tôi hoàn tất English 1A và 1B với điểm A cho cả hai lớp.
Từ khi tới Mỹ tôi thấy tiếng mẹ đẻ không có gì quan trọng mà lo học tiếng Anh cho nhiều, cho nhanh. Nay phải đi thi “tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi” – Phạm Duy, không biết khó dễ ra sao, nhưng hồi hộp vì cần thi đậu để được nhận vào học.
Mười bốn năm tôi được học hành dưới mái trường Việt Nam Cộng hoà. Bậc tiểu học ở trường công lập Nghĩa Hoà, trung học đệ nhất cấp ở trường Thánh Tâm, Ngã ba Ông Tạ, xã Tân Sơn Hoà, quận Tân Bình, tỉnh Gia Định là khu vực có đông người bắc di cư 1954 định cư. Ở đây tôi học từ vỡ lòng i tờ, tập đọc a ă â e ê i o ô ơ u ư y, qua học thuộc lòng, ngữ vựng, tập làm văn, rồi giảng văn, kim văn, thơ lục bát, Đường luật.
Lên trung học đệ nhị cấp, năm lớp 10 học ở tư thục Nguyễn Bá Tòng trên đường Bùi Thị Xuân, Sài Gòn; qua năm lớp 11 và 12 chuyển qua trường Nguyễn Bá Tòng trên đường Hoàng Hoa Thám, Gia Định là thời gian học bình giảng văn chương, viết luận văn. Cuối năm lớp 11 thi tú tài 1 ban B với toán-lý hoá là các môn chính và đậu hạng thứ. Tú tài 2 theo ban A, với vạn vật-lý hoá là chính và cũng đậu hạng thứ.
Lên đại học, tôi học luật. Trong kỳ thi cuối năm thứ nhất, sinh viên bốc thăm hai môn chính để thi viết, các môn còn lại thi vấn đáp, nhưng thực tế không phải là gặp mặt thày hỏi trò trả lời mà sinh viên vẫn làm bài viết, trả lời những câu hỏi ngắn. Một trong hai môn thi viết nghị luận tôi còn nhớ đề thi luật hiến pháp là về việc muốn ra tranh cử tổng thống một ứng cử viên phải có sự đề cử của 60 dân biểu, nghị sĩ trong quốc hội hoặc 120 nghị viên hội đồng tỉnh, như thế có vi hiến hay không? Trong bài viết tôi lập luận điều đó không vi hiến, với dẫn chứng ở Mỹ ứng cử viên phải được sự tiến cử của đảng Dân Chủ hay Cộng Hoà và bên Pháp các ứng cử viên tổng thống cũng có sự đề cử của các đảng, kể cả Đảng Cộng Sản.
Tôi rời Việt Nam với trình độ học vấn và tiếng Việt ở mức đó. Đến Mỹ được hai năm mà phải đi thi tiếng Việt, thấy cũng lạ vì tưởng tiếng mẹ đẻ không còn cần thiết. Nhưng đó là điều kiện nhà trường đặt ra, nên tôi mang bút đi vào trường thi.
Đề thi do trung tâm ngoại ngữ của Đại học U.C. Berkeley đưa ra là bài tường thuật về buổi lễ tưởng niệm triết gia Albert Camus mới qua đời. Đó là bản copi từ một tạp chí văn học xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1961, với 100 chữ, đơn và kép, đã được xoá đi. Tôi đọc bài và điền vào chỗ trống những chữ hay ngữ vựng cho hợp nghĩa.
Kết quả, tôi được chấm điểm như sau: “Mr. Bui has, without doubt, a native command of vietnamese equivalent to or more than 45 units of upper division college language study.” – Không nghi ngờ gì, khả năng tiếng Việt của Ông Bùi là tiếng mẹ đẻ, tương đương với ít nhất 45 tín chỉ của các lớp ngôn ngữ cao cấp tại đại học.
Thế là tôi được nhận vào U.C. Berkeley. Vào trường tôi khám phá ra thư viện có rất nhiều sách của Việt Nam Cộng Hoà và tôi đã đọc được nhiều tác phẩm mà khi còn ở quê nhà không có phương tiện. Cũng từ thư viện trường, lần đầu tiên tôi đọc báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân và nhận ra tiếng Việt của miền Bắc có nhiều khác biệt với miền Nam.
Điều khác biệt đầu tiên là tên nhân vật, địa danh tiếng nước ngoài mà đọc báo Nhân Dân nhiều khi tôi không nhận ra ai hay nơi chốn nào.
1: Báo Nhân Dân, 19/6/1979 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Trích báo Nhân Dân ngày 19/6/1979:
“Theo tin nước ngoài, ngày 17-6 Quân Giải phóng Xan-đi-nô đã giành thắng lợi quan trọng : giải phóng toàn Lê-ôn, thành phố lớn thứ hai ở Ni-ca-ra-goa, cách thủ đô Ma-na-goa 90 ki-lô-mét về phía tây-bắc, bộ chỉ huy quân cảnh vệ của Xô-mô-xa đã phải rút chạy khỏi thành phố này. Tại mặt trận phía nam, sau khi chiếm thành phố Xa-poa, Quân Giải phóng đang tiến về thành phố Ri-át, cách biên giới Cô-xta-Ri-ca hơn ba trăm ki-lô-mét.”
Đọc tin ngắn trên tôi chỉ có thể giải mã được địa danh Ni-ca-ra-goa (Nicaragua), Ma-na-goa (Managua), Cô-xta-Ri-ca (Costa Rica).
Nhiều năm sau, đọc báo Nhân dân vẫn có lối viết như thế. Trích phần Tin giờ chót, ngày 20/03/2010:
* Tại cuộc họp của Nhóm “Bộ tứ” về Trung Ðông ở Mát-xcơ-va, Tổng Thư ký LHQ Ban Ki Mun đã yêu cầu I-xra-en chấm dứt ngay việc xây dựng các khu định cư mới, đồng thời kêu gọi Israel và Palestine nối lại các cuộc thương lượng trong vòng 24 tháng tới.
* Chính phủ Nhật Bản thông báo sẽ cho Indonexia vay 27 tỷ yên để xây dựng nhà máy điện địa nhiệt ở Lu-mút Ba-lai, Nam Xu-ma-tơ-ra. Việc cho vay sẽ được thực hiện thông qua Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA).
* Phó Tổng Thư ký LHQ A. Mi-gi-rô kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy nỗ lực hơn nữa để kết thúc Vòng đàm phán Ðô-ha về tự do thương mại quốc tế trong năm nay.
* Giám đốc Cơ quan tình báo quốc gia Mỹ Ðen-nít Ble đã thăm Ấn Ðộ và thảo luận với Bộ trưởng Nội vụ P. Chi-đam-ba-ran về những biện pháp chống chủ nghĩa khủng bố.
* Bộ trưởng Ngoại giao Argentina Hoóc-hê Tai-a-na thúc giục Chính phủ Anh đáp ứng yêu cầu của LHQ sớm bắt đầu cuộc đàm phán với quốc gia Nam Mỹ này về chủ quyền đối với quần đảo Man-vi-nát đang tranh chấp.
2: Báo Quân Đội Nhân Dân 5/8/1972 (Ảnh: Bùi
Văn Phú)
Trong các tin trên, tôi chỉ nhận ra Mát-xcơ-va (Moskva), Indonexia (Indonesia), Xu-ma-tơ-ra (Sumatra), I-xra-en (Israel) và tên một người là Đen-nít Ble (Dennis Blair) và đoán ra một vài tên khác, nhưng không chắc lắm.
Ngày nay nhờ có Internet nên việc truy ra tên gốc của những địa danh cũng dễ, còn nếu muốn có thêm thông tin về những nhân vật thì khó hơn.
Báo chí Việt Nam Cộng Hoà thường không viết tên theo ký âm như trên mà ghi theo cách ngôn ngữ địa phương, nếu là mẫu tự latinh.
3: Trang nhất nhật báo Tiền Tuyến
10/1/1975 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Trích một bài trên báo Tiền Tuyến ngày 10/1/1975:
“Hồi 10giờ30 sáng ngày 8-1-75 Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn văn Thiệu đã tiếp kiến ông Carlyle E. Maw, Thứ Trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách An ninh quốc tế. Được biết, ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ đã từ Nam Vang đến Saigon sáng thứ Ba 7-1, để thăm viếng VN trong 2 ngày. Hiện diện trong buổi tiếp kiến, về phía VNCH có ông Nguyễn tiến Hưng Tổng Trưởng Kế Hoạch, phía Hoa Kỳ có ông Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại VNCH.”
Ngoài những chữ in đậm mà ngôn ngữ miền Bắc chắc chắn sẽ viết khác, bây giờ đọc lại bản tin trên, theo tôi có nhiều lỗi về cách viết hoa, hay ít nhất thiếu sự đồng nhất trong cách viết, như “Ngoại Giao” hay “Ngoại giao”, tên lót có phải viết hoa không: “Nguyễn văn Thiệu”, “Nguyễn tiến Hưng”; “An ninh quốc tế” chỉ chữ đầu viết hoa, còn “Tổng Trưởng Kế Hoạch” lại viết hoa hết.
4: Báo Tiền Tuyến 10/1/1975 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Trên cùng trang báo, có tin một tin khác, trích dẫn:
“Trong cuộc phỏng vấn được phổ biến hôm thứ Ba, Tổng Thống Mễ Tây Cơ Luis Echeverria nói rằng : ‘Các siêu cường đang chuẩn bị chiến tranh. Tại cả Hoa kỳ lẫn Nga sô đều có một sự tranh chấp về quyền lợi và muốn thống trị thế giới…’”
Ở đây, viết “Hoa kỳ” và “Nga sô” thì cách viết hoa của báo Việt Nam Cộng Hoà đâu khác gì với báo của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Đất nước đã thống nhất 50 năm nhưng cách viết tiếng Việt chưa được thống nhất, như thấy khác biệt giữa nhiều trang mạng thông tin ở hải ngoại và trong nước.
Trong bài viết của mình đôi khi tôi viết “tiêu chí”, “bình quân”, “đăng ký”, “trải nghiệm” có độc giả phê bình, nói tôi dùng ngôn ngữ Việt Cộng.
5: Kết quả kỳ thi tiếng Việt của tác giả tại
U.C. Berkeley năm 1977 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Có những bài được đăng báo, ban biên tập ghi câu: “Bài viết phản ánh quan điểm riêng và văn phong của tác giả, một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.” thì tôi hiểu văn phong của mình là ngôn ngữ mang nhiều nét Việt Nam Cộng Hoà.
Cũng như một số bài viết tiếng Anh của tôi, các bạn Mỹ đọc thấy thoang thoảng mùi nước mắm, không phải mùi hamburger.
Tôi được học dưới mái trường Việt Nam Cộng Hoà nên viết “Thuỷ Quân Lục Chiến” chứ không viết “Lính thuỷ đánh bộ”, “trực thăng” thay cho “máy bay lên thẳng”, “phi công” chứ không phải “giặc lái”, “Bạch Ốc” thay cho “Nhà Trắng” v.v… Tôi viết “nước Mỹ”, không phải “nước Mĩ”, “Hoa Kỳ” không phải “Hoa Kì”. Giới chức trong nước soạn chương trình học tiếng Việt đổi i dài thành i ngắn đã đưa đến chuyện cười ra nước mắt, như tên Thanh Thuý.
Sau khi thi tiếng Việt để được nhận vào U.C. Berkeley, tốt nghiệp đại học tôi đi làm ở nước ngoài vài năm, về lại Mỹ đi học lấy bằng dạy toán, lý hoá, ESL và Việt ngữ. Đi thi sư phạm Việt ngữ ở San Diego State University, sau khi làm bài viết, bài đọc, qua phần vấn đáp là với giáo sư Huỳnh Đình Tế và giáo sư Lê Văn. Đầu thập niên 1990 có cơ hội dạy tiếng Việt tại U.C. Berkeley và College of Alameda nhưng tôi đã từ chối vì vẫn thích dạy toán.
Không biết bây giờ, tại các đại học Mỹ nếu có bài khảo sát khả năng tiếng Việt, tiêu chuẩn ngôn ngữ nào sẽ được áp dụng? Nếu là tiếng Việt như đang sử dụng trong nước, đi thi không chắc tôi có thể đạt điểm cao.
6: Tác giả nói chuyện về tiếng Việt với
sinh viên U.C. Berkeley năm 2002 (Ảnh tư liệu Bùi Văn Phú)
Bùi Văn Phú