nguyễn thiên thụ

 

Các Chủ Đề Chính

Trong Thi Ca Hải Ngoại

 

 

H

ầu hết người vượt biên và gia đình đều là những người tị nạn, bỏ quê hương đi tìm tự do. Chỉ một số ít có mục đích kinh tế .Ta.i quốc gia của họ, họ bị cấm viết, nay ra ngoại quốc, họ liền thực hiện quyền tự do thiêng liêng này. Họ phải viết vì viết là sở thích, là nguồn sống, là lý tưởng của họ. Họ cần viết vì viết đã trở thành một bản năng.Nếu Pascal nói ‘Tôi suy nghĩ vậy tôi hiện hữu’’ thì các văn nghệ sĩ cũng có thể nói: Tôi viết, vậy tôi hiện hữu’’ hay ‘’tôi sáng tác, vậy tôi hiện hữu’’. Văn nghệ sĩ chỉ hiện hữu, chỉ thực sự là mình khi sáng tác. Còn mọi sự khác chỉ là tạm bợ. Muốn thực hiện điều này, văn nghệ sĩ phải vượt qua bao khó khăn về vật chất và tinh thần để đứng vững, và ngồi vững trong cuộc đời mà cầm bút.  Họ cần viết để ghi nhớ lại cuộc đời họ và đất nước họ . Họ cần viết để tố cáo tội ác cộng sản trước dư luận thế giới. Họ lên tiếng để tranh đãu cho tự do, dân chủ và quyền làm người đang bị chà đạp tại quê nhà.  Đồng bào quốc nội đang bị đàn áp, khủng bố, họ mong muốn những người đã đến bến bờ tự do, phải tranh đâu cho tự do, dân chủ ở quê nhà. Họ cũng mong muốn các văn nghệ sĩ khi ở trong nuớc không được viết, không đuợc phát biểu tư tưởng và tình cảm của mình, nay ra nước ngoài, phải hoạt động trở lại, phải làm một cái gì cho dân tộc và văn học.

          Nói tóm lại, với các văn nghệ sĩ lưu vong, sáng tác là :

          -phản kháng chính sách nô dịch văn hóa của cộng sản

          -phản kháng sự ngăn chận tự do ngôn luận, tự do sáng tác của cộng sản.

          -trình bày sự thật của lịch sử, chống lại chủ trương bóp méo và xuyên tạc sự thật của cộng sản.

          -tranh đãu cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại quê hương.

Ở lời nói đầu trong tập truyện Miền Thương Uyển Xưa,  Đặng Phùng Quân viết:

Hành trạng của viết phác lên tiếng thương đau cho những người cầm bút giờ đây còn đang bị đầy đọa trong cái thế giới ‘cơm,áo, gạo, tiền’ rất hiện thực, cũng rất phi nhân, giờ đây không thể biết đến viết là gì.

Nhân vật nữ trong Ngày Tháng Bồng Bềnh của Nguyễn Văn Sâm đã nói:

Ở đây có quá nhiều chuyện bất công, quá nhiều điều xấu. Qua được bên đó, anh hãy viết thế nào cho mọi người nhận chân được lẽ chính tà, khơi dậy được suy nghĩ về số phận bi thảm của dân tộc mình (11).

Nhiều thi sĩ đã xuất hiện, có khoảng 100 thi sĩ . Rất nhiều thi phẩm ra đời tại hải ngoại trong khoảng 1975-2003.  Một số nhà thơ cũng là nhà văn. Những nhà thơ nổi tiếng trước 1975 nay sang Hoa Kỳ đã ngưng sáng tác hay ít sáng tác, hoặc chưa xuất bản. Kết quả chúng ta có khoảng một trăm nhà thơ với khoảng 150 tập thơ, trung bình mỗi nhà thơ có hơn một tập thơ. Một số thi sĩ có sức sáng tác rất mạnh. Luân Hoán có lẽ là người có nhiều thi phẩm nhất. Từ thập niên 80 cho đến nay ông đã có 8 thi phẩm:

          -Hơi Thở Việt Nam. Sông Thu, USA, 1986.

          ĐDưa Nhau Về Đến Đâu, Sông Thu, USA, 1989.

          -Ngơ Ngác Cõi Người. Nhân Văn, USA. 1989.

          -Cảm Ơn Đất Đã Trổ Thơ. Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài. Kinh Đô.USA. 1991.

          -Mời Em Lên Ngựa. Sông Thu. USA.1994.

          -Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh. Thơ.Canada.1995.

          -Cỏ Hoa Gối Đầu. Sóng Văn. USA, 1997.

          -SôngNúi Cùng Người Thơm Ngát Thợ  Thơ. Canada, 2002.

Dư thị Diễm Buồn có 6 thi phẩm:

          -Nỗi lòng  Người Em Nhỏ, 1991

          - Một Thoáng Hương Xưa, 1996.

          -Những Ngày Xưa Thân Ái ,1997.

          -Quê hương Ngày Em Lớn 2000.

          -Một Thoáng Hương Xưă Cassette ngâm thơ)

          -Nỗi Lòng NgườI Đi , 2001.

Hà BìnhTrung có 6 thi phẩm:

          -Khói Lửa, USA, 1987

          -Yêu Mãi Ngàn Năm, USA, 1990

          Đãu Chân Viễn Khách, USA,1995.

          -Cánh Thời Gian,USA, 1997.

          -Ngàn Dặm Thương Yêu. USA, 1999.

          -Vẫn Mãi Yêu Em, USA,2000.

Vân Nương đã đóng góp 4 thi phẩm :

          -Con Đường Lý Tưởng , 1990

          -Nhớ Một Người Đi, 1996.

          -Mây Viễn Phố, 1996

          -Trăng Viễn Phố, 2001.

          Thời kỳ này các nhà thơ viết về nhiều  chủ đề:

 

I- TÌNH YÊU

Trong thi ca hải ngoại, tình yêu vẫn là một đề tài quan trọng và chiếm nhiều giấy mực và thời giờ của thi sĩ.Phần đông các thi sĩ lúc này đã lớn tuổi nhưng trong tim của họ vẫn có những tình yêu, có thể là những hoài niệm quá khứ, mà cũng có thể là những thực tại đau khổ và dở dang.

Những người ra đi đã để lại đằng sau những mối tình, phần lớn là những mối tình dang dở, vỡ tan:

          Tình đã theo em về dĩ vãng

          Buồn tôi như lá thẩn thờ bay

          Ví dù lá rụng đày thu ướt

          Lá cũng xin đừng bận gót aị

                   ( Nguyễn Tất Nhiên- Đông khúc)

Thỉnh thoảng thi nhân để hồn tưởng đến người yêu cũ. Tất cả đều héo úạ  Quê hương tan nát và thân phận người phụ nữ miền nam cũng tối tăm như người tình ngày xưa của Cao Đông Khánh:

          Từ Suối Máu anh trở về xanh như lá cây

          Những kẻ sống chết cho độc lập tự do

          trở thành phản quốc.

 

          Anh bỏ đi rồi em ở với ai

          .   .      .      .      .        .    .

          Em rớt thăm thẳm xuống vực sâu thời cuộc

          Sương Sài gòn thấm lạnh áo mồ hôi

          Mưa lất phất ngoài ngả  năm, ngả bẩy

          Gió lọt vào em từ ngả bảy, ngả ba. .   .

                   ( Uẩn tình kẻ xa xứ)

Kiêm Đạt hoài niệm người yêu nhưng đó chỉ là dĩ vãng rất xa xôi  với tờ thư ngày trước:

          Em nhé hẹn về chốn ấy

          Hoa hồng hé nụ tình tạ

          Buồn chết! Röi vào dĩ vãng

          Tờ thư mực đọng chưa nhòạ

                   ( Tám hướng )

Lê Huy Oanh buồn rầu nhớ đến mối tình sau ngày thất quốc:

          Trái tim tái mét

          Đã học được gì

          -Những nỗi ê chề

          Cuộc tình oan khuất

          Trái tim khóc ngất

          Đã học được gì

          -Hai đứa chia ly

          Vũ trụ sụp đổ

                   (Bài học trái tim )

Những người đàn ông thương nhớ những người đàn bà, tất nhiên những người đàn bà cũng thương nhớ những người đàn ông nơi xa xôi.

          Có những mối tình bỏ lại sau lưng nhưng cũng có những mối tình nở thắm trên bước đường ly hương.  Một số thi nhân ra đi mang một nỗi buồn trong tình yêu, nhưng một số rất hạnh phúc khi ở xứ người. Trong tập Dấu Ngọc Ngà, Vương Ngọc Long có nhiều bài thơ ca tụng tình yêu:

          Xích lại gần nhau, lại gần nhau

          Chuyền nhau hơi ấm thuở ban đầu

          Nụ hôn thầm gửi tình yêu dấu

          Tháng hai này - riêng kẻ yêu nhau

                   ( Bài thơ Valentine)

Trong thơ Trần Hồng Châu, ta thấy Trần Hồng Châu mơ làm hiệp sĩ phóng ngựa từ biên cương trở về kinh thành để gặp giai nhân của chốn đế đô:

          Từ biên cương ruổi ngựa về bắc khuyết

          Ta tìm em đâu phải mộng vương hầu

          .  .  .    .   .      .       .    .       .   .

          Em vẫn ngồi đây vừng trăng cũ

          Nửa mùa ly loạn nét đan thanh.

                   (Nhớ Đất Thương Trời- Em vẫn ngồi đâyvầng trăng khuyết)

Cũng có khi Trần Hồng Châu mơ làm một hoàng tử đa tình như trong các truyện thần thoại:

          Anh muốn là Hoàng tử đam mê

          Từ muôn trùng biển khơi

          Về vớI em bên cửa động tiền thân

          Của những người tình héo hon niềm mắt biếc.

                   (Nửa Khuya Giấy Trắng  - Áo mộng đào hoa)      

 

II- QUÊ HƯƠNG

Đa số thi nhân hướng đến chủ đề này bởi vì các thi nhân phần lớn là thuyền nhân đã bỏ quê hương mà đi,. Dù xa cách quê hương, tình quê hương bao giờ cũng sáng trong lòng thi nhân.  Nhớ quê hương là một chủ đề chính trong thi ca người tị nạn lưu vong.

Trong Viên Sỏi của Quê Hương, Hàn Song Tường đã cầu khẩn:

          Tặng cho tôi viên sỏi  quê nhà

            Viên sỏi buồn, viên sỏi biết phong ba

          Tôi kiêu hãnh dùng làm bia tưởng niệm.

Cao Tiêu viết:

          Ta thả nhớ về trời

          Quê hương xưa cách trở

          Thơ có vần thơ lơi

          Tình vẫn tình trăng tỏ

                   (Thả)

Hồ Trường An nhớ muà hè quê mẹ:

          Quê mẹ bên kia hè đến sớm

          Rực hoa phưộng thắm, rực soan hồng

          Ở đây xuân muộn bao la gió

          Đợi mãi gặp ngày đẹp nắng trong

                   ( Một ngày thong thả)

Mỗi thi sĩ đều có một vùng trời để nhớ. Nguyễn Mạnh Trinh nhớ Thành Nội Huế, nhớ áo vàng tôn nữ:

          Nghe thoang thoảng từng bài thơ anh viết

          Hương một người nồng nặc thân quen.

          Nhớ man mác rong rêu Thành Nội

          Mùi hoa quỳnh trong nỗi nhớ lênh đênh.

                   ( Thấp thoáng bóng một người )

Nguyễn Bá Trạc cũng quay cuồng vì nỗi nhớ thương Huế:

          Năm mười tám tuổi pha ngây ngất

          Yêu một dòng sông những chuyến đò

          Trưa trên Văn Thánh thơm mùi gỗ

          Anh chẳng cho lòng phút đắn đo

 

          Em, xóm Bao Vinh đường lót gạch

          Hương chiều thoang thoảng mấy hàng cau

          Anh theo gió thẳng lên An Cựu

          Anh chẳng cho lòng phút đắn đo

                   (Quê Mẹ)

          Hoàng Ngọc Ẩn nhớ Sài gòn :

          Chiều Sài gòn người có đi qua

          Nhớ chiều xưa dáng nhỏ mong chờ

          Những con đường chừ đây cúi mặt

          Mắt nai buồn hồn bỗng bơ vợ

                   ( Sài gòn vĩnh biệt)

Bà Sương Mai thương nhớ Cần Thơ:

          Mai về đến bến Cần Thơ

          Làm chim Phụng Hiệp đău bờ Cái Răng

          Chiều Phan Thanh Giản mưa giăng

          Sáng Đoàn Thị Điểm băn khoan nhớ người

          Đàn chim dang cánh tung trời

          Sao ta mỏi cánh về xuôi nỗi buồn

                   (Võ ĐứcTrung, Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VIệt Nam Hải Ngoại I, Cần thơ ngày về ,  203)

Những hình ảnh Vàm Cống, Tiền Giang luôn hiện trong tim Nguyễn Mạnh Trinh:

          Cảm ơn hoa đã nở vì ta

          Mười ba năm thoảng đã vô cùng

          Đời theo triều nước Tiền giang vỗ

          Lòng ta Vàm Cống cũng mịt mùng

                   ( Tâm hoa)

Ở bên này đại dương nhìn sang bên kia đại dương, Lê Văn Phúc than thở:

          Nước ngăn tình đôi ngả

          Nước khơi mối thảm sầụ

          Cố hương vời vợi quá

          Nhớ nhưng gửi về đâủ

                   ( Sương khuya)

          Xuân về tết đến là lúc mọi người nhớ quê. Như Lý Bạch ngày xưa, bây giờ Trần Ngân Tiêu nhìn trăng nhớ quê:

          Ngước mắt nhìn trăng chợt nhớ quê

          Nỗi buồn lay động cả sao khuya

          Tình quê cứ mãi còn trong nhớ

          Rượu uống mừng xuân vẫn não nề.

                   ( Vọng nguyệt tư cố hương)

                                     

III- LƯU Đày

Nỗi đau khổ vì mất nước phải đem thân lưu vong là một ám ảnh lớn trong hồn người Việt. Dù ở đâu và đi đâu, chúng ta vẫn thấy cô đơn, lạc lỏng ở nơi quê ngườị

          Thẩn thờ trên phố lạ

          Về đâu chiều tha hương

          Dừng đây buồn muốn khóc

          Cho phần đời ly hương.

                   ( Tưởng Năng Tiến,  Chiều Vọng Các)

Phan Lạc Giang Đông cũng mang sầu lữ thứ như Tưởng Năng Tiến:

          Tôi vẫn người xứ lạ

          Đếm từng bước lưu dân

          Quê tôi giờ xa lắm

          Trong trái đời lặng câm

                   ( Chiều xuân ở Queen Anne)

Trần Mộng Tú nhắc đến nguồn gốc lưu đày của chúng ta là ngày 30-4-1975:

          Ta ngồi một mình

          Ly cà phê cạn

          Lòng như tháng tư

          Dứt ra từng đoạn

          Quán trưa không người

          Phố trưa không gió

          Ta với nỗi không

          Chảy thành lệ nhỏ

          Bốn năm quê người

          Đời, con nước cạn

          Hồn như lá khô

          Vướng giòng mục nát.  .  .

                   ( Lòng như tháng tư )

Cái ý tưởng mình là người khách lạ đã xâm chiếm tâm hồn người xa xứ. Thật vậy, chúng ta là kẻ bị lưu đày, chúng ta là người khách lạ lúc ở trong nước và khi ra ngoài nước.

          Sao ta mãi làm loài cây không rể

          Thân xanh xao hoa trái chết trong hồn.

          Tim vẫn đập nhưng dấu từng hơi thở

          Nhịp đời lên là những tiếng cô đơn

                   ( Phùng Minh Liên -  Khách lạ)

Thi nhân cảm thấy mình là một kẻ bị lưu đày, sống trong uất hận đau đớn như tâm sự Kiêm Thêm:

          roi đời quất mạnh tay

          thịt xương tôi mưng mủ

          cơn thịnh nộ của trời

          lưu đày tôi bảy kiếp

 

          tôi và chiếc cùm gông

          trái tim ôm vác nặng

          lưu đày chốn đất người

          ngàn năm nghe lệ mặn

                   (Lượng cả dương gian)

Cùng chia xẻ nỗi niềm này, Lê Phú Hải viết:

          Đời một thuở đem thân làm lưu lạc

          Để từng đêm gió gọi ở trên đầụ

          Ta cúi mặt nghe trăm chiều tủi hổ

          Quê hương ơi ngàn sóng vẫn kêu gàọ

                   ( Sóng vẫn vỗ vào eo biển quê hương tôi)

Hoàng Minh Hương cũng nói đến sầu viễn xứ:

          Cất bước lang thang trời viễn xứ

          Lãy mưa làm bạn, nắng thay nhà

          Biết đến bao giờ nguôi hận cũ

          Ta khóc người hay khóc cho tả

                   ( Kiếp sống thừa)

Nhất Tuấn không những mang sầu biệt xứ mà còn mang tủi nhục người thất trận. Hai nỗi buồn hòa nhập làm một day đứt đời ông:

          Làm thân cây bật gốc

          Trong kiếp đời lưu vong

          Tan hàng trong tủi nhục

          Sống đây mà như không

                   (Mò kim đáy biển )

Cuộc sống lưu đày nơi xứ lạ quê người đã làm cho thi nhân băng giá. Phặm Tăng kêu lên:

          Lạnh đâu thấm nhập vào phòng

          -Không đâu ! Lạnh ở trong lòng lạnh ra!

          Bên ngoài chỉ có sương sa

          Bên trong giá buốt hơn là tuyết băng!

                   ( Nửa đêm)

Thi nhân đã dùng rượu để quên sầu nhưng lúc nào nỗi cô đơn vẫn bám chặt tâm hồn thi nhân:

          Rượu mời ta rót cho ta,

          bạn gần không tới, bạn xa chưa về

          rót nghiêng năm tháng vào ly

          mắt nheo bóng xế tay che nỗi buồn

          rót đầy băng giá cô đơn

          rót thao thức nhớ rót hờn giận quên

                   (Thanh Nam  -  Đêm cuối năm uống rượu một mình)

Cuộc sống xứ người  đôi khi rất khó khăn. Một số dân Việt Nam cảm thấy không thoải mái vì không qua được cơn chấn động văn hóa (cultural shock) . Cao Tần viết bằng một giọng khôi hài như sau:

          Mai mốt anh về có thằng túm hỏi

          Mày qua bên Mỹ học đuợc củ gì?

          Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi

          Nói mày hay ông thượng đẳng cu lỵ

                   ( Thơ Cao Tần)

Trần Hoàng Anh vượt biên khi còn trẻ, thân gái  một mình lưu lạc nơi xứ người. Có lần cô đã cảm thấy cô đơn, mình tự thương mình:

          Thương mình lưu lạc phương trời

          Không ngày hạnh phúc không người tri âm.

          Một mình một bóng âm thầm

          Cười cười nói nói trong lòng đớn đau. . .

                   ( Mộng đời tan hoang )

 

4. gia đình

Có một số người ra đi mang theo gia đình, nhưng một số ra đi bỏ lại mẹ già em dại, vợ yếu con thơ. Nỗi thương nhớ dó được các thi nhân giẵi bày trong thơ. Hình ảnh mẹ già được thi nhân đề cập nhiều nhất.

Sống hạnh phúc ở xứ người, Hữu Phương nhớ mẹ già đói khổ ở quê hương:

          Khi con thừa cơm gạo

          Có nghĩ mẹ đói nghèo

          Sáng rau khoai, chiều cháo

          Ngày qua ngày chắt chiu

          .  .   .   .      .      .      .   .

          Khi con thừa lãng khuây

          Con nghĩ mẹ ốm gầy

          Sớm hôm chiều lao động

          Đêm nào đươc giấc say. .  .

                   ( Tiếng thầm của mẹ)

Nơi quê người, Minh Viên lại thấy càng cần tình thương của mẹ:

          Con vẫn âm thầm thương nhớ mẹ

          Hồn thơ không soi nắng thêu hoa

          Hồn thơ đã ngập tràn băng tuyết

          Và mất mùa đông làm gió mưa

 

          Thiếu mẹ đời con như lá úa

          Xuân về con ngỡ xuân chưa sang

          Xuân về xuân của riêng thiên hạ

          Con mất xuân rồi đâu biết xuân

                   ( Thư xuân gửi mẹ)

Ngày xuân là lúc người ta nhớ đến quê hương, đến mẹ già nhiều nhất. Minh Viên gửi  về mẹ những vần thơ tha thiết:

          Muời mấy xuân rồi xa cách mẹ,

          Nhớ thương trĩu nặng những vần thơ

          Mùa đông rét mướt hồn con trẻ

          Thôi hết rồi hoa bướm, mộng mợ

                   ( Thơ xuân gửi mẹ)

Trong ngày Tết, Nguyễn Thế Hà đã khóc hết nước mắt:

          Thư mẹ đến giữa chiều 30 tết

          Quê hương người con khóc trắng đêm thâụ

          Mẹ chỉ mong có một ngày sum họp

          Nhưng bây giò thì mãi mãi xa nhaụ

                   ( Bao nhiêu rồi mơ ước cũng pha phôi)

Thái Tú Hạp thương nhớ vợ con xa:

          Biết thế nào đưộc em

          Qua từng giấc mơ thật đẹp

          Thấy em cười và thấy đôi mắt con thơ

          Ngời sáng như sao

          Mà cũng lấp lánh buồn như sao!

                   (Hại bụi nào bay qua)

Du Tử Lê bỏ lại các con trên quê hương Việt Nam. Ông chưa bao giờ trở về để gặp lại gia đình. Ông chỉ mong mỏi gặp lại những đứa con yêu quý sau khi đã nhắm mắt:

          Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển

          Cho tôi về gặp lại các con tôị

          Cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi

          Từ những mắt đã buồn hơn bóng tốị

                   ( Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển)

                  

IV- Tố cáo Cộng sản

Trước kia  một số người chưa thấy bộ mặt cộng sản nên chưa căm thù cộng sản. Sau 30-4-1975, nỗi căm thù, uất hận đã thành hình, thành khối. Vì cộng sản đã gây ra nhiều đau khổ, chết chóc cho dân chúng, nên dân chúng đã phải bỏ nước ra đi. Trần Hoàng Anh nói đến vấn đề  đi kinh tế mới:

          Bé lên hai tuổi

          Tập nói bi bô

          Đôi mắt tròn vo

          Bàn tay mũm mĩm

          Mẹ bồng trên tay

          Mẹ cõng trên lưng

          Lội suối băng rừng

          Mang bé về nhà

          Ở vùng kinh tế

          Bé nhớ ông bà

          Nơi thành phố xa

          Bé khóc nức nở. .    .

                   ( Đi kinh tế mới)

Cộng sản đã bỏ tù binh sĩ, viên chức miền nam và bỏ tù những ai chúng muốn. Ngô Minh Hằng đã nói đến việc cộng sản giam giữ vô cớ  và bỏ đói tù nhân:

          Nhìn con xiêu gầy da bủng xám

          Mắt mẹ sâu, hai giọt lệ lăn tròn.

          ‘Trong trại tù khổ lắm phải không con?’

          Con cúi mặt nghẹn ngào:’ Không mẹ ạ!’

 

          Con giấu mẹ những đêm dài đói lả

          Ngày nhục nhằn mà lao động vinh quang!

          Vì mẹ ơi , con thương mẹ vô vàn

          Nên chẳng muốn lệ đày thêm mắt mẹ!

                   (Gọi Đàn-  Cơn mộng dữ)

Linh mục Phan Văn Lợi tố cáo tội ác cộng sản bắn vào dân Quảng Trị trong Mùa hè đỏ lửa 1972:

          Hôm ấy cũng một ngày nắng đẹp

          Nhưng từ bên kia Thạch Hãn đạn réo gầm.

          Đồng bào tôi nơi Quảng Trị, tất tả cuống cuồng

          Vứt hết cửa nhà liều thân chạy thục mạng

          Miệng thét thất thanh, mặt mày hoảng loạn

          . .  .    .     .      .     .      .       .       .      .   .

          Bỗng dưng pháo đạn chuyển sang thế chận đầu

          Đồng bào vô tội của tôi nơi cây cầu

          Cây cầu dài khét tiếng ‘ Kinh hoàng đại lộ’!

          Cối 61, B40 thản nhiên trực xạ

          Nam nữ, trẻ già, hết thảy trở thành bia!.  . .  .

                   (Tuyển Tập Thơ Văn Ái Quốc Mùa Xuân Khởi NghĩaĐDại lộ kinh hoàng )

Tô Thùy Yên kể lại kể lại chuyện xưa để nói chuyện nay:

          Nhớ xưa thiên địa dấy binh lửa

          Xứ xứ rần lên người giết người

          Thú loạn rừng kêu rú nhật nguyệt

          Ruộng hoang, thành trống ai tìm aỉ

          Núi đổ lấp sông, sao chổi hiện

          Nhãn tiền sống chết, chuyện như chơi

          Đêm trước đại quân vừa hạ trại

          Chiều nay lều cháy xác thây phơị  . .

                   (Tuyển Tập Thơ Văn Ái Quốc -  Lão trượng )

Những cảnh tang thương chết chóc do cộng sản gây ra  luôn hiện đến trong giấc mơ của Xuân Hiến::

          Thây co quắp theo anh trong giấc ngủ

          Xác ngổn ngang trên những lối anh đi

          Đại lộ kinh hoàng trên nẻo anh về

          Cuộc chiếm Mậu thân hiện hình nơi anh đến

                   (Gửi Julie)

Vân Nương viết về ngày 30-4 và bức tượng người chiến sĩ tại nghĩa trang Biên Hòa:

          Nói sao hết những bạo tàn reo rắc

          Dân miền Nam gánh chịu những ê chề

          Tôi căm hận bọn người như dã thú

          Anh ngồi tâm lắng đã từ lâụ   .   .

                   ( Pho tượng bên đồi)

          Thơ Nguyễn Chí Thiện là thơ chiến đãu,có một phong cách rất độc đáo  Ông là người  can đảm. Thơ của ông công kích thẳng vào cộng sản:

          Nó đứng không yên, tất bật điên đầu

          Lúc rụt vào Tàu, lúc rúc vào Nga

          Nó gọi Tàu Nga là cha anh nó

          Và tình nguyện làm con chó nhỏ

          Xông xáo giữ nhà, gác ngõ cho cha anh

                   ( Tự do,  258)

          . . .  .  bọn cướp tự do

          Đạo mạo, thung dung trên trên tàn tro xương sọ

          Tôi không nhớ hết tên bọn nó

          Duẩn, Giáp, Hồ Hề, Chinh Xu gì đó!

                   (Đất nước tôi, 1971)

          Hang Pác Bó thành hang ác thú

          Bác Hồ già hóa dạng bác Hồ Ly

                   ( Đồng lầy, 30)

Giai đoạn này là giai đoạn thơ chống cộng bộc phát mạnh mẽ. Người người lên tiếng, nhà nhà lên tiếng tố cáo tội ác cộng sản. Bây giờ kết thúc cuộc chiến tranh bằng vũ lực và tiếp tục cuộc chiến tranh ý thức hệ. Bây giờ là lúc ngưòi quốc gia chân chính tự mình điều hành cuộc chiến đãu chống cộng sản, không cần sự viện trợ của quốc gia nào, không cần vũ khí, không lệ thuộc vào chính sách ngoại giao và quân sự  của ai. Sau một thời gian, một số thi sĩ đã tìm cảm hứng ở nhiều đề tài khác, nhưng ở những thi sĩ chân chính với lập trường quốc gia chân chính, vấn đề cộng sản vẫn là một đề tài quan trọng trong việc mưu cầu tự do và hạnh phúc cho nhân dân VIệt Nam. Lúc này, nhiều tập thơ chống cộng ra đờị

 

V- chiến tranh

Chiến tranh là một phần của cuộc đời người Việt Nam. Chiến tranh là một đề tài luôn hiện lên trong tâm hồn người Việt Nam, nhất là những chiến sĩ cộng hòa. Diên Nghị đã suy nghĩ về chiến tranh và ngày 30-4-1975. Đó là nỗi đau khổ luôn dày vò người  cựu chiến binh:

          Nuối tiếc, buồn thương đâu dễ nguôỉ

          Chua cay lần khóc lẫn khi cười

          Tay ôm vững súng đành buông súng

          Đồng đội tang thương-  cuộc đổi đời

                   (Nửa đêm đọc thơ lệ)

Nhất Tuất không trách ai, ông trách ông là ‘tên đào binh’. Trong thư gửi cho con, ông viết:

          Bỏ đơn vị, gia đình

          Thoát thân bố chạy trước

          Tên trung tá đào binh

          Cắm đầu giông khỏi nước

                   (Mò kim đáy biển )

Duy Năng cũng có những ý tưởng giống Diên Nghị:

          Ôi những trầm luân, những nổi trôi

          Cánh chim tan tác bốn phương trờị

          Sa cơ đồng đội, ta chung chịu

          Nghé lạc , đàn tan, giữa nẻo đờị

                   (Đã từ chinh chiến điêu linh)

Tùy Anh viết về ngày 30-4:

          Quê người chợt nhớ chợt mong

          Tháng tư lòng lại chạnh lòng nưóc non.

                   ( Mai rồi, tháng tư)

Theo Nhất Sơn Vũ Quang Hán, kết thúc cuộc chiến đã đem lại bao xáo trộn cho dân chúng miền nam vốn sống’ cuộc sống rất người và rất hồn nhiên’:

          Trời êm ả như con thuyền xuôi nước

          Bỗng một phút cuồng phong làm đảo ngược

          Kẻ ra đi người sống cảnh lưu đày. .   .

                   (Mất gì?)                

 

VI- vượt biên

Một số người Việt hải ngoại là thuyền nhân. Họ không bao giờ quên những ngày tháng hãi hùng đó. Hình ảnh con tàu vượt biển bao giờ cũng nằm sâu trong tiềm thức ngườI Việt. Hà Huyền Chi nhắc đến hải tặc và những xác người:

          Vẫn còn đó những con thuyền mục nát

          Như con người bầm dập vỡ niềm tin

          Vẫn còn đó biển vô tình tàn ác

          Nhiều xác người tan tác, giữa trời quên

 

          Vẫn còn đó nụ cười điên hải tắc

          Những mũi da đâm lút thịt da tươi

          Những thô bạo ê chề trên thể xác

          Bao hồn trinh thảm thiết khóc thương đờị

                   (Vẫn còn đó)

Mai Thảo đã kể cho chúng nghe chi tiết cuộc hải trình của ông:

          Suốt bảy ngày đêm theo sóng nước trôi đi

          Lúc báo động  xuống hầm tàu đóng kín

          Báo động qua, lại thảnh thơi hơi thuốc nhìn trời

          Trong đêm dài bó gối nhìn lên

          Biển sao sáng xuống lòng tối thẳm.  .  . .

                   ( Hõi mình giữa biển)

Trong khi đó một số thuyền nhân lại bày tỏ lòng can đảm, và óc mạo hiểm trong nhữnmg ngày tháng lênh đênh trên sóng nước:

          Một sớm thuyền ta ra giữa biển

          Ôi trời lồng lộng nắng thênh thang

          Những khi cười mỉm khinh nguy hiểm

          Là lúc trong ta vỗ cánh bằng.  .   .

                   ( Hoài Điệp tử- Hành 40)

 Dư thị Diễm Buồn viết về cuộc vượt biển của bà:

          Đoàn tàu vẫn kiên trì không lùi bước

          Tiến âm thầm trong biển nổi cơn điên

          Thủu thủ vững tay ghìm tàu tới trước

          Nên sá gì biển vật vã triền miên.

                   (Tại sao tôi yêu biển)

VII- tù đầy

Một số văn thi sĩ hải ngoại đã là tù nhân của chế độ cộng sản. Họ không bao giờ quên những ngày tháng hãi hùng đó. Song Nhị viết:

          Tôi đi dưới bóng thời nô lệ

          Ngọn núi đè lên cả kiếp người

          Đủ ngón đòn thù ân huệ lắm

          Quất len da thịt đã chai sần

          Lưỡi dao sỉ nhục xuyên tim óc

          Vết chém khoan hồng tươm xác thân

                   (Tôi đi giữa đoàn tù vác đá )

Thy Lan Thảo luôn nhớ lại những ngày tháng ngục tù:

          Tám năm ta sống trong tù ngục

          Vẫn biết ngày về cuộc bể dâu

          Thực cảnh chỉ làm nuôi ý sống

          Miền Nam rồi sẽ phải về đâủ

                   (Ý của ngày về )

          Tháng chín giặc về, thân chiến bại

          Đời tù mưa gió lại buồn thêm.

                   (Đầu thu Houston)

Hoàng Anh Tuấn ghi lại những ngày tháng biệt giam:

          Hẹp vuông khung cửa biệt giam

          Thờ ơ mấy ngón tay đàn chấn song

          Khúc này hờn tủi vuốt cong

          Xin dâng lên mắt lưng tròng ngọc trai

          Khúc này lộc nở nụ gai

          Xin môi thêu nét mỉa mai mấy cành.  .    .

                   (Những khúc biệt giam)

Hạ Quốc Uy không quên những ngày bị giam giữ trong rừng xanh. Rừng đem lại cho ông những hình ảnh buồn:

          Rừng rất lạ với người tù còn trẻ

          Bởi cùng dường nên từng bước có hoang mang.

          Ta đứng lại xem đời sau thăm thẳm

          Tiếng lạ vỗ cành nghe cũng gian nan

                   ( Biến thành con vượn hú)

Nguyễn Bá Trạc ghi lại nỗi đau đớn của ông khi thấy tấm thân tàn của người tù từ trại tập trung của cộng sản trở về:

          Xót quá anh ơi, người bạc mệnh

          Thân gầy ngâm nước độc rừng thiêng

          Những củ sắn trụi trơ chiếc rễ

          Trong bụng giun to tướng của thằng em

                   ( Tiếng biển khơi)

 

VIII- cái Chết

Những nhà thơ tị nạn phần lớn đã lớn tuổi cho nên trong một lúc nào đó của chuỗi ngày tàn, họ đã nghĩa về giây phút cuối cùng của họ. Với Du Tử Lê, chết là một phương tiện để trở về lại quê hương đã mất.  Du Tử Lê đã viết bản chúc thư trong đó có đoạn:

          Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển

          Cho tôi về gặp lại các con tôi.. .

Mai Thảo là một nhà văn nhưng ông cũng làm thơ. Thơ của ông là giấc mơ về cuộc đời của ông sau khi ông chết. Ông đã nghĩ đến đền đài, danh vọng và hư không:.:

          Ta thấy tên ta những bảng đường

          Đời ta, sử chép cả ngàn chương

               Sao không, hỏi cát sông Hằng ấy

               Còn chứa trong lòng cả đại dương

          Ta thẵy hình ta những miếu đền

               Tượng thờ nghìn bệ những công viên

               Sao không, khói với hưong sùng kính

               Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên

Nói chung, các thi nhân không cho chết là hết mà linh hồn còn hiện hữu sau khi thân xác đã ngưng hoạt động và tan rữa. Sau khi chết đa số muốn về lại quê hương, và một số cho rằng cuộc đời là hư không trống rỗng.

 

IX- ước mơ

Con người ai cũng có ước mơ. Những thi sĩ Việt Nam ở hải ngoại cũng có những ước mơ. Họ không ước mơ hạnh phúc cho riêng họ. Họ ước mơ cho hạnh phúc cả dân tộc. Phan Lạc Giang Đông mơ một ngày Việt Nam trở thành một nước dân chủ thật sự:

          Nỗi thôi thúc tóc em bay phơi phới

          Mùa vui tin dân chủ ấm lời nhaụ

                   ( Cánh bay của ngôn ngữ mới)

Trần Thúc Vũ cũng như đa số dân Việt hải ngoại luôn mơ một ngày giải phóng quê hương:

          Núi vươn muôn đỉnh xa

          Âm vang lời Sát Thát

          Thấu chăng lời gió đưa

          .    .    .       .      .    .

          Mai này anh trở về

          Đó anh, trời dựng sáng

                   ( Muôn Trùng )

Mạc Trần Lan  nung nấu ý  chí khôi phục  quê hương:

          Giữa phồn hoa, quê hương xứ lạ

          Xin được thề: cùng trở về

          xây dựng lại Việt Nam.

                   (Xin giữ trọn lời thề )

Nguyễn Đức Vinh đã dùng hình ảnh rất mạnh và rất đẹp khi viết về sông Đồng Nai và thác Trị An để bày tỏ chí hướng của mình:

          Mai bốn phương về thác Trị An

          Ngàn thiêng mưa lũ nước sông gầm

          Dẹp phăng gai góc cùng rơm rác

          Như chúng ta về quét loạn quân

                   (Tuyển Tập Thơ Văn 90 tác Giả, 96)

Một số mơ ngày trở lại quê hương . Linh Linh Ngọc ước đước cùng người yêu trở về quê hương thanh bình, nghĩa là sẽ trở về khi quê hương không còn màu cờ đỏ,  khi không còn cộng sản tham tàn, độc ác:

          Tôi ước ao một lần

          Dù chỉ một lần thôi

          Được cùng anh trở về quê cũ

          Trong trái tim héo khô tàn rữa

          Ta sẽ tưởng như đời vừa được tưới mưa xuân

          Mình sẽ cùng đi từ Bắc Lạng, Cao Nguyên

          Dần xuống đồng bằng, về Thăng Long cũ.  . .   .

                   ( Tôi ao ước một lần)

Một số tác phẩm đã mang nhiều chủ để, có thể là hai, ba hay bốn chủ đề đã trình bày trên.

Viết Cho Quê Hương của Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn ấn hành năm 1982. Võ Đại Tã viết những bài thơ này sau ngày 30-4-1975.Ông luôn  cảm thấy thương nhớ quê hương, một quê hương đã xa vời trong trí tưởng:

          Chim sầu ngưng đập cánh

          Mỏi mắt tìm quê hương

          Nơi đây chiều buông lạnh

          Mây che mọi nẻo đường.  .   .

 

          Xa chim, chiều đứng lặng

          Không nhà, chim tha phương

          Cánh đeo sầu trĩu nặng

          Bay hoài : đâu quê hương? (26)

Ông mang nổi sầu lữ thứ, mang nỗi cô đớn và đau khổ của người mất nước:

          Xung quanh tôi chẳng có một người thân,

          Tên thành phố cũng là tên xa la..

          Nơi đây có trăm đường vạn ngả

          Nẻo nào đâu dẫn tới quê  tôỉ

          Gớc công viên thành tượng đá tôi ngồi

          Ai có hỏi, xin trả lời mất nước (66)!

Rất nhiều thi sĩ thương nhớ quê hương bằng tâm tư, riêng Võ Đại Tôn lại yêu quê hương bằng hành động. Ông đã mơ ước trở về và ông đã trở về giải phóng quê hương cho dù ông đã thất bại:

          Chờ ngày mai ứ đọng dâng đầy                                  

          Thành thủy lưu theo về sông, về biển

          Theo đường trăng, theo ánh sao hiển hiện

          Chảy về quê- tìm lại tháng năm xưa (68)!

Ngô Minh Hằng nổi danh về những bài thơ chống cộng của bà. Bà đã xuất bản bốn thi phẩm và thơ của bà đã được đăng trên nhiều tạp chí VIệt ngữ hải ngoại. Lời thơ của bà đanh thép  hùng mạnh và điêu luyện.

Đọc các tập thơ của bà, chúng ta nhận thấy có nhiều chủ đề. Chủ đề thông thường của Ngô Minh Hằng và của người Việt xa xứ là thương nhớ quê hương. Tâm hồn của luôn hướng về Sài gòn với những địa danh quen thuộc và mến thương:

          Chao ôi nhớ quá Sài gòn!

            Nhớ đường Thống Nhất, Tháp chuôngĐức Bà

          Nhớ lòng Nguyễn Huệ đầy hoa,

          Bạch Đằng nhớ bóng con phà Thủ Thiêm

          Tam Đa xanh đỏ nhớ đèn,

          Bến Thành bốn cửa, nhớ chen chân người!.  .    .                               ( Nhớ Sài gòn-  Gọi Đàn)

                                      

Phần lớn thơ của Ngô Minh Hằng mang tính cách tố cáo cộng sản. Bà đã viết về thân phận người quốc gia trong nhà tù cộng sản:

          Đoàn người lặng lẽ cuốc đào, khiêng

          Lũ ngợm súng ghìm, đứng kế bên.

          Trăm ngọn roi thù vun vút xuống

          Ngàn lời nói độc chất chồng lên.

          Mồ hôi pha với niềm cay oán,

          Nước mắt hoà chung nỗi hận phiền.

          Chẳng mội ai mà không biết họ

          Ấy người buông súng nhận oan khiên!

                   (Người cải tạo- Gọi Đàn)

          Ba gian mái rạ, vách bùn rơm,

          Tám chục tù nhân chẳng chiếu giường.

          Nền đất cỏn con, người một khoảng

          Màn trời lồng lộng, gió mười phương.

          No nê dạ tiệc bầy muỗi, rệp,

          Vui vẻ hòa ca, lũ nhái ương.

          Chỉ có người tù là khốn khổ

          Đêm dài, bụng rỗng, lạnh da xưong !

                   ( Đêm tù của người cải tạo- Gọi Đàn)

Bài thơ Đám ma tù của Ngô Minh Hằng là một bức tranh đậm nét thê lương:

          Vài tên cầm súng bước đi đầu,

          Tên nửa ẠK tiếp phía sau

          Một xác bó tròn đôi manh chiếu

          Hai đầu buộc tréo bốn dây lau

          Không kèn, không trống, không đưa tiễn

          Chẳng khói, chẳng nhang, chẳng nguyện cầu

          Chỉ có bạn tù khiêng lặng lẽ

          Vùi nông một khối hận thù sâu!

                   ( Gọi Đàn)

          Cũng như đa số người tị nạn, Ngô Minh Hằng mang cái sầu vong quốc. Trong những bài thơ Tết, Ngô Minh Hằng thường bày tỏ cái cô đơn của người biệt xứ:

          Riêng ta xuân đến có gì vui

          Chỉ thấy lòng đau ,dạ ngậm ngùị

          Hăm mấy năm dài từ mất nước,

          Quê người, hồn khách, cố hương ôi!

                   ( Chúc Xuân- Gọi Đàn)

Ngô Minh Hằng đã nói lên hai nỗi đau trong lòng người quốc gia Viêt Nam: một cái dau thất trận và một cái đau lưu đày nơi miền đất lạ:

          Rách nát chinh y, cung kiếm gãy

          Đau  buồn tủi nhục kiếp hàng binh.

          Mẹ ơi, con đó, thằng con mẹ         

          MườI mấy năm trôi chống ngục hình!

 

          Nay sống bơ vơ miền đất lạ,

          Nửa là Mán dại, nửa người kinh.

          Ôi thằng đã dở, ông càng dở

          Cúi mặt, con hay tự rủa mình!

Ngoài những bài thơ tranh đãu, Ngô Minh Hằng còn sáng tác nhiều bản tình ca êm ái. Dư Âm Tiếng Lòng đều viết về chủ đề tình yêu, trong đó có tình quê hương, tình gia đình, và tình nam nữ.

Ngô Minh Hằng đã yêu và đã hưởng hương vị ngọt ngào của tình yêu:

          Hôm xưa người ấy đến thăm,

          Đường xa chẳng ngại mưa dầm ứơt vaị

          Bao nhiêu cây số đường dài,

          Là bao nhiêu tiếng lòng ai đợi chờ . . .

                   ( Nhớ ai nhớ quá thế này. . . Tiếng Lòng)

 và cũng đã đau khổ vì yêu:

          Tôi mất anh rồi có phải không?

          Đường đi không tới, với không cùng!                           

          Chao ơi, cay đắng lời chia biệt,

          Không giận, không hờn sao bỗng dưng..  .

                   ( Đường đi không tới  - Dư Âm)

Luân Hoán là một người viết nhiều thơ. Chủ yếu là tho tình. Ông cũng đã một thời say mê bóng săc giai nhân:

          một đời mê những mỹ danh

          Thanh Thảo,KIều Phúc, Kim Anh, BÍch Đào

          Phương Anh, Mông Thúy, Lạc Giao,

          Bích Hường, Phước Khánh, Hồng Đào, Thái Thụ

          Huỳnh Thi, Phước Khánh, Quỳnh CU&

          Duyệt Lai, Châu Yến Loan, Từ Thoại Chị   .  .

                    ( Tình thơ một thuở)

Ông yêu đương và nhớ nhung:

          nhớ em

          đại khái ra saỏ

          là nghe

          tim

          ruột

          cồn cào xốn xang

          cái đầu

          cái óc

           hoang mang

          lỗ tai

          con mắt

          lang thang ngoài đường

          tay thừa

          miệng thiếu

          mùi hương

          tâm

          thân

          trống rỗng

          bốn phương gió vàọ  .  .  .

                   ( Nhớ em )

Thơ Luân Hoán cũng là thơ chiến tranh.  Có những bài thơ ông dã viết trong những ngày chinh chiến mà ông là một chiến sĩ đã xông pha trận mạc và hy sinh một phần thân thể:

          em hỡi em

          anh bây giờ là tên lính mù

          trong trận chiến tối

          phải dùng lệ mình và máu thân yêu

          để nhìn mặt người

          phân chia thù bạn

          để bắn thật tình

          để giết tự nhiên

          .  .   .   .     .    .    .     .   .

          anh bây giờ là tên lính mù

          chỉ huy một trung đội điếc

          với chiếc còi trên môi

          và hàng trăm câu chửI tục.  .   .  .

                   (trái tm hành quân)

Và ông quan niệm cuộc chiến tại Việt Nam là một cuộc chiến phi lý:

          một con gà trống đỏ

          một con gà trống đen

          cùng nhìn về phương đó

          khát vọng và bản năng

          cả hai cùng hăm hở

          đá nhau không nói năng

                   ( chiến tranh)

Thơ Luân Hoán cũng có tính chất hoài hương. Ông đã về thăm cố hương trong một đêm mơ:

          đêm qua tôi mơ về Quảng Ngãi

          Hái trái mù u ở Nghĩa Hành

          gió tử Mộ Đức vây tôi lại

          rờ rẫm thăm từ gốc tóc xanh

 

          tôi gặp bàn tay ai rất mềm

          xâu từng chùm nắng xách hai bên

          thân thương vói niu tôi dừng lại

          xối rửa đôi lòng mắt trót quên

                            

          tôi gặp tôi qua núi với rừng

          Trà Bồng, Thạch Bích cõng trên lưng

          đêm qua tôi mới về Quảng Ngãi

          một đoạn chân lìa xưa đến thăm!

                   ( về lại những địa danh nằm lòng)

Thơ Diên Nghị là tiếng thơ tvong quốc, và tù đày. Ông đã tả rất sống động quang cảnh những ngày cuối tháng 4  năm  1975:

          Tháng tư chợt thức, bừng tin dữ

          Địch khép vòng vây -  ép Sài gòn.

          Hải hạm vội vàng rời căn cứ

          Đường bay tên lửa xé thinh không

 

          Tháng tư, vợ ngóng chồng đầu ngõ

          Nón sắt, giày sô, vất dọc đường

          Mưa sớm khai mùa tuôn xối xả

          Đất trời  cũng xót động tai ương!

 

          Thương binh lê lết ra y viện

          Tà quyệt nào tha phận tật nguyền.  .    .

          Đơn vị rã hàng, tàn chinh chiến

          Hỡi người nhân đạo với nhân danh? .  .   .  .

                   ( Tháng tư)

Ông cũng thuật rất kỹ cảnh tết trong tù:

          .Ba tết lướt qua tù cải tạo

          Khổ sai lao động rã mòn hơi

          Manh áo pjong phanh, khoai sắn độn

          Chiếu sạp gập gồ, lưng mỏi rời

          Bụng đói chờ xuân quanh đống lửa

          Nụ cườI đồng độI chứng hiếm hoi

          Bát nước chè xanh chia từng ngụm

          Bi thuốc cuối cùng rứt làm mồi. . . .

          Sốt rét vàng da, phù thủng,lỵ

          Ba tấc đất nông ,vúi phận người  . . .

                   ( Chờ xuân bên đống lửa)

Thơ Diên Nghị là thơ hoài hương. Ông không quên được quê hương khốn khổ trong chế độ cộng sản, mà chính ông và gia đình ông là nạn nhân:

          Thao thức đêm xuân nhớ Sài gòn

          Mẹ già, hẻm tối, cảnh neo đơn

          Lửa tàn, bếp lạnh, nồi cơm độn

          Giấu mặt đêm đêm ngậm tủi hờn.

 

          Xơ xác chung cư, khổ khóm phường

          Vợ nghèo hôm sớm gánh hàng rong

          Chắt chiu từng mảnh đời con dại

          Ác mộng tàn canh, giấc hãi hùng.

 

          Lứa tuổi thơ ngây bỏ lớp trường

          Lất lây hè chợ kiếm tình thương

          Chán chường cảnh ngộ chồng ly vợ

          Cha bán thân con dở độ đường .

 

          Hệ lụy nân gian hóa bần cùng

          Xe thồ, ba gác, đạp còng lưng

          Không nhà, kẻ sống bên người chết

          Dầu gối lên mồ chịu ngủ chung. .   . .

                   ( Xuân chỉ dành riêng)

Và thơ Diên Nghị cũng là thơ lưu đày. Sang Mỹ, ông rất sung sướng hưởng cảnh thanh bình, tự do:

          Ta đến Ca li, tiết mạnh đông

          Gió mang hơi tuyết, nắng hơi đồng

          Xôn xao viễn khách, sân ga lạ

          Tay nắm bàn tay, nghẹn tủi mừng

          .     .     .    .     .     .      .     .      .

          Ánh điện năm màu tỏa phố đêm,

          Lan man giấc ngủ,mộng bình yên. . .

                   ( Ta lại gặp ta)

Dẫu sao, người ra đi khỏi quê hương như cá ra khỏi nước,  buồn nhiều hơn vui, tuổi già lại đến, ông cảm thấy lòng trĩu buồn:

          Nắng sương hai tiết, phương trời lạ

          Một chiếc phù sinh , đón tuổi già

          .  .  .  .      .    .     .    .     .      .   .

          Rửa sạch bàn tay bụi bám đầy

          Buông rời hiện tại, thả tương lai

          Ta tìm số kiếp, vùng tâm thức

          Gượng gạo lời vui nhạt tiếng cườị  .   . . 

                   ( Từ một góc nhìn xuân)

Thơ Trần Hoài Thư là thơ của người lính. Một phần thơ ông mang hình ảnh những cuộc hành quân gian khổ:

          Mang Giang rừng tiếp rừng

          Sương mù không thấy đỉnh

          Áo nhà binh chưa khô

          Mong dài thêm cái nắng

 

          Tháng ba đường ra trận

          Qua bìa rừng khai quang

          Mang giang này Mang Giang

          Quạnh hiu hồn cây cỏ. .  . .

                   ( Tháng ba đi hành quân)

          Nửa đêm kẻng giục, quân ra trận

          Kinh động cả lòng đêm tối bưng

          Nhận lấy ba ngày cơm gạo sấy

          Không buồn chỉ một chút bâng khuâng

 

          Đới ta là con số không vô tận

          May trên đầu có chiếcx mũ rừng    

          Mũ nhẹ nên coi đờI cũng nhẹ

          Chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân.  .   .

                   ( Trước giờ tiếp viện)

Ông đã nói lên tâm trạng người lính sống nay chết mai:

          Xin cô hàng thêm một két bia

          Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết

          Cô hàng ơi, một mai tôi chết

          Ai tiêu dùm ba tháng tiền lương

 

          Hôm qua tôi đứng chợ Bồng Sơn

          Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc

          Tôi nói làm sao qua dòng nước mắt

          Thị trấn này vừa mất thằng con.  .   .   .

                   (Một Ngày Không Hành Quân)

Cũng như bao quân nhân cộng hòa, Trần Hoài Thư đã phải ngồi tù trong những trại tập trung của cộng sản. Bốn năm trôi qua trong da9u đón, khi ông trở về mqái tóc đã bạc mặc dầu ông còn trẻ:

          Ngày tôi vào tù con tôi một tuổi

          Ngày tôi ra tù con tôi lên năm

          Khi tôi trở về, đứng ngoài cửa ngõ

          Mừng tôi trở về cây mận trổ bông

          Tôi bước vào sân, bông rơi trên tóc

          Con tôi nhìn tôi, ngơ ngác, kêu ông

          Cả nhà sụt sùi, má tôi bảo cháu

          Ba cháu đây mà, cháu nhớ ba không?

          Thì tôi đã về, bốn năm phù du

          Thì tôi đã về, má ôm tôi khóc

          Cây mớn trước nhà đầy bông nở trắng

          Như trắng mái đầu tóc má tóc con. .   .

          (Cây mớn trước nhà)

Thơ Trần Hoài Thư cũng là thơ hoài hương. Ở Mỹ, ông luôn nhớ xứ Thần Kinh ngày xưa:

          Sông vẫn mênh mông và mênh mông

          Đây là đâu hay giòng sông Hương

          Thèm ơi, một chuyến phà năm cũ

          Một chuyến phà chở hết quê hương

 

          Thèm ơi, một chuyến phà Thừa Phủ

          Chở những người áo trắng qua sông

          Có bao cô gái qua Đồng Khánh

          Để tôi còn đốt thuốc chờ mong.  .   .   .

                   ( Cuối năm bên dòng Hudson)

Thơ của Trần Hoài Thư là thơ lưu đày, vì ông luôn cảm thấy cô đơn ở nơi quê người:

          Ta sẽ đứng yên như người Từ Thức

          Và cô đơn như cùng tận cô đơn

          Như một người không có quê hương

                   ( Cuối năm bên dòng Hudson)

 

Thơ thời kỳ này là thơ trung thực, chất liệu của thơ là máu, nước mắt, và nỗi đau thương của bản thân, gia đình , bạn bè và đất nước. Thơ phát xuất từ thực tế, từ trái tim, nó hoàn toàn khác lối thơ tưởng tượng hoặc thương vay khóc mướn. Thơ lúc này phản ánh lịch sử, mang những sắc thái đặc biệt của lịch sử và cuộc đời. Thời kỳ này thi nhân xuất hiện rất nhiều . Những người xưa nay chuyên viết tiểu thuyết, làm báo và nghiên cứu nay cũng làm thơ  bởi vì những nỗi đau của bản thân, những tang thương của đất nước khiến họ xúc cảm mà thành thơ. Những chủ đề lớn của thời đại là tình yêu,  gia đình, quê hương, chiến tranh, tù đày và cuộc tranh đãu cho tự do, dân chủ cho người ở lại, và cho dân tộc.

Thời kỳ này thơ mới, thơ tự do phát triển mạnh. Thơ phần nhiều ý tưởng rõ ràng, bình dị. Loại thơ siêu thực và tượng trưng ít thấy. Nội dung thơ mang cảm xúc mạnh, hàm chứa nỗi buồn về quá khứ và hiện tại nhưng không phải là tư tưởng hiện sinh như thòi kỳ trước. Đôi khi  bi đát và châm biếm. Phần lớn thơ hải ngoại đều nung nấu mối căm hờn chủ nghĩa cộng sản phi nhân và mong ước một ngày không xa hòa bình thực sự, và tự do dân chủ thực sự sẽ về trên quê hương Việt Nam.

                                     

( Lịch sử Văn Học VIệt Nam)

 

Nguyễn Thiên Thụ