Trần Quí Phiệt
DU KÍCH SÔNG THAO *
(trích đoạn hồi ký)
Một điệu nhạc quen thuộc phát ra từ máy thu thanh của Tân ở trong nhà. Đó là Du kích Sông Thao với tiếng hát cao vút tuyệt vời của Lê Dung. Tôi nghe bài này lần đầu tiên ở làng Lương Yến năm 1950 trước khi cha tôi đem chúng tôi về Đồng Hới bắt đầu cuộc sống mới. Sáng tác năm 1947 do Đỗ Nhuận trong cao trào chống Pháp, bài hát mô tả những hoạt động của du kích quân trên sông Thao và làm say đắm mọi người. Bài hát cũng làm tôi, một cậu bé mười ba tuổi, say đắm và càng thêm yêu nước. Nó làm tôi nhớ đến những học sinh ở trường Yersin, một trường trung học Pháp ở Dalat, trong đó có người anh cùng mẹ khác cha của tôi đã bỏ học đầu quân chống Pháp. Vào một ngày trong tháng tám năm 1945 bọn trẻ con chúng tôi tiễn chân các anh chị tại nhà ga Dalat, lòng cảm thấy say sưa khi thấy họ biểu lộ lòng ái quốc. Trước khi đáp tàu ra tiền tuyến, chúng tôi được bảo thế, các anh chị ấy biểu diễn thao tác đội hình một cách tuyệt hảo, hô to những khẩu hiệu chống Pháp, và hát những bài ca ái quốc oai hùng như Du kích Sông Thao. Có những giọt lệ trong mắt mọi người. Tất cả chúng tôi đều bị hớp hồn. Tôi muốn noi gương các anh chị ấy biết bao!
Tiếng hát Lê Dung cũng khêu gợi những hình ảnh của thời gian ngắn ngũi tôi trọ tại Lương Yến. Trong khi chờ đợi chạy về Đồng Hới, vùng duy nhất không bị Việt Minh kiểm soát, tôi gặp Tiến, một du kích quân, làm tôi nhớ lại các anh chị ái quốc ở ga Dalat năm xưa. Một thanh niên có học thức, anh Tiến yêu Việt Nam thật sự và chiến đấu cho độc lập và tự do của đất nước. Mặc dù Tiến dường như biết được kế hoạch đào thoát của chúng tôi về thành phố, anh ấy không ngăn cản mà trái lại khuyến khích tôi, theo lời anh, nên “theo đuổi một nền giáo dục tốt để sau này phục vụ đất nước hữu hiệu hơn.” Để có một nền giáo dục tốt có chỗ nào tốt hơn thành phố, nơi chính phủ quốc gia kiểm soát? Rõ ràng là Tiến muốn tôi, người bạn nhỏ của anh, muốn tôi về một nơi tốt hơn cho tương lai của tôi, bởi vì anh có thể ngăn cản kế hoạch của chúng tôi hay tệ hơn có thể báo cáo với Việt Minh và chúng tôi có thể bị trừng phạt vì tìm cách trốn chạy Việt Minh.
Tiến là người bạn tốt nhất trong thời niên thiếu của tôi. Tôi gặp anh chỉ một vài lần khi anh không đi hành quân. Nhưng khi trở lại anh đem đến tôi một sự vui sướng lớn lao. Anh dạy tôi vẻ người và vật với những nét đơn sơ, sau này trở thành món tiêu khiển chính của tôi lúc nhàn rỗi. Tôi nhớ nhất là tài âm nhạc của anh. Có môt lần trong một buổi họp mặt với nhóm của Tiến tôi nghe anh hát những bài ca yêu nước với tiếng đệm từ chiếc khẩu cầm của anh. Tiến thật tuyệt vời khi anh trình tấu Du kích Sông Thao. Lòng yêu nước Việt Nam chứa chan, tài biểu diễn tuyệt hảo, và giọng ca cao vút của anh thích hợp với bài ca đặc biệt này, tất cả khiến cho việc trình bày bài hát của anh một thành công lớn. Khi Tiến ngưng hát chúng tôi cảm động đến chảy nước mắt.
Tình bạn của tôi với Tiến, việc anh đem tôi đến chơi với nhóm của anh, và ngay cả những tình cảm yêu nước của tôi hôm nay tất cả sống dậy khi tôi nghe Lê Dung hát tuyệt phẩm của Đỗ Nhuận. Lê Dung đưa tôi về quá khứ của tôi và tôi nghe trở lại Du kích Sông Thao do anh Tiến hát vào ngày hôm đó năm mươi năm trước ở Lương Yến buổi chiều trước hôm chúng tôi đào thoát về Đồng Hới. Một đợt sóng hồi ức trào lên trước mắt tôi, mỗi hình ảnh đều phập phồng sự sống. Khi giọng Lê Dung và Tiến hòa nhịp với nhau thành một toàn thể nhịp nhàng, quá khứ sống lại, hòa lẫn với hiện tại. Bài hát làm sống động quá khứ, đem quá khứ trở về hiện tại, biến quá khứ thành một loại hiện tại vĩnh cữu, vô thời gian, hay là một quákhứ-hiệntại liên tục. Bài hát đem ra ngoài, đem lên bề mặt niềm nhớ vô thức quê nhà khôn nguôi cháy âm ĩ trong tim tôi từ khi tôi rời Đồng Hới. Tôi không cần dùng ký ức để tạo dựng lại quá khứ. Nằm trên đôi cánh của tiếng nhạc, quá khứ đến với tôi toàn diện, mạnh mẽ, sinh động, không bị ngắt quảng, liên tục không ngừng trước mắt tôi. Quá khứ hồi sinh thực sự cùng với tiếng nhạc và lòng yêu nước khiến tôi choáng ngợp nhưng trước đây tôi đâu có cảm thấy hay quan tâm? Ai đang hát? Lê Dung hay người bạn Tiến tôi đã mất? Giọng hát nào làm thức dậy niềm nhớ quê nhà, tình yêu đối với quá khứ, sự vui mừng tìm lại được nó, và nỗi đau buồn khi mất quá khứ của tôi?
Bài hát bắt đầu với người kể chuyện tâm sự với sông Hồng thường xuyên được dùng để chuyên chở dân quân ra tiền tuyến trong thời kỳ chống Pháp. Bởi vì con sông là một phần của đời sống dân quân từ lúc sinh ra đời, nó cũng giống như người bạn trung thành, đáng tin cậy họ có thể tâm sự cùng. Đối với người Việt Nam những sự vật hiện hữu từ thuở hồng hoang, đã nuôi dưỡng họ như đất đai, sông núi không những quan trọng mà còn thiêng liêng nữa. Bảo vệ chúng có nghĩa là bảo vệ quê hương của mình.
Bắt đầu bài hát người kể chuyện hồi tưởng cuộc sống ở quê hương thanh bình trước khi quân thù xâm lăng. Khi giọng cao vút của Lê Dung diễn tả trạng thái tâm hồn hồ hởi của người kể chuyện, tôi cảm thấy được đưa cao lên cõi thần tiên của tuổi ấu thơ hạnh phúc vô vàn. Khi người hát xuống giọng để khóc than số phận đất nước của người kể chuyện, tôi bị trả về kiếp lưu đày và buồn khổ. Tim tôi nặng chĩu như giọng trầm buồn của Lê Dung than vãn kiếp không nhà của người dân quân. “Đây những người bao năm lạc loài / Mơ ước được mong sao quay về quê nhà.” Chúng tôi cùng chia xẻ một giấc mơ giống nhau, những dân quân trẻ trong bài hát của Đỗ Nhuận và tôi, người lưu vong già trở về từ Hoa Kỳ. Lòng nhớ quê hương đem tôi trở về nơi chôn nhau cắt rún của tôi, nhưng âm nhạc giúp tôi kết nối với những hồn ma của quá khứ tôi quen và không quen biết và qua họ tôi tìm được thiên đường đã mất của tôi.
Mặc dù được xếp loại là hùng ca, Đỗ Nhuận viết Du kích Sông Thao trong chiều hướng một khúc bi thương. Bản nhạc không nhằm nâng cao tinh thần dũng mãnh của người chiến sĩ bởi vì nhịp nhanh quá ngắn. Ngược lại, nhịp điệu chậm và dài thích hợp cho việc diễn tả nỗi buồn rầu chất chứa trong lòng chỉ có những kẻ sống xa nhà mới cảm thấy và không bao giờ nguôi ngoai. Nỗi buồn của những chiến sĩ dài và mênh mông như nỗi buồn bất tận của tôi, như không gian (con sông Thao này, quê hương đổ nát vì chiến tranh này) người kể chuyện đang tâm sự, như thời gian (không phải thời gian diễn tiến theo đường thẳng mà là thời gian ký ức im lìm, dày cộm, đặc sệt) hòa lẫn với không gian. Giọng cao vút và điệu nhạc buồn thâm nhập vào mỗi tế bào của thân xác tôi, thấm sâu không gian và thời gian mênh mông và đặc quến, biến thành những giọt buồn khi chúng chạm vào những ngọn lá, cành cây trước ngôi nhà thôn quê của cô tôi. Tim tôi và không gian bao la quanh tôi phập phồng với những đợt sóng nhạc buồn và hình ảnh của quá khứ. Bài hát đem quá khứ về với tôi, nhưng khoảnh khắc hạnh phúc nó đem lại quá ngắn ngũi tôi chỉ cảm thấy cô đơn và mất mát. Hơn nữa, vì tôi chỉ khêu gợi quá khứ như một người cao niên, sự mệt mõi do tuổi tác đã không cho tôi cảm nhận như một đứa trẻ⸺một điều cần thiết để tìm lại được thiên đường. Nhìn quá khứ giống như nhìn hình ảnh diễn ra trên chiếc đèn mầu nhiệm. Dù yêu dấu và quen thuộc, nhưng hình ảnh của nó thuộc về thế giới đã chết, không có sự sống động, mạnh mẽ của thời gian hiện hữu để chống lại nỗi đau của kiếp lưu đày và sự yếu kém của ký ức tôi. Liền khi quá khứ⸺thời thơ ấu, quê nhà, thiên đường—xuất hiện trước mắt tôi, chúng liền tan biến vào khoảng không, để lại cho tôi nỗi buồn rầu khôn nguôi.
______
Trích dịch từ Hồi ký In Search of Lost Time, sắp xuất bản.
Trần Quí Phiệt
2023