Trần Quí–Phiệt

CHA TÔI

hồi ký


Tháng chín năm 1980 gia đình tôi rời Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với tôi. Cha tôi, người đã kinh qua biết bao nhiêu di chuyển trong cuộc đời (rời bỏ quê hương Quảng Bình vào Dalat kiếm sống. Nơi đây Cha gặp mẹ tôi và sau đó sinh ra tôi là con trai đầu lòng), bảo người con dâu ràn rụa nước mắt “Ta không muốn bỏ xương nơi xứ người.” Khi biết rằng tôi đang lo thủ tục xin gia đình đoàn tụ, ông cụ liên tiếp thúc dục người con dâu đừng bỏ qua cơ hội này. Theo lời Nga, ngày gia đình lên đường Cha rời nhà rất sớm, bảo rằng muốn đi Đà Nẵng thăm gia đình em tôi, nhưng có lẽ Cha không chịu nỗi cảnh phải xa mấy đứa cháu nội vĩnh viễn. Nhưng khi Nga và mấy đứa con sắp rời nhà bỗng nhiên ông cụ trở về, sụm người vì đau buồn. Sau khi khóc từ biệt cha tôi, Nga đưa các con lên ga Huế, nhưng khi đến nơi nàng hốt hoảng khám phá rằng thằng bé Hùng biến mất. Nó trốn về nhà thăm ông nội nó. May mắn nó nghe lời khuyên bảo của ông và trở lên ga vừa kịp chuyến tàu.


Đoàn tụ với gia đình được hai năm hôm nay tôi mới có dịp nghĩ đến cha tôi! Công việc và chăm lo gia đình chiếm hết thời gian đến nỗi tôi ít nhớ cha tôi. Tôi bị bệnh hai ngày nay, và ngày nay là lần đầu tiên tôi nhớ đến Cha sau khi uống một liều thuốc mạnh Tylenol cho cơn sốt và sau đó ngủ thiếp. Trong giấc ngủ nặng nề anh ta mơ thấy mình đang ở Trung Quán- một làng nhỏ ở Quảng Bình- nơi gia đình cậu bé tản cư đến từ Văn La, làng quê của cậu, khi nghe tin quân Pháp đã đổ bộ ở cảng Đồng Hới. Để nuôi cậu và em cậu, cha cậu cứ mỗi hai tuần đi chửa bệnh kiếm tiền ở các làng xa. Sau khi cha cậu đi rồi, cậu bé ngã bệnh và bị sốt nặng. Có ai đến báo tin đừng chờ cha cậu về nữa vì cha cậu đã đi vĩnh viễn. Anh sụm người nước mắt ràn rụa, tỉnh ngủ hoàn toàn. Nga đang ngồi trên giường tôi, khóc. Tôi thấy bức điện tín Western Union trong tay nàng. “Ba đã - ” Nga nói, mắt nhòa lệ. Tôi biết điều gì đã xảy ra. Cái chết của cha tôi được báo cho tôi trong giấc ngủ qua một giấc mơ nhưng sự kiện này bị biến đổi: tôi được mang về thời thơ ấu để sống lại hạnh phúc có một người cha và bất hạnh bị mất người. Người đem tin buồn đến cho tôi trong giấc ngủ là Nga. Nga nhận được điện tín nhưng không muốn cho tôi biết vì sợ rằng tin buồn ảnh hưởng đến sức khỏe của tôi. Nhưng Nga đâu có thể che dấu tôi mãi.


Tôi không khóc được. Tôi cứ nhìn vào khoảng trống không trước mặt. Đầu óc tôi trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. Nhưng tôi biết cha tôi đã mất rồi. Có điều tôi không có phản ứng gì về cái chết của Cha. Tôi cũng không cảm thấy suy sụp vì nỗi buồn hay cái gì cả. Đó là cái tôi hoàn toàn trong tỉnh thức khi nhận được tin buồn nhất trong đời của tôi! Chỉ khi tôi ở trong giấc mơ, khi tôi bị chìm đắm hoàn toàn trong cõi vô thức tôi mới giao tiếp với quá khứ của tôi và con người tôi yêu thương nhất đời, mới trờ thành con người thật của tôi, mới có thể khóc vì cái chết của cha tôi.


Tôi không biết có ai bất hạnh hơn tôi đến nỗi không nhỏ được một giọt nước mắt khi cha tôi chết, không về nhà được để chịu tang Cha (lúc bấy giờ những ai không có liên hệ với chính quyền mới xin được visa về nước không phải là chuyện dễ dàng), không thể bảo với đại học nơi tôi làm việc rằng cha tôi đã qua đời (thật ngượng ngùng, và xấu hỗ nữa, khi người ta hỏi tại sao không về nhà chịu tang Cha). Tôi đi làm mỗi ngày, thuyết giảng trong lớp, nhưng óc tôi trống rỗng. Việc này kéo dài nhiều ngày, và sau đó tôi bắt đầu cảm thấy sự mất mát to lớn nhất trong đời tôi phải gánh chịu!


Ba tuần sau (liên lạc với Việt Nam chỉ có thể được qua một nước thứ ba, do đó phải một thời gian lâu hơn thơ mới đến thân nhân ở Mỹ) tôi được thơ của em tôi. Chú ấy cho biết ngày cha chúng tôi sắp được khâm liệm, bỗng nhiên Cha mở mắt và hỏi tìm tôi. Em tôi không nói chú ấy nói gì với Cha về tôi, nhưng khi chú và gia đình sang Mỹ tôi cũng không hỏi giờ phút lâm chung của cha tôi như thế nào. Đã mười lăm năm từ lúc cha tôi qua đời, nhưng tôi vẫn không đủ can đảm nghe lời trối của cha tôi em tôi thâu vào băng cassette. Tôi thấy những di vật của Cha—một cái chuông nhỏ Cha dùng để gọi em tôi hay gia đình của chú khi cần vì Cha nằm liệt trên giường, một chiếc mũ nĩ cũ kỹ tôi thường thấy Cha đội lúc tôi còn ở nhà mỗi khi Cha đi phố mua bánh kẹo cho mấy đứa cháu nội của người. Nga cất dấu tất cả những di vật này không cho tôi thấy vì sợ tôi chịu không nỗi.


Người ta nói rằng thời gian là phương thuốc tốt nhất để chửa lành những vết thương tâm thần. Nhưng trong trường hợp tôi sầu muộn ngày một tăng thêm. Tôi khá bình tĩnh ở trường và trong lớp, nhưng khi hết nhiệm vụ tôi vào văn phòng của tôi, đóng cửa và yên lặng khóc. Tôi có thể dối mọi người vằng cách giả vờ bình thản, nhưng tôi không thể dối mình. Nỗi buồn tôi đè nén trước mặt mọi người trở về và hành hạ trả thù tôi khi tôi ngồi một mình.


Bởi vì sức khỏe tôi bị ảnh hưởng khi tôi đóng hai vai trò, Nga khuyên tôi nên đi chơi để thay đổi không khí. Nhân dịp Kathy Parington, một đồng nghiệp ở Boston College, đem sinh viên đi Pháp và cần tôi thông dịch, tôi tham gia đoàn này. Khi không theo đoàn, tôi ngao du thành phố Paris. Vào những lúc tôi một mình, bản ngã “xã hội” của tôi sụp đổ. Lần đầu tiên tôi ý thức được cái chết của cha tôi và thân phận mồ côi của tôi gần đến tuổi lão niên! Tôi viếng thăm mấy hiệu sách ở Paris, hy vọng hòa mình trong không khí trí thức sẽ làm vơi nỗi u buồn. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng được may mắn. Hôm nay khi tình cờ xem qua ấn bản mới của tự điển Larousse, tác phẩm tham khảo cha tôi ưa thích nhất, ở một hiệu sách trên bờ sông Seine, tôi đột nhiên cảm thấy một cơn buồn dữ dội tràn ngập người tôi. Tôi vội vàng rời hiệu sách để che dấu hai dòng nước mắt tuôn trào trên má tôi.


Tôi muốn khóc thật nhiều. Dường như những dòng nước mắt lặng lẽ chưa đủ, những tiếng nấc dồn nén từ lâu bùng ra từ ngực tôi. “Ba ơi! Ba ơi!” tôi vừa đi vừa khóc trên đường về khách sạn. Hơn bao giờ tôi cảm thấy sự cần thiết phải có cha như bây giờ dù tôi biết cha tôi không còn nữa. Khi còn ở nhà sống bên cạnh Cha mặc dù tôi đã có vợ con và được an toàn, tôi vẫn xem Cha là một dấu hiệu an ninh và che chở. Tôi vẫn còn sống trong thuở ấu thơ kéo dài, mặc nhiên chấp nhận sự hiện diện của Cha trong gia đình tôi, chưa bao giờ tưởng tượng một ngày nào đó sẽ mất người. Kể từ ngày định mạng 26 tháng 3 năm 1975 mặc dù tôi biết tôi sẽ không còn gặp Cha nữa trong cuộc đời này và tấm điện tín ấy sẽ đến bất cứ lúc nào vì cha tôi đã quá già, tôi chưa sẵn sàng—và ngay bây giờ vẫn thế trong giấc ngủ⸻cho cái tin dữ ấy. Khó mà chấp nhận cái chết của một người ta yêu thương, vẫn còn sống mạnh mẽ trong lòng chúng ta và chúng ta có nhiều kỷ niệm êm đềm với người ấy. Ngay cả người chết cũng không chấp nhận cái chết của họ bởi vì họ còn tiếp tục thương yêu người sống. Không phải Cha sống lại chốc lát và đòi nhìn mặt tôi sau khi Cha đã mất ngày hôm trước hay sao?


Người chết ám ảnh chúng ta bằng giọng nói và hình ảnh của họ. Chúng ta thấy, nghe và nhớ họ thường hơn và da diết hơn khi họ còn sống. Bởi vì chúng ta mất họ vĩnh viễn, tất cả những gì liên quan đến họ kể cả cái gì chúng ta coi thường vì không quan trọng và nghĩ rằng sẽ không nghĩ đến nữa—bỗng chốc hồi sinh và chế ngự tâm trí chúng ta. Mặc dù cha tôi không còn, tôi có thể hình dung dễ dàng trong những năm chiến tranh Đông dương Cha dắc tôi và em tôi đi từ làng này sang làng khác tìm một mái nhà mới sau khi nhà chúng tôi bị Việt Minh thiêu hủy trong chính sách “tiểu thổ kháng chiến” của họ. Trong chiếc áo dài lương đen bạc màu trông Cha ốm yếu nhưng đầy quyết tâm bảo vệ hai đứa con nhỏ của Cha. Chiếc đèn mầu nhiệm quay và trong cảnh kế tiếp tôi thấy cha tôi về nhà sau một chuyến đi lâu đến các làng mạc xa xôi chửa bệnh nuôi chúng tôi, tay xách xâu cá thu và chiều hôm đó thế nào chúng tôi cũng có bữa ăn ngon. Những khoảnh khắc ấy của quá khứ diễn ra trong trí tôi như một cuốn phim câm trong đó tôi vừa là nhân vật vừa là khán giả. Là những bóng ma của quá khứ, những hình ảnh trong phim lặng lẽ nhưng vì một lý do—chúng biểu hiện thưở thiếu thời khắc nghiệt nhất, đau khổ nhất của tôi trong đó lặng lẽ chịu đựng là phương cách duy nhất của chúng tôi đối phó với nghịch cảnh. Chỉ khi tôi trở lại giai đoạn hạnh phúc của tuổi thơ tôi, thời kỳ tôi sung sướng nhất, cuốn phim mới phát ra âm thanh. Đó là giọng của một đàn ông trung niên ngâm một bài thơ của Đỗ Phủ để ru đưa con trai bảy tuổi nằm trong lòng ông. Bềnh bồng trôi với làn sóng của tiếng ngâm êm dịu và chìm trong hạnh phúc tuyệt vời của tuổi thơ, cậu bé đi vào giấc ngủ rất nhanh. Đó là lần duy nhất tôi nghe âm thanh giọng nói của cha tôi. Còn những lần khác hình ảnh của Cha chỉ lướt qua trong trí tôi, lướt nhanh, lướt không ngừng dường như ký ức của tôi không còn thời gian bao lâu nữa. Trong khoảnh khắc ngắn ngũi của hồi ức, những hình ảnh của cha tôi trong suốt ba mươi năm tôi sống bên cạnh người đầy sự sống bây giờ trở nên thầm lặng, lạnh lùng, rời rạc vì thiếu tiếng nói của Cha. Chỉ trong giấc mơ tôi thỉnh thoảng nghe giọng nói của Cha, nhưng tiếng của người từ đáy mồ sao mơ hồ, rời rạc, lạ lùng dến nỗi tôi hầu như không nhận ra ý nghĩa. Cha đã mất khả năng của tiếng nói, thuộc về một thế giới khác, và tôi chỉ có thể liên lạc với Cha qua những hoài niệm xa xôi. Chúng tôi bị bắt buộc sống trong những thế giới riêng biệt và với thời gian sẽ xa cách nhau vĩnh viễn. Tôi cũng sẽ quên cha tôi hoàn toàn. Có lẽ vì vậy trong giấc mơ tôi thấy Cha trông buồn rầu, im lặng và tan biến mất nhanh. Chúng ta không thể nắm bắt quá khứ, tìm lại được thiên đường trọn vẹn. Từ giấc mơ tôi tôi luôn tỉnh dậy và nước mắt đầm đìa tôi thốt lên tiếng kêu “Ba ơi!” khi cuộc đoàn tụ của chúng tôi đột ngột chấm dứt. Khi ý thức chưa phục hồi hẵn bởi vì tôi chưa tỉnh thức hoàn toàn, tôi không cảm thấy cha tôi đã mất. Tôi thấy tôi như đứa trẻ khóc vì nó bị tách rời cha hay mẹ nó. Khi tôi tỉnh dậy, tôi ý thức được rằng tôi không còn là đứa bé tủi thân khóc thuở xưa, nhưng là tôi thực sự bây giờ. Mặc dù thế tôi vẫn khóc như đứa trẻ con, ý thức đã mất cha tôi sống động hơn trong giấc mơ. Nước mắt tôi tuôn trào. Tôi phải nằm một lát nữa để than khóc sự mất mát lớn nhất trong đời trước khi có thể ngồi dậy làm công việc thường nhật. 


Em tôi đem sang Mỹ một ít di vật của cha gồm có một cái mũ nhạt màu, mấy tập bản thảo viết tay với nét chữ rất đẹp về y lý Đông phương, bản dịch Đường thi và thơ Việt Nam viết bằng chữ Hán (Cha đã làm công việc này một thời gian lâu trước khi tôi đi du học. Cha bảo tôi muốn để lại  di sản của người cho mấy đứa cháu nội), một băng cassette ghi lời dặn của Cha cho tôi và gia đình tôi, một cái chuông nhỏ em tôi nói Cha dùng để gọi con cháu khi cần từ giường bệnh. Đầu óc tôi quay cuồng với biết bao câu hỏi tôi muốn hỏi em tôi về khoảnh khắc cuối cùng của cha tôi, nhưng tôi quyết định lại thôi. Đã trễ rồi tôi đâu còn làm gì cho cha tôi nữa! Tôi không có mặt bên cạnh Cha lúc Cha lâm chung. Tôi cũng không về được để thăm nấm mồ của người. Vì thế, hỏi em tôi Cha làm gì lúc còn sống chỉ đau lòng chúng tôi thôi. Nhưng tôi không khỏi tự hỏi tình trạng Cha như thế nào trước khi người qua đời. Cha tôi phải bị bệnh và nằm liệt giường một thời gian dài. Tại sao Cha phải lệ thuộc vào cái chuông nhỏ ấy nếu không vì không có ai ở bên cạnh trông nom Cha? Và còn cuộn băng cassette nữa? Cha nói gì trong ấy nếu không phải bảo tôi người nhớ tôi và muốn thấy tôi lần cuối cùng biết bao nhiêu?


Con tim rất mạnh mẽ trong việc bảo vệ quá khứ nhưng không chống nỗi sự nghiệt ngã của thực tại. Mặc dù cha tôi đã mất mười năm nay, tôi vẫn không đủ can đảm nghe cuộn băng ghi lời Cha trăng trối với tôi lúc người lâm chung. Nhưng ngược lại, những bài thơ của Cha bừng lên sức sống mỗi khi tôi đọc và thưởng thức trăng trối với tôi lúc người lâm chung. Nhưng ngược lại, những bài thơ của Cha bừng lên sức sống mỗi khi tôi đọc và thưởng thức trong cảnh lưu vong ở xứ người. Những chữ Cha viết không còn là chữ nữa mà tràn đầy hương thơm và hình ảnh yêu dấu của ngày xưa. Những chữ Hán Cha viết còn thơm mùi mực tàu do tôi mài khi còn ở nhà bên cạnh Cha. Bỗng nhiên tôi  cảm thấy như một mặc khãi thiêng liêng: qua thi ca của Cha, tôi được đem về sống với quá khứ thần tiên của tôi, Cha còn sống, gia đình tôi nguyên vẹn, đời sống chúng tôi giản dị nhưng hạnh phúc, tất cả chúng tôi đều an lành. 


Trần Quí–Phiệt  

2025