Nguyễn Thụy Đan ở buổi thuyết trình tại Berkeley, photo: J. Vy Trân

 

diễn ngôn được trình bày tại buổi sinh hoạt

20 năm Gió-O nắn Net

Đại học UC Berkeley, California chiều Chủ Nhật 19/12/2021

Nguyễn Thụy Đan

quá-khứ ngày mai

 

“Lịch-sử! Lại một danh-từ quan-trọng. Thưa lão-trượng, theo thiển-ý thì…lịch-sử là vật sở-hữu riêng của những người già. Còn kẻ hậu-sinh này, tuổi chưa chớm hai mươi đã làm gì có quá-khứ, mà dám lạm bàn đến chuyện lịch-sử?”

 

Vũ-khắc-Khoan, Thành Cát Tư Hãn (1961)

 

 

Ai là người có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ? Tôi xin mở đầu bằng câu hỏi này. Để gợi ý thêm về bối-cảnh và hàm-ý của nó, tôi xin phép được nói sơ qua về một chủ-đề có vẻ ít tương-quan đến buổi gặp mặt ngày hôm nay. Văn-chương và ngôn-ngữ trung-đại, ít nhất là đối với tôi, bao giờ cũng là một kho tàng vô tận, giúp cho tôi nhìn nhận mới mẻ về những điều mắt thấy tai nghe từ một tâm-thế tự-chủ, không lệ-thuộc vào những diễn-ngôn và mối quan-tâm tuy hoành-hành khắp xã-hội và chi-phối đại-chúng từ cách suy-nghĩ, cho tới cách diễn-đạt những suy-nghĩ ấy thành lời thành văn, song chung quy vẫn chỉ mang tính trào-lưu thời-đại.

         

          Thơ Đường là gì? Những bài thơ lớn, những nhà thơ lớn của thời nhà Đường là những bài thơ nào, những nhà thơ nào? Thiết-nghĩ, ngay cả quý-vị trong hội-trường ngày hôm nay, cho dù có thể không chuyên về Hán-học, không thích thơ văn trung-đại, hay thậm-chí ghét “Tàu” -  song cũng biết tên tuổi những người như Lý-Bạch, Đỗ-Phủ, Vương-Duy, Bạch-cư-Dị, Thôi-Hiệu, hay Mạnh-hạo-Nhiên. Có lẽ, cũng không ít người có thể liệt-kê ra một số danh-tác của những tác-giả trên, chẳng hạn như Tương tiến tửu, Xuân-vọng, Trường-hận-ca, Tỳ-bà-hành, hay Hoàng-hạc-lâu. Kiến-thức này của chúng ta về thơ Đường, về các nhà thơ thời Đường, đến từ đâu? Đối với tuyệt-đại-đa-số độc-giả Việt-nam, có lẽ câu trả lời sẽ nằm gọn trong các tuyển-tập thơ dịch của Tản-Đà hay Trần-trọng-San, trong các bài giảng môn văn của thầy cô trên trường lớp trung-học, đại-học, hay trong những bộ tuyển dịch và chú-giải của những bậc “di-lão” hải-nội hải-ngoại, đến tuổi hưu-trí bỗng dưng nổi hứng khoác áo thầy đồ, tìm vui với cổ-nhân. Nhưng, chẳng riêng gì người Việt, ngay cả đối với độc-giả Trung-hoa, có lẽ nếu một lát nữa tôi bắt tàu hoả xuống Cựu-Kim-sơn, dạo quanh phố Tàu, hỏi một vòng xem xem chúng ta muốn thưởng-thức được tinh-túy và thấu-hiểu được tinh-thần của các nhà thơ đời Đường, thì chúng ta nên đọc từ cuốn nào? Câu trả lời rất có thể sẽ là: “Đương-nhiên rồi, nị muốn hiểu thơ Đường thì phải đọc Đường-thi-tam-bách-thủ chứ!” Đường-thi-tam-bách-thủ, tức tuyển-tập 300 bài thơ Đường soạn vào cuối thế-kỷ 18 của Hoành-đường thối-sĩ Tôn-Thù, một chàng tiến-sĩ đời Càn-Long, ngoài tuyển-tập này ra cơ-hồ không có sự-nghiệp văn-chương đáng kể.

 

          Quả thật, nếu chúng ta muốn đọc thơ Đường như bản-thân người đương-thời đã đọc thơ của chính họ, chúng ta lập-tức gặp phải một trở-ngại nan-giải. Số-lượng tuyển-tập thơ có niên-đại từ thời Đường mà vẫn còn truyền lại đến ngày nay chỉ trên dưới 15 tác-phẩm. Trong đó, có những tuyển-tập như Hà-nhạc-anh-linh-tập của Ân-Phan, tuyển-tập thơ từ năm 714 đến năm 753, tuy cho các nhà nổi tiếng tiêu-biểu thời thịnh-Đường vào trong tuyển, nhưng bản-thân những tác-phẩm được lựa vào tuyển lại không phải những tác-phẩm nổi tiếng sau này. Đáng lưu-ý hơn nữa, trong tập của Ân-Phan hoàn-toàn vắng mặt Đỗ-Phủ, mà vốn-dĩ, vào đầu thập-niên 750 kia, Đỗ-Phủ vẫn là một người vô-danh tiểu-tốt phải viết thơ nịnh hết ông lớn này đến cậu ấm nọ chỉ để sống qua ngày. Như vậy, sự vắng mặt của ông trong một tuyển-tập có mặt hầu hết những thơ lớn sống cùng thời-đại với ông có lẽ chỉ là một tình cờ lịch-sử, chứ không phản-ảnh thiên-kiến của soạn-giả. Lại nói thi-phẩm trong Hà-nhạc-anh-linh-tập, thơ Đường-luật chỉ chiếm khoảng một phần tư - còn lại đều là thơ cổ-phong, đặc-biệt là thơ ngũ-ngôn. Nếu như chúng ta căn-cứ vào Hà-nhạc-anh-linh-tập để nhận-định về thẩm-mỹ và thi-pháp của thi-nhân thời thịnh-Đường, có lẽ khái-niệm “thơ Đường” của chúng ta sẽ không có thơ thất-ngôn bát-cú, không có thất-ngôn tứ-tuyệt. Nhưng rồi, bên cạnh những tuyển-tập thiên hẳn về thơ cổ-phong như tập của Ân-Phan, chúng ta lại gặp phải những tuyển-tập khác như Quốc-tú-tập năm 744 của Nhuệ-đĩnh-Chương, nội-dung đến 90% là luật-thi. Bên cạnh những tuyển-tập dày dặn tác-phẩm các bậc cự-phách của thi-đàn đương-thời, chúng ta lại gặp những tuyển-tập khác như Khiếp-trung-tập năm 760 của Nguyên-Kiết, nội-dung chỉ lẻ tẻ 24 bài của 7 nhà thơ, có lẽ là anh em bạn bè thất-nghiệp của soạn-giả, ngoài Vương-quý-Hữu ra, 6 ông còn lại chẳng còn ai nhớ nổi tên tuổi mặt mũi ra làm sao.

 

          Cho dù chúng ta có đọc thêm những tuyển-tập hiện-tồn từ thời Đường như Trung-hưng-gian-khí-tập năm 788 của Cao-trọng-Vũ, Cực-huyền-tập năm 837 của Dao-Hạp, hay Hựu-huyền-tập năm 900 của Vi-Trang, có lẽ chúng ta vẫn khó có thể phác-thảo cho ra những hình-ảnh quen thuộc trong ký-ức của chúng ta ngày nay khi ôm ấp những khái-niệm về “Đường-thi” của chúng ta. Thậm-chí, nếu chúng ta đọc Tài-điệu-tập của Vi-Hộc, soạn ngay sau khi nhà Đường sụp đổ, có lẽ chúng ta sẽ cho rằng tứ-đại-thi-nhân thời Đường không phải là thi-tiên Lý-Bạch, thi-sử Đỗ-Phủ, thi-phật Vương-Duy, thi-quỷ Lý-Hạ, mà chính là Vi-Trang, Ôn-đình-Quân, Nguyên-Chẩn, và Lý-thương-Ẩn. Rõ ràng, giữa cách đọc, cách hiểu, cách hoài-niệm của chúng ta và các nhà thơ thời Đường về cùng một đối-tượng là điển-phạm văn-học chúng ta gọi là “Đường-thi” là một trời một vực, là ngày và đêm - là sự đối chọi giữa thế-giới lãng-mạn của ấn-tượng và cảm-tưởng, và thế-giới khô khan của khảo-cứu, của văn-bản-học. Một bên là một công-trình tinh-mỹ được dựng nên từ niềm tin và trực-giác. Bên kia luôn hàm chứa mối đe dọa phá vỡ công-trình ấy bằng những chứng-cứ bất-tiện, những khám-phá nguy-hiểm, những sự-thật trái ngang.

 

          Tôi xin trở lại câu hỏi lúc ban đầu: Ai là người có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ? Sở-dĩ tôi mượn điển-phạm Đường-thi để đặt vấn-đề ở trên, bất quá là để chỉ ra sự thiên lệch cố-hữu trong “kho lưu-trữ” (archive) của bất cứ một nền văn-học nào đó, không phải riêng thơ Đường. Cho dù có nhận-thức được sự khập khiễng giữa văn-học-sử như chúng ta có thể mường tượng và góp nhặt được từ tư-liệu hiện-tồn và điển-phạm văn-chương như chúng ta đã tiếp-nhận một cách gần như là giải-lịch-sử-hóa (dehistoricized), trên thực-tế, liệu chúng ta có nên phủ-nhận những cách đọc và nhận-định “lệch thời” của chúng ta, nếu như quyết-định ấy chỉ mang tính tuyên-ngôn hô-hào khôi-phục lại “đặc-quyền” sở-hữu quá-khứ của người xưa chăng? Người xưa đến cuối thời Đường mới bắt đầu mường tượng sơ sơ bút-lực và học-lực không tiền khoáng hậu trong thơ Đỗ-Phủ. Nhưng vì vị-trí hạn-chế của họ trong lịch-sử và thời-cuộc, họ mới chỉ có thể nhận ra vị-trí của Đỗ-Phủ trong bối-cảnh thời-đại của chính họ. Họ chưa thể tưởng-tượng ra vị-trí của Đỗ-Phủ trong điển-phạm văn-chương trung-đại không chỉ là đứng đầu thi-nhân nhà Đường, nhưng đến các triều-đại sau, và cho đến ngày nay, Đỗ-Phủ còn là Đại-Thi-nhân đại-diện cho cả thế-giới trung-đại, cả điển-phạm cổ-điển.

 

Sự thiên lệch không phải bệnh-chứng của riêng cổ-nhân hay kim-nhân. Chúng ta phải dọn cho ngay thẳng những sự thiên lệch ấy không chỉ ở trong tâm-thức của chúng ta, mà còn ở nơi người xưa nữa. Khổng-dĩnh-Đạt, một học-giả lớn thời Đường đã từng soạn chú-giải cho Lễ-ký, đã ghi chép về điều này trong chú-thích của ông cho thiên Thái-học. Khi giải-thích về câu “Dục chánh kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý”, họ Khổng viết: “Nhược dục chánh kỳ tâm, sử vô khuynh-tà, tất tu chí thành tại ư ức-niệm dã.” Nếu như muốn làm cho tâm ngay thẳng, khiến cho tâm không còn thiên lệch, ắt trước hết phải đạt tới thành-thật cùng-cực trong ức-niệm vậy. Ức-niệm là gì? Ức, theo các tự-điển trung-đại có nghĩa là “Ý bất định, vãng lai niệm dã.” Tình-trạng mất ổn-định của ý-chí, đi tới đi lui mà nhung nhớ đến một đối-tượng nào đó. Lại có nghĩa là “Ý dã. Hằng tại ý trung dã.” Ức, tức là ý. Là cái gì đó luôn nằm trong ý của mình. Là sự nhung nhớ về một đối-tượng nào đó đến mức nó trở nên một với ý của chính mình. Niệm, theo ý-nghĩa trung-đại cũng thế: “Niệm, thường tư dã.Niệm, là ấp ủ suy-tư trong nội-tâm mãi chẳng thôi. “Niệm, niêm dã. Ý tương thân-ái, tâm niêm-trước bất năng vong dã.Niệm là dính. Là tình-trạng hai ý yêu mến lẫn nhau, trong lòng dính chặt không thể nào quên. Như một nghịch-lý đau đớn, chúng ta càng ôm ấp điều gì, càng ức-niệm điều gì, với mục-đích giữ gìn, thường điều đó càng bị biến-dạng đi, chính bởi vì những thiên lệch nảy sinh từ sự ức-niệm đó. Chúng ta cần sự đột-phá của những cách nhìn thật-sự mới mẻ. Sự hoang-đường của những lý-thuyết hết sức viển vông. Sự xuất-hiện của những độc-giả, những cây bút phê-bình ngoại-đạo, hoàn-toàn thiếu tiền-lệ và lai-lịch. Như vậy, đối-tượng của sự ức-niệm, cho dù có bị ép phải trải qua và chịu đựng thiên biến vạn hóa, song vẫn giữ được nguyên vẹn một vẻ mầu-nhiệm bất-khả-xâm-phạm nào đó, một bản-lai-diện-mục không thể nhầm lẫn vào đâu.

 

Ai là người có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ? Câu hỏi này, tôi đặt ra để hỏi về văn-học hải-ngoại. Vì tôi cho rằng, tuy câu trả lời hiển-nhiên là chẳng có một ai có quyền chiếm-đoạt hết đặc-quyền sở-hữu quá-khứ cho riêng mình, song khi chúng ta đặt vấn-đề này đối với một nền văn-học, một truyền-thống, một điển-phạm tuy không còn sinh-lực sung-mãn như xưa, song vẫn chưa có truyền-nhân, vẫn chưa chịu nhường ngôi cho ai, thì bỗng dưng câu hỏi trở nên tế-nhị, có khi là phạm-thượng. Bản-thân tôi chỉ là một người hay suy-gẫm về văn-học hải-ngoại như chương tối-hậu của một đại-tự-sự lịch-sử đậm tính trung-đại. Một lối nhận-định viển vông như vậy không thể, và không nên, đại-diện cho ai, ngoài tôi. Tuy-nhiên, nhân dịp hôm nay, tôi xin phép được chia sẻ vài suy-nghĩ ngắn gọn tiếp-cận bốn đối-tượng theo khung của câu hỏi đã đặt ra ở trên.

 

Nếu coi bản-chất văn-học hải-ngoại là sự nối dài của văn-học miền Nam thời chiến, việc đầu tiên nên làm khi phê-bình và nhận-định văn-học hải-ngoại như một điển-phạm văn-học, là tìm hiểu và truy-nguyên huyết-mạch của nó trong văn-học miền Nam thời chiến. Như vậy, đầu tiên tôi sẽ đặt câu hỏi: “Ai là người có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ?” đối với điển-phạm văn-học Việt-nam Cộng-hoà, như chúng ta đã được tiếp-nhận từ sau 1975 đến thời-điểm hiện-tại. Thiết-nghĩ, một trong những bất-hạnh lớn nhất của một người cầm bút là thành-công và sống thọ đến mức không những mình phải chứng-kiến, nhưng còn phải đồng loã trong sự tha-hóa của những tác-phẩm và chủ-trương sáng-tác của chính mình. Tôi không có ý nói về một tác-giả hay tác-phẩm cụ-thể. Điều tôi nói ở đây là văn-học miền Nam nói chung, với tư-cách là tổng-hợp của những vận-động, phong-trào, và chủ-trương sáng-tác đa-dạng và lắm lúc tương-phản. Một phần đáng kể của sự phức-tạp đó đã bị đơn-giản-hóa, không chỉ bởi những biếm-hoạ vớ vẩn của những bồi bút ngoài cuộc, nhưng đôi khi bởi chính những người không tự nhận-thức được mình đã mắc lừa thủ-đoạn “gaslighting” của những diễn-ngôn đại-chúng đã được phổ-biến bởi giới quyền-lực. Thơ Tô-thùy-Yên có phải là thơ của yêu nước, thơ của hóa-giải không? Cái bi-tráng trong thơ Tô-thùy-Yên, theo tôi cảm-nhận, không phải là lòng yêu nước. Chúng ta hãy đọc kỹ phần đầu của bài thơ Chiều trên Phá Tam Giang, và tự hỏi đây có phải là thơ yêu nước không? Hay là những trăn trở, nhưng chất-vấn về bản-chất của khái-niệm “nước”, của diễn-ngôn “yêu nước”? Văn-chương miền Nam có phải là nền văn-học “nhân-văn” không? Đọc tập thơ liên, đêm, mặt trời tìm thấy của Thanh-tâm-Tuyền hay văn của Nguyễn-đình-Toàn, của Trần-thị-Ngh, tôi sẽ rất lúng túng nếu bị buộc phải chỉ ra những giá-trị “nhân-văn” cao-thượng trong những tác-phẩm rất nặng nề, có khi rất hãi-hùng và đen tối ấy. Những mâu-thuẫn này, cứ ý tôi, chỉ có thể gỡ rối được bằng cách bứt phá và thoát-ly hoàn-toàn ra khỏi diễn-ngôn đại-chúng. “Yêu nước” là gì? “Hoà-giải” là gì? “Nhân-văn” là gì? Vì sao phải lấy làm tiêu-chí để đánh giá hay để biện-minh cho sự tồn-tại của một điển-phạm văn-học, vốn đã chất-vấn những điều đấy từ khi mới phôi-thai?

 

Nói đến điển-phạm văn-học miền Nam thời chiến, đối-tượng của câu hỏi: “Ai là người có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ?” không phải chỉ riêng những tác-giả và tác-phẩm đã có vị-trí ổn-định trong điển-phạm hiện nay, nhưng tôi còn muốn đặt câu hỏi đó để chất-vấn bản-thân những sự hạn-chế và thiên lệch điển-phạm đó. Bản-thân điển-phạm văn-học miền Nam thời chiến, như đã và đang được chấp-nhận, là một huyền-thoại, một huyền-sử, nên giải thiêng và phân-tích cụ-thể hơn. Tôi nhớ mang máng, hồi vài tháng trước có đọc vài dòng chia sẻ của Lê-thị-Huệ ghi chép về nhà thơ Phạm-ngọc-Lư. Có lẽ Lê-thị-Huệ đã đưa ra câu hỏi, vì đâu mà tên tuổi một nhà thơ có phong-cách và bút-lực không kém ai mà đã bị mai-một gần như hoàn-toàn, trong khi những nhà thơ khác viết cùng một phong-cách như Tô-thùy-Yên đã sớm trở thành tượng đài trong điển-phạm. Phải chăng chỉ vì một bài thơ Ta Về của Tô-thùy-Yên, mà danh tiếng của ông đã vượt trội đồng-bối, để rồi chi-phối cách đọc văn-học thời chiến một cách rất thiên lệch về phía những nhóm tác-giả trong trung-tâm thành-phố, hơn là những người cầm bút ở vùng ngoại-vi? Tôi đã khá bất ngờ khi đọc chia sẻ của Lê-thị-Huệ, vì vốn-dĩ tôi cũng đã rất lưu-ý đến thơ Phạm-ngọc-Lư khi đọc tuyển-tập Thơ Miền Nam trong thời chiến của Trần-hoài-Thư. Riêng tôi cho rằng sự so sánh giữa Phạm-ngọc-Lư và Tô-thùy-Yên chỉ đúng tới một mức nhất-định, cụ-thể là khuynh-hướng cổ-điển trong thơ của cả hai ông. Tôi chưa thấy có nhà phê-bình nào nhận-định cụ-thể và phân-tích cho kỹ-lưỡng hiện-tượng tôi gọi tên là “chuyển-hướng cổ-điển” trong thi-đàn miền Nam thời chiến. Chắc chắn, một ngày nào đó tôi sẽ viết về khuynh-hướng này, kết-hợp văn-học-sử và lịch-sử tư-tưởng.

 

 Nhắc đến Trần-hoài-Thư, tôi nghĩ gần như ai ai cũng biết lập-trường của ông về chân-diện-mục của văn-chương miền Nam thời chiến. Theo chủ-trương của Trần-hoài-Thư, nhóm tác-giả viết văn ở tiền-tuyến, ở ngoại-biên, vừa cầm súng, vừa cầm bút, mới là khuôn mặt đích-thực của văn-học Việt-nam Cộng-hoà, chứ chẳng phải những nhóm viết thuê, phè phỡn ở đô-thị như nhóm Sáng Tạo. Tôi không đánh giá gì về chủ-trương này, ngoài việc ghi nhận sự cần thiết của một nỗ-lực chung để khôi-phục và trả lại tiếng nói của những cá-nhân, những cộng-đồng đã bị lãng quên hay loại bỏ trong việc soạn sử chính-thống. Nói đến đây, tôi lại nghĩ đến một cộng-đồng cầm bút và sáng-tác rất nhiều ở miền Nam thời chiến, tôi chắc chắn chưa được người Việt - kể cả người đọc lẫn người viết - quan-tâm đủ mức. Người Hoa và người Hoa-kiều ở miền Nam sáng-tác rất nhiều vào giữa thế-kỷ 20 và trong thời chiến. Không những thế, sáng-tác của họ lại rất phong-phú, từ thể-loại cho đến nội-dung. Trong cuốn Hoa-kiều-thi-thoại của Dịch-quân-Tả in năm 1956 có sao-lục thơ cổ-điển của những nhà thơ Hoa-kiều sống lâu đời ở miền Nam Việt-nam. Về thơ hiện-đại, đã có mấy nhà phê-bình, mấy độc-giả Việt-nam đọc thơ của Lạc-Phu? Lạc-Phu là một trong những nhà thơ Đài-loan nổi tiếng nhất thế-kỷ, tác-phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, lại còn được đưa vào những tuyển-tập danh tiếng như The Columbia Anthology of Modern Chinese Literature của Hoa-kỳ hay Trung-quốc-đương-đại-thập-đại-thi-nhân-tuyển-tập. Thời chiến ông ta làm cho đoàn cố-vấn quân-sự trụ-sở tại Saigon. Thơ ông viết trong thời-gian ở Việt-nam, tả-cảnh Saigon thời chiến đã được soạn lại và đặt tên là Tây-cống-thi-sao, trong đó có những bài được độc-giả quốc-tế tán-thưởng là tuyệt-tác của văn-học Trung-quốc đương-đại. Đúng, ông ta không phải người Việt-nam, tác-phẩm của ông cũng không thể tính vào văn-học Việt-nam. Nhưng trường-hợp của Lạc-Phu cho thấy Saigon lúc bấy-giờ là tụ-điểm của những cây bút hào-kiệt, không những của cả ba miền nước Việt-nam, nhưng còn của những nước khác. Tây-cống-thi-sao của Lạc-Phu, theo một nghĩa nào đó, theo một góc nhìn nào đó, là tác-phẩm miền Nam thời chiến. Điều này có lẽ là thêm một đặc-điểm của sinh-hoạt văn-chương miền Nam thời chiến, vẫn chưa có ai phác-thảo cụ-thể.

 

Đối-tượng thứ ba tôi xin đặt câu hỏi: “Ai là người có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ?” là văn-đàn và điển-phạm Việt-nam hải-ngoại. Điều khó khăn nhất trong việc này, là xác-định đối-tượng này cụ-thể bao gồm những tác-giả nào, những tác-phẩm nào? Danh bất chánh tắc ngôn bất thuận. Văn-đàn hải-ngoại là gì? Phải chăng là văn-đàn tỵ-nạn? Là văn-đàn di-cư? Là văn-đàn lưu-vong? Là văn-đàn thiểu-số? Là Việt-nam? Là Việt-kiều? Là người-Mỹ-gốc-Việt? Đã từng có một thời-gian tôi tưởng như câu trả lời có thể quyết được hắc-bạch phân-minh bằng ranh-giới ngôn-ngữ, hoặc đối-tượng độc-giả. Nhưng rồi, khi đọc luận-án tiến-sĩ của Nguyễn-vũ-Khuyên viết về Lê-thị-Huệ, tôi mới nhận ra hết vẻ thô-sơ và bất-cập của những suy-nghĩ non trẻ ấy. Tôi chưa biết văn-học hải-ngoại là gì - thật sự ra mà nói, tôi chưa biết “hải-ngoại” là gì. Hồi vài tháng trước, tôi cố gắng tiềm-tâm đọc lại các bài tùy-bút, biên-khảo, và nhận-định mang tính phê-bình văn-học và xã-hội của những nhà có thể tạm gọi là tiêu-biểu cho một thế-hệ văn-đàn hải-ngoại - Cao-Tần, Võ-Phiến, Nguyễn-mộng-Giác, Nguyễn-hưng-Quốc, Bùi-vĩnh-Phúc, Nguyễn-vy-Khanh. Tôi nhận ra hai điều thú vị, thứ nhất là diễn-ngôn lão-hóa đã manh-nha từ cuối thập-niên 1970, tức là ngay từ khởi-thủy của văn-đàn hải-ngoại. Thứ nhì là dường như sức ám-ảnh của diễn-ngôn lão-hóa là ảnh-hưởng chủ-lực chi-phối quan-tâm xã-hội và nhận-định phê-bình của khá nhiều nhà cầm bút hải-ngoại, đặc-biệt là khi nhận-định về tương-lai (hay, nói chính-xác hơn là “khả-tính” của một tương-lai) của văn-học hải-ngoại. Hình như, nhiều người đã không thể hình-dung ra một văn-đàn, một mẫu nhà văn khác bản-thân họ. Vì vậy cho nên, trong các bài tùy-bút của những nhà văn trên, đặc-biệt là Nguyễn-mộng-Giác, họ đã đặt hết kỳ-vọng vào giới trẻ hải-nội để làm truyền-nhân của họ, đồng-thời ngoảnh mặt không đoái hoài đến con cháu của chính họ ở hải-ngoại. Tôi không thể không đặt nghi-vấn, phải chăng diễn-ngôn lão-hóa này có sức quyến rũ khổ-dâm và kịch-tính, là một cách để xoa dịu và biện-hộ cho những sự bất-lực và bất-cập, những thất-bại, tự mình đã ôm vào mình, tự mình đã gây ra cho mình, chứ không nhất-thiết đã là một án phạt do thời-đại hay mệnh-số giáng xuống một cách nghiệt ngã? Chúng ta phải xử-lý như thế nào, khi những nhà cầm bút viết bằng tiếng Anh như Viet Thanh Nguyen hay Ocean Vuong đều bị đánh đồng là “thế-hệ trẻ” khi bản-thân họ đã cách nhau có khi từ hai, đến ba thế-hệ. Câu hỏi căn-bản hơn là những người như thế có thuộc về văn-đàn Việt-nam hải-ngoại hay không? Tôi đã trăn trở rất nhiều về vấn-đề này, mà vẫn chưa thấy có cách giải-đáp cho gọn gàng. Việc định-hình, phân-loại, và phê-bình điển-phạm văn-học Việt-nam hải-ngoại từ năm 1975 đến nay, không thể nào trông cậy những người trong cuộc. Trọng-trách đấy sẽ là việc của thế-hệ tôi, thế-hệ con cháu tôi.

 

Vì vậy, đối-tượng sau cùng tôi muốn đặt câu hỏi: “Ai là người có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ?” là bản-thân chúng ta, là bản-thân tôi và những người cùng thế-hệ với tôi, hay thậm-chí còn trẻ hơn cả tôi. Bản-tính tôi nhát đám đông, vả lại nói năng vụng về, không ham phô bày nhược-điểm trước cả và thiên-hạ. Sở-dĩ tôi đến đây ngày hôm nay, là vì một câu nói của Lê-thị-Huệ. Tôi chỉ nhớ đại-ý rằng: Tiếng Việt, văn Việt là một di-sản đã được thế-hệ trước đêm ra hải-ngoại, như gia-tài cuối cùng không thể bị người khác cướp đi. Đan là một người đã thừa-hưởng gia-tài tiếng Việt đó, không phải từ Việt-nam hải-nội, nhưng từ Việt-nam hải-ngoại. Vì vậy Lê-thị-Huệ muốn nghe chia sẻ và cảm-nhận của Đan trong ngày kỷ-niệm Gió-O. Câu nói đó làm tôi cảm-kích vô-cùng. Vì tôi là người đặt ra câu hỏi trên, cho nên tôi sẽ tự trả lời theo suy-nghĩ của tôi. Không có ai có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ, vì vốn-dĩ không có ai có quá-khứ của riêng mình mà không liên-quan đến quá-khứ của vô vàn những người khác. Không có ai là một cá-thể độc-lập, không tác-động đến người khác, không chịu sự tác-động từ người khác. Câu chuyện của một người, kỳ-thực là câu chuyện của mười người, của trăm người, của muôn người. Chữ “ảnh-hưởng” các cụ An-nam hay diễn Nôm là “vang bóng”. Như bóng theo hình, như tiếng vang theo âm thanh. Đó là cách ẩn-dụ của người xưa về khái-niệm “ảnh-hưởng”. Chúng ta  không thể nào thoát được vang bóng của nhau. Vì vậy, câu hỏi chính-xác hơn không phải là câu hỏi về “đặc-quyền” và “sở-hữu”. Câu hỏi chính-xác phải là câu hỏi về ý-thức, về trách-nhiệm, về chia sẻ. Nếu câu trả lời cho câu hỏi trước là chẳng có ai có đặc-quyền sở-hữu quá-khứ, có lẽ câu trả lời cho câu hỏi sau là tất cả những ai ý-thức được đều có trách-nhiệm chia sẻ quá-khứ. Phải chăng tôi ảo-tưởng, muốn làm việc to lớn? Tôi xin kết-thúc bằng một câu danh-ngôn của Hạng-hồng-Tộ, nhà thơ thời Thanh: “Bất vi vô-ích chi sự, hà dĩ khiển hữu-nha chi sinh?” Không làm việc vô-ích, làm sao tiêu-khiển được cuộc đời hữu-hạn? Câu này trích từ bài tựa ông ta tự viết cho tập thơ Ức-vân-từ của ông. Người thời nay đã lạm-dụng thành một khẩu-hiệu sáo rỗng, nhưng độc-giả cùng thời với ông đã rất mực đau xót khi đọc lên câu này. Dụng-ý của tôi khi mượn câu này, tôi xin nhường cho người khác phân-tích.

 

Nguyễn-thụy-Đan

Berkeley, Tiết Đại-tuyết, Tháng 12/2021

 

Ghi chú của chủ biên Gió O, Lê Thị Huệ:
Nguyễn Thụy Đan sinh năm 1994 tại Sacramento, California. Là học giả trẻ đang theo học Tiến Sĩ Ph.D chuyên khoa về Việt Học tại đại học University of Columbia, New York City.
Nguyễn Thụy Đan đã đọc 1 bài diễn ngôn bằng tiếng Việt ở buổi sinh hoạt kỷ niệm 20 năm thành lập trang www.gio-o.com  “Ngày Nắn Net Gió O”, chiều Chủ Nhật 19/12/2021 tại đại học UC Berkeley Bắc California. Sau đó anh đã nhận được phản hồi từ giáo sư kiêm ký giả Bùi Văn Phú. Trên trang forum Tiếng Việt BBC London. Ông Bùi Văn Phú viết:

Bài diễn thuyết có thể gây tranh luận là của Nguyễn Thụy Đan, nghiên cứu sinh tiến sĩ văn chương tại Đại học Columbia với câu hỏi: 'Ai là người có quyền sở hữu quá khứ' khi ông nói về nền văn học Việt Nam Cộng hoà.

Sinh tại Mỹ, diễn giả trình bày bằng tiếng Việt đúng chuẩn mực. Ông nói khá dài về lịch sử thơ Đường, với Lý Bạch, Đỗ Phủ trước khi đi vào nền văn học miền Nam.

Ông nhắc bài thơ 'Chiều trên phá Tam Giang' của Tô Thuỳ Yên và nêu câu hỏi đó có phải là một bài thơ yêu nước. Cùng với bài 'Khi ta về', ông nói nhiều nhà phê bình cho rằng thơ Tô Thuỳ Yên là tiêu biểu cho nền văn học của Việt Nam Cộng hoà.

Diễn giả nhắc đến nhà thơ Phạm Ngọc Lư có một bài thơ cũng hay, nhưng bị mai một. Ông nhận định tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn nặng nề hận thù và đen tối. Ông nhắc lại có những phê bình nhóm Sáng Tạo chỉ là những người viết thuê. Theo ông, thơ của Trần Hoài Thư, một tác giả vừa cầm súng vừa cầm bút mới thực là nền văn học Việt Nam Cộng hoà.

Bài nói chuyện của Nguyễn Thụy Đan đúng là một thách đố, như Gió-O chủ trương."

 

Nguyễn Thụy Đan đã ghi lại những còm trên trang Facebook của anh về các nhận xét của giáo sư Bùi Văn Phú:

“Quan-điểm "tác-giả vừa cầm súng vừa cầm bút mới thực là nền văn-học Việt-nam Cộng-hòa" là lập-trường của chính Trần-hoài-Thư, trong bài nói chuyện tôi chỉ dẫn như một cách hiểu khác về văn-học Việt-nam Cộng-hòa, chưa được quan-tâm đúng mức. “

mình cũng chưa từng nói gì về hai chữ "hận-thù" khi nói về Nguyễn-đình-Toàn, người viết bài báo này tự suy-diễn.

 “cho nên mình không có ý bắt bẻ tác-giả bài viết (dù người đó là ai, mình cũng không biết), mà thiệt-sự ra mình nghĩ là người khác có quyền hiểu nhầm về mình! Như vậy mới có chuyện để nói tiếp.

“Ghi lại ở đây không phải để đính-chính tác-giả bài báo, chỉ là để giải-thích thêm cho độc-giả quan-tâm.”

 

Trong thư trao đổi với Lê Thị Huệ, Nguyễn Thụy Đan viết:

không có ý chỉ trích Bùi Văn Phú. Chỉ thấy bài BBC dễ gây ra hiểu lầm về Đan. Khi nhắc đến Nguyễn Đình Toàn là Đan hàm ý nói về motif ám ảnh tình dục và bất lực tình dục trong văn của ông, chứ không có ý nói gì về “hận thù” cả.

 

Ở một ghi chú khác từ cá nhân tôi (Lê Thị Huệ) cũng để lại một còm trên FB của Nguyễn Thụy Đan như sau:

thêm chi tiết thiếu chính xác (trong bài tường thuật của Bùi Văn Phú) là Ngọc Quỳnh chưa bao giờ sáng tác bài thơ nào trong đời (cô là cựu thành viên của ban kịch Thụ Nhân - Viện Đại Học Đà Lạt, là con gái nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm tác giả Gọi Người Yêu Dấu) . Vũ Ngọc Quỳnh chỉ diễn thơ cùng Xuyên Sơn Ca với một trích đoạn bài thơ "Mưa Bên Cố Nhân" và trích đoạn bài tùy bút "Đà Lạt Mỵ Nương Sầu" của Lê Thị Huệ

 

Và cuối cùng trong thư trao đổi với chủ biên Lê Thị Huệ, ông Bùi Văn Phú viết:

Chào chị Huệ. Có lẽ mình suy luận sai ý tác giả từ đoạn trên trong bài diễn thuyết của Nguyễn Thuỵ Đan qua phần trình bày của tác gỉa hôm đó là "nếu không chỉ ra được những giá trị nhân văn cao thượng trong sáng tác của Nguyễn Đình Toàn, mà tác giả cho là "nặng nề, hãi hùng và đen tối" làm mình nghĩ đến những hận thù trong thời chiến tranh ở Việt Nam khi những tác phẩm đó ra đời. Xin lỗi Nguyễn Thuỵ Đan về sự hiểu sai ý tác giả, không đúng như những điều mà tác giả giải thích sau này qua thư gửi cho chị.

 


Tháng 12.2021