video: Đỗ Danh Đôn
Thi Vũ Võ Văn Ái
vì sao Việt Nam không có tác
phẩm
ngang tầm thế giới ?
(Bài nói tại Đại học
Berkeley ngày 19.12.2021
nhân Kỷ niệm 20 Năm Gió O Nắn Net)
Ghi chú : Tôi có thói quen ứng khẩu trong các buổi nói chuyện hay thuyết trình, nên thường không chuẩn bị viết sẵn bài nói. Nhưng sau khi phát biểu, có số bạn đến hỏi xin bài, tôi đành khất và hứa sẽ viết lại. Hôm ấy, chương trình phát biểu và văn nghệ khá dài và phong phú. Thời gian hạn hẹp, nên bản thân tôi cũng tự chế rút ngắn bài nói, bỏ bớt các điều cần trang trải. Nay tôi viết lại thành bài để cung cấp và giữ lại đôi lời trong gió…
Tôi thực sự xúc động nghe lời giới thiệu của chị Chủ biên Trang Văn Triết Sử Gió O ưu ái vinh danh cuộc đời tôi, một cuộc đời đeo đuổi văn học và vận động nhân quyền cho đất nước, nhân ngày Kỷ niệm 20 Năm Gió O Nắn Nét tổ chức tại Đại học Berkeley.
Cảm tạ hai bạn Lê Thị Huệ và Nguyễn Vũ Khuyên cùng Ban Tổ chức Gió O đã quan tâm đến cá nhân tôi. Cảm tạ quý vị, quý cô bác, anh chị và các bạn bỏ mọi công việc nghỉ ngơi ngày chủ nhật đến đây cho chúng ta gặp gỡ, hàn huyên. Thời gian là điều quý nhất trong đời mà chúng ta dành để cho nhau.
Trước đây trong lời mời tham dự, chị Chủ biên đề xuất tôi nói đôi lời, nhưng không ra đề bài. Nên tôi không chủ tâm chuẩn bị. Cũng may chúng ta sống trong khuôn viên đại học Berkeley cạnh thành phố San Francisco nơi xứ sở văn minh, tự do, tôi không phải soạn bài trình Tuyên giáo lấy ý kiến trước khi phát biểu.
Thôi thì tôi cứ nói lan man những chi thoáng qua đầu.
Sang năm tới, 2022, nước Pháp kỷ niệm 400 năm Kịch tác gia Molière. Hiện đang có phong trào vận động đưa Molière vào điện Pantheon, là ngôi đền Tổ quốc ghi ơn các danh nhân Pháp. Giới trí thức và văn nghệ sĩ Pháp cũng khám phá lại Molière, kịch tác gia từng dám đương đầu đối nghịch quyền bính.
Tôi nhớ thời trẻ khoảng năm 1950 theo học Lycée Yersin ở Dalat, có đoàn kịch thuộc Hí viện Quốc gia Pháp du lịch Việt Nam. Một vị giáo sư đề nghị họ đóng một màn kịch Molière. Thế là những nam nữ kịch sĩ trẻ trung ăn mặc áo quần đời thường diễn ngay một mục nơi lớp học. Họ thuộc lòng vai diễn, tự nhiên, sống động, chẳng ngại ngùng, vấp váp. Chúng tôi phục quá. Lòng nhớ mãi cuộc tiếp xúc lần đầu với giới văn nghệ sĩ Pháp.
Sau này du học Pháp, tôi ở trọ nơi căn hộ ở quận nhất Paris, cách trăm bước Hí viện Quốc gia Pháp, nên có nhiều dịp vào xem hí kịch với trang phục thời xưa của Pháp.
Người đầu tiên cách tân lối diễn hiện đại Molière là diễn viên tài hoa Louis Jouvet. Ông tham gia Thế chiến thứ nhất, bị thương nên giải ngũ rồi sang Hoa Kỳ sống. Sau trở về Pháp, ông phá bỏ cách diễn cổ điển Molière từ nhiều thế kỷ qua. Không chỉ là hài kịch mà làm bộc lộ các khía cạnh ẩn kín của bi kịch Molière trên các lĩnh vực chính trị, xã hội, nhân bản hay cách mạng.
Nhiều người vẫn nghĩ Molière chỉ chú trọng nam giới qua các vở diễn của mình. Không ngờ rằng ông rất quan tâm tới nữ giới, chẳng hạn qua các vở L’Ecole des Femmes (Trường Nữ), Le Malade immaginaire (Người bệnh tưởng), hay Le Tartuffe…
Qua ví dụ trên chúng ta thấy rằng văn nghệ sĩ hay tác phẩm sống, phát triển như cây rừng, mãi mới sáng tạo khi được nẩy nở trong một xã hội khoan hoà, tự do.
Một câu hỏi đeo đuổi tôi hằng chục năm trường, là tại sao đất nước khổ đau tận đáy như thế, địa ngục kinh qua hai cuộc chiến 30 năm, máu xối xương chồng, hàng triệu mạng người vùi chôn chưa kịp trối. Thế mà sao chẳng có tác phẩm nào làm thốn tâm nhân loại ?
Tôi chợt nhớ đến bức hoạ thốn tâm Guernica của danh hoạ Picasso.
Ngày 26 tháng 7 năm 1937, hai mươi tám chiếc máy bay của phát xít Đức, Ý, đồng minh của chính quyền quân phiệt Franco, cày nát thị trấn Guernica. Hàng nghìn dân lành bị thảm sát, chưa kể súc vật, nhà cửa.
Nửa tháng sau, Picasso được Cộng hoà non trẻ Tây Ban Nha đặt vẽ tranh tham gia Hội Chợ Paris năm 1937.
Picasso bắt tay vẽ cảnh chết chóc thảm khốc Guernica trên tấm tranh 3,5 m chiều cao, 7,8 m chiều ngang, bằng hai màu đen trắng như ông thấy các bức hình chụp đăng báo thời ấy.
Tranh Guernica của
Picasso
Tranh gây chấn động khách thăm xem Hội chợ. Sau đó, tranh được trưng bày khắp nơi tại Châu Âu, Bắc Âu, Nam Mỹ… Đến đâu cũng gây chấn động lương tri, rưng cảm khách thưởng ngoạn, giao hòa lòng họ với mối thương cảm nạn dân thành Guernica. Nỗi oan dân Guernica không cần vạch trời vấn nạn, mà đi thẳng vào lòng nhân loại.
Trước khi qua đời, Picasso di chúc tranh chỉ được đưa về cố hương Tây Ban Nha khi nào chế độ độc tài Franco sụp đổ. Trong khi chờ đợi, Picasso gửi nhờ Bảo tàng MoMa ở New York, Hoa Kỳ, cất giữ. Thời chiến tranh Việt Nam vừa qua, phòng tranh trưng bức Guernica của Picasso ở MoMa là nơi hội họp chiêm ngưỡng của giới thanh niên, sinh viên vận động cho hoà bình Việt Nam như đến cầu nguyện ở ngôi đền Hoà bình.
Đến năm 1981, tranh Guernica mới rời bảo tàng MoMa về lại quê hương Tây Ban Nha. Một bảo tàng mới mang tên Nữ hoàng Sophia dựng lên làm nơi đón và lưu giữ bức tranh tuyệt tác.
Cùng thì chiến tranh hay nội chiến như Việt Nam, nhưng văn hào Tolstoy đã viết thành tác phẩm Chiến tranh và Hòa bình ngang tầm thế giới. Sách là bức tranh vô cùng lớn về nước Nga phong kiến, về cuộc đấu tranh giành tự do của nhân dân khoảng 25 năm đầu thế kỷ 18, và miêu tả hai cuộc chiến, từ cuộc viễn chinh nước ngoài năm 1805-1807 đến cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812.
Còn tình hình văn học, văn nghệ nước ta tiến triển ra sao sau cuộc nổi dậy của toàn dân năm 1945 ?
Sau một thời gian ngắn ngủi mấy năm của toàn dân tham gia kháng chiến giành độc lập, chúng ta có được những dòng văn thơ lóng lánh hồn người, hồn dân tộc. Xuất hiện như sự chồm tới, làm mới và vượt cao khỏi thời đại Thơ Mới, như Bên kia Sông Đuống của Hoàng Cầm :
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về bên kia sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng ngiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô, nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
…
Hay Quang Dũng trong bài Tây tiến :
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
…
Hoặc Hữu Loan với bài thơ khóc người vợ trẻ trong chiến chinh. Bài thơ bị chính quyền kháng chiến cấm phổ biến, nhưng rồi cả nước ai cũng biết, cũng học thuộc lòng, được nhiều nhạc sĩ ở Miền Nam phổ thành ca khúc Màu tím hoa Sim :
Nàng
có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang
xanh
Tôi
người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như yêu
người em gái.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo
mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh bết bùn
Đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến
binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương người vợ
chờ bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
mà chết
Người gái nhỏ hậu
phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày
cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau
nói
Không được nhìn nhau
một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa
sim tím
áo nàng màu tím hoa
sim
Ngày xưa
một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm
áo
ngày xưa...
Cũng Hữu Loan nhưng hơi thơ đầy hạo khí, ngát hồn thiên cổ qua bài Đèo Cả :
Đèo Cả ! Đèo Cả !
núi cao ngất
mây trời Ai Lao sầu đại dương
dặm về heo hút
Đá bia mù sương
…
Đặc biệt với Nguyễn Đình Thi qua bài Sáng mát trong như sáng năm xưa :
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em
Gió thổi mùa thu vào Hànội
…
Những câu thơ, những bài thơ Nguyễn Đình Thi bị đem ra tranh luận tại Hội nghị Tranh luận Văn nghệ ở Việt Bắc (25 – 28.9.1949). Tố Hữu công kích đã đành, mà Xuân Diệu, Thế Lữ, Thanh Tịnh cũng chê thơ Thi. Thế Lữ cảnh báo thơ Nguyễn Đình Thi “nguy hiểm và còn là một cái nguy cơ”. Lưu Trọng Lư đòi “tống cổ ra khỏi nền văn học mới, nền văn học kháng chiến và cách mạng”. Ấy chỉ vì trào lưu văn học lúc này, năm 49, đã đi vào đường lối văn học Diên An của Mao Trạch Đông bên Tàu, nền Văn học trại lính nhằm tuyên truyền vận động giới Công, Nông, Binh.
Từ đó trở về sau văn học Miền Bắc chỉ bước hai bước thông qua nền Văn học Tố Khổ rồi nền Văn học Chấn thương.
Chưa thấy bước thứ ba.
Cuối tháng 11 vừa qua, Hà Nội tổ chức Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần 3. Báo chí trong nước đồng loạt tụng ca “sức lan toả của Hội nghị Văn hoá Toàn quốc lần 1” ngày 25.11.1946 dưới quyền chủ toạ của ông Hồ Chí Minh 75 năm trước. Trước những ngợi ca hậu kỳ này, tôi đọc thấy lời bình phẩm của nhà văn, nhà biên khảo Lại Nguyên Ân cho rằng “Mấy chuyên gia viết bài về vụ này gần đây, dù gì cũng chỉ kế thừa tình trạng “mù thông tin” suốt 70 năm ! Chả thế mà có những diễn ngôn “chắp cánh” vô lý và vô lối !”.
“- Nói sức lan toả của Hội nghị Văn hoá Toàn quốc lần thứ nhất” – Thật sự hội nghị chỉ họp một ngày rồi các đại biểu về lo tản cư rời Hà Nội, cái “lan toả” chỉ là tản cư”.
Riêng tôi, dư vị của Hội nghị Văn hoá lần thứ nhất ấy cho tôi được biết tên tuổi những nhà trí thức, học giả lừng danh vào buổi bình minh giải phóng dân tộc. Đó là 15 Uỷ viên Văn hoá được bầu ra tại Hội nghị lần thứ nhất nhằm phục vụ văn hoá cho dân và nước. Mười lăm vị ấy nay ở đâu, họ đã làm được gì suốt 75 năm qua ?
Ngoại trừ một số vị tiếp tục theo con đường mòn Hồ Chí Minh, còn tám vị đã bị đào thải, truy bức, thảm sát, tù tội một cách phi văn hoá, hay tị nạn văn hoá ra nước ngoài như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn :
- Nguyễn Mạnh Tường
- Khái Hưng
- Nguyễn Hữu Đang
- Hồ Hữu Tường
- Hoàng Xuân Hãn
- Đào Duy Anh
- Nguyễn Thiệu Lâu
- Trương Tửu.
Nói theo sự đánh giá của Nhà Biên khảo Lại Nguyên Ân, thì “từ Hội nghị Văn hoá Toàn quốc lần thứ 2 ở Đào Giã năm 1948, văn hoá thành tên hề đồng lóc cóc chạy theo Tuyên giáo của Đảng làm thứ Văn hoá minh hoạ. Đổi mới “cởi trói” được vài năm rồi “trói lại”.
Văn học, văn nghệ làm con ngựa thồ cho Đảng. Văn nghệ sĩ mồ côi ý tưởng. Sáng tác trở lại cái gọi là “thuật nhi bất tác”. Chỉ kể lại, chỉ tả lại cái Đảng muốn mọi người theo gương. Chẳng còn gì là sáng tạo, sáng tác.
Cái Tôi thời đại quá lớn đã chèn ép, nghiến đè những cái tôi cá thể hồn nhiên vạm vỡ của tất thảy chúng ta, khiến xã hội hồn xiêu phách lạc.
Gần đây tôi đọc được một số bài phê bình văn học Trung quốc dưới chế độ Cộng sản, đặc biệt của nhà Hán học Đức nổi tiếng Wolfgang Kubin. Ông là Chủ nhiệm khoa Hán học tại Đại học Bonn.
Có lúc ông chê một số nhà văn Trung quốc làm thứ văn học “rác rưởi” gây phản ứng mạnh dư luận bên Tàu. Tuy nhiên do học vấn thâm sâu, ông là dịch giả các sách Lão Tử, Trang Tử, Không Tử, Cao Hành Kiện… nên được giới học giả Tàu quý trọng mời ông diễn thuyết khắp nơi qua các Đại học về văn học Trung quốc. Chữ “văn học rác rưởi” ông dùng trở thành “thuyết rác rưởi” mà các tác gia Trung quốc sử dụng đánh giá bản thân văn học nước họ.
Một số điểm phê phán văn học Trung quốc đương đại của Wolfgang Kubin là :
- Trước năm 1949, văn học Trung quốc có thể sánh với Pháp, Ý, Tây Ban Nha…, nay chỉ sánh ngang văn học Đông Âu, không có tầm cỡ thế giới;
- Nhà văn đương đại Trung quốc không biết sáng tác văn học, không nắm vững tiếng mẹ đẽ, ngôn ngữ bị chính trị phá hỏng;
- Khuyết điểm nổi bật là không có tư tưởng, không tự mình suy nghĩ mà để người khác nghĩ hộ;
- Trung quốc không có văn nghệ, chỉ có nhà buôn văn học. Nhà văn Trung quốc viết dài dòng, viết nhanh, viết ẩu. Do nhuận bút tính theo số chữ nên họ quan tâm lượng chữ hơn nội dung văn bản;
- Nhà văn Trung quốc không biết ngoại ngữ, không đọc được các tác phẩm văn chương thế giới;
- Wolfgang Kubin đề cao Lỗ Tấn có năng lực ngôn ngữ, có tư tưởng riêng, dám nói tiếng nói của mình. Nhờ thế mà A Q Chính truyện trở thành nhân vật quốc tế. Ông cũng chê Kim Dung thoái bộ về mặt sáng tác;
- Ông cho rằng Mạc Ngôn được giải Nobel Văn học vốn nhờ lý do chính trị hơn văn chương. Tất cả nhờ công lao dịch giả tài ba Mỹ Howard Goldblatt. Goldblatt dịch những đoạn chọn lọc, bỏ các đoạn không cần với tiếng Anh trau chuốc nên Uỷ ban Nobel không thấy ra sự vụng về trong nguyên tác;
- Wolfgang Kubin cũng chê Cao Hành Kiện, một giải Nobel Văn chương khác, dù ông từng là dịch giả của Cao.
Tiếc thay chúng ta không có một bình luận gia tầm cao như Wolgang Bukin bình luận về văn học đương đại Việt Nam.
Tuy nhiên qua các phê phán của Kubin ta nhận ra phần nào sự tương đồng của văn học, văn nghệ đương đại Việt Nam. Không biết ngoại ngữ và không tiếp cận văn học thế giới vẫn còn là điểm yếu của một số lớn nhà văn Việt Nam. Qua Facebook, nhà văn Vương Trí Nhàn cho biết : “Trong những năm trước 1975, văn học Mỹ hiện đại ít được biết tới ở Hà Nội (…) Trên các trang lý luận, phê bình của báo chí từ nước ngoài bị cấm cửa”. Mãi đến năm 1973, nhà văn Vương Trí Nhàn mới đọc được Hemingway ! Trong loạt bài Nhật ký chiến tranh, ông nói lên nỗi ngạc nhiên khi đến chiến trường Quảng Trị thấy qua các nhà dân “nguỵ”, lính “nguỵ đầy sách, từ tiểu thuyết đến lịch sử, triết học, sách đánh giá cân bằng vai trò Gia Long và Quang Trung… Ông bắt gặp các tạp chí Tư Tưởng, Đối Diện nói về Sartre, Machado, Brecht…
Nhiều văn nghệ sĩ hay xuất thân bộ đội đều thán lên về lượng sách phong phú các thể loại mà họ tìm thấy qua các lần tịch thu văn hoá phẩm nguỵ sau 75.
Nhà văn Trung Trung Đỉnh nhắc lại qua một cuộc phỏng vấn : “Tôi được đặc cách chọn sách quý khuân về, cho vào mấy cái tủ sắt cất kỹ. Đi chiếu bóng, hễ cứ rỗi tí nào là đọc sách. Đọc nhiều, đọc liên tục. Đọc mờ cả mắt! Đọc sướng lắm! Đó chính là thời gian tôi đọc được nhiều sách nhất, đủ loại, từ văn học cho đến Kinh Thánh… Hồi ấy ở miền Bắc làm gì có!”.
Văn học đã không thể sinh sôi nơi Xã hội Chủ nghĩa, nơi người ta chỉ chú tâm tới chính trị sắc máu, chẳng ai quan tâm con người. Nói tới người, họ chỉ quan tâm con số, số đông – tập thể. Bỏ quên mọi thân phận cá thể.
Cho nên không thể đẻ ra tác phẩm ngang tầm thế giới !
Vì sao như vậy ?
Vì lãnh đạo văn hoá, văn học Việt Nam chìm đắm trong sự nô lệ tinh thần và vọng ngoại. Hơn 70 năm qua đa số giới lãnh đạo Cộng sản ở Hà Nội chỉ muốn làm người học trò ngoan ngoãn của Mao Trạch Đông. Suy nghĩ, viết lách, hành động, nhất nhất đều theo lối Mao viết kiểu Khổng viết nhiều thế kỷ xưa.
Cuộc rèn cán chỉnh quân ở Việt Bắc từ 1949 trở đi là học tập phong trào Chỉnh phong của Mao bên Trung quốc khởi đầu năm 1941, tức đảng phong, học phong, văn phong. Thực tế, chỉnh phong trá hình âm mưu cho Mao dựng vị trí bá chủ trong lĩnh vực tư tưởng. Hậu quả gây chết chóc, thanh toán hàng chục nghìn trí thức, văn nghệ sĩ người Hoa. Một năm sau Chỉnh phong, xuất hiện văn kiện chủ yếu trong việc lãnh đạo văn hoá, văn học, gây ảnh hưởng sâu đậm biến thành nhược thức Việt Nam. Đó là Bài nói chuyện của Mao tại cuộc Toạ đàm Văn nghệ ở khu chiến Diên An gồm Diễn văn khai mạc Mao đọc hôm 2 tháng 5 năm 1942 và Diễn văn kết luận đọc hôm 23 tháng 5 năm 1942. Xuống lệnh trỏ ra ba vấn đề chính yếu :
- Lập trường, lấy lập trường giai cấp vô sản,
- Thái độ, phân biệt bạn – thù,
- Đối tượng, lấy Công Nông Binh làm đích cao phục vụ.
Tuy Mao noi gương, ca tụng tiếp thu cuộc vận động văn học và dân chủ Ngũ tứ đầu thế kỷ. Kỳ thực phương hướng văn nghệ đấu tranh Mao đề cao ở Diên An nhằm phục vụ chính trị. Chẳng dính chi tới cuộc vận động Ngũ tứ mang hai mục tiêu rõ rệt :
Ngoại tranh quốc quyền
Nội tranh quốc tặc
Dựng lên nền độc tài trong văn học khác chi kẻ chạy đua một mình, dù chân què thọt, cũng sẽ luôn luôn về nhất.
Dưới cái nhìn của nền văn học, văn nghệ Diên An, quần chúng văn nghệ sĩ người Hoa bấy giờ phủ nhận tất cả di sản quốc gia và thế giới. Shakespeare bị xem là tên phản động, Balzac là tên đầy tớ của chủ nghĩa nhân đạo tư sản, Tolstoy là tên địa chủ cuồng tín đạo Cơ đốc, Đỗ Phủ là tên vô lại, tranh Tề Bạch Thạch bị xé vứt…
Một năm sau Bài nói chuyện của Mao, năm 1943, người học trò An Nam Trường Chinh mô phỏng Mao viết ra Đề cương Văn hoá Việt Nam làm cuộc vận động Tân văn hoá Mác xít cho Việt Nam.
Trong Đề cương văn hoá này, Trường Chinh chia văn hoá Việt Nam ra làm hai thời kỳ :
- “Thời Quang Trung trở về trước, văn hoá Việt Nam nửa phong kiến, nửa nô lệ;
- “Thời Quang Trung trở về sau cho đến Pháp thuộc, là văn hoá phong kiến có xu hướng tiểu tư sản.
Ông Trường Chinh muốn làm chuyện to tát là văn hoá, tiếc thay sự hiểu biết về văn hoá và lịch sử Việt Nam của ông còn sơ lược, thô thiển. Ông không hiểu rằng chế độ phong kiến chỉ tồn tại ở các nước phương Tây. Tại Á châu, Trung quốc, Nhật Bản có chế độ phong kiến. Việt Nam thì không. Chế độ phong kiến vua chia đất, phong hầu. Người được phong hầu sống bằng thuế dân cư ngụ trên thái địa mình. Còn ở Việt Nam không như thế. Việt Nam theo chế độ quận huyện do quan cai trị. Đến như thời Vua Hùng cũng chia làm 15 bộ đặt quan cai trị, không có những tiểu quốc chư hầu như dưới chế độ phong kiến các nơi.
Lạ thay, Trường Chinh và một lô chính trị gia Việt Nam không ngớt và không ngừng gào kêu “Chống Phong kiến” suốt bảy chục năm qua. Làm sao chống cái không có ?!
Một trí tuệ kỳ vĩ như cụ Phan Khôi, một nhà báo, nhà văn, nhà thơ, dịch giả, học giả, đã từng viết bài phân tích Lịch sử nước ta không có chế độ Phong kiến đăng trên báo Phụ Nữ Tân văn từ năm 1934 ở Saigon – 87 năm trước !
Đề cương Văn hoá của ông Trường Chinh không úp mở gì nữa khi đề cao vai trò độc tôn lãnh đạo văn hoá, tư tưởng của người Cộng sản. Ông viết :
“Cách mạng văn hoá muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
Ông đề ra 3 nguyên tắc vận động văn hoá mới : Dân tộc – Đại chúng – Khoa học.
Ông đề cao “Duy vật Biện chứng đánh đổ những sai lầm của triết học Âu Á : Khổng Mạnh, Descartes, Bergson, Kant, Nietzsche. Chống hết mọi chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v…”. Nghĩa là chống hết không nương tay.
Thật là một chủ trương Hư vô !
Với hướng đi và chủ trương như thế, làm sao có sáng tạo, làm sao có tác phẩm. Nói chi tới tác phẩm ngang tầm thế giới.
Từ thế kỷ 18, Nguyễn Du lấy một tiểu phẩm tiểu thuyết hạng xoàng của Trung quốc viết lại thành thơ ra Truyện Kiều trở nên đại phẩm ngang tầm thế giới. Nhân dân các giới từ nông dân ra thành thị, từ công nhân đến học sinh, sinh viên, trí thức ai cũng ngâm nga, làu thuộc, ngưỡng mộ.
Nguyễn Du đâu cần sự chỉ bảo của Bài nói chuyện Diên An của Mao, cũng chẳng cần Đề cương Văn hóa của Trường Chinh. Nguyễn Du một mình một cõi dựng nên tuyệt phẩm lưu danh. Trong khi hai ông “Thầy đời” Mao và Trương Chinh chẳng làm ra văn hoá, cũng chẳng có tác phẩm gì xứng danh thiên cổ.
MỘT LỜI ƯỚC
Ngày Chủ biên Gió O nhờ tôi vẽ tranh bìa cho Tuyển tập 20 Năm Gió O Nắn Nét mà qúy vị và các bạn đang cầm trong tay. Tôi nghĩ ngay đến chữ Gió của O Gió.
Gió là thinh không bay lượn. Gió lang thang, gió di chuyển, lực động thổi tung mọi trạng thái ù lì, mệt mỏi, chán chường. Gió dựng chống chiều cao của trời, chiều rộng của mây. Gió làm lao xao rừng, gợn sóng nghìn mặt sông biển.
Chợt nhớ một truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc tôi đọc thập niên 50 ở Saigon. Nay đã quên cốt truyện. Nhưng nhớ tên truyện thu hút lạ : “Nhốt gió”.
Tôi lấy bút lông chấm mực tàu vẽ một vòng tròn muôn thưở, đặt chữ Gió vào trong, như gìn giữ một bảo vật khó nắm. Vòng tròn viên mãn hình dung mặt trăng. Biểu tượng tính không (Sūnyāta) của nền triết học Bất nhị Ấn. Cũng là con số không (zéro), căn bản của mọi con số.
Khi Gió đứng trên đầu những con số, nó điều hành gạt bỏ mọi luân hiểm đến từ cái giả hữu tham lam, vô vọng của trần gian.
Dưới mặt trăng chân lý, tôi vẽ khuôn hình chữ nhật. Đặt vào đấy một trào lưu báo chí khởi từ đầu thế kỷ XX đòi hỏi tự do xã hội, tự do sáng tác, tự do kiến thức, tự do tư tưởng, tự do dân tộc, đòi hỏi nữ quyền… Qua những tạp chí tiêu biểu như Sông Hương (1936) của Phan Khôi, Đông Dương tạp chí (1913) của Nguyễn Văn Vĩnh, Phụ nữ Tân văn (1934) của Nguyễn Đức Nhuận, Tiếng Dân (1927) của Huỳnh Thúc Kháng, Phong Hoá, Ngày Nay (1932) của Tự lực Văn đoàn, rồi Nhân Văn Giai Phẩm (1956), v.v…
Một trào lưu đã thành phong triều chuyển động, khai phóng, mà ngày nay Gió O thừa kế.
Một vòng tròn với một hình vuông tượng hình cho ngọn nến sinh nhật, thắp bằng ngọn lửa Gió O. Nhưng cũng hình tượng một bình mực tím thưở học trò.
Nay tôi trông chờ các bạn văn nghệ sĩ hội họp quanh Gió O trong ngày kỷ niệm tuổi xanh 20 tại một khuôn viên đại học Berkeley rộng thinh thơ mộng, sẽ chấm bút vào bình mực này, đưa sức sáng tạo và sáng tác của các bạn làm nên tác phẩm mới ngang tầm thế giới, đuổi xua thời mê ám điêu linh thổi qua trời xanh ta đám mây đen bão tố suốt bảy mươi sáu năm ròng.
Đuổi xua vào nghĩa địa một nền Văn học Tố Khổ nhưng không Cứu Khổ.
Thi Vũ Võ Văn Ái
trái sang phải, hàng trước: Thi Vũ Võ Văn Ái, Vũ Hoàng Thư.
hàng sau: Phượng Đẹp, Lê Thị Huệ, Nguyễn Vũ Khuyên, Ỷ Lan, Ngô Bắc, NAT