Đặng Đ́nh Túy

nhà văn

tạp ghi

 

Nghệ thuật luôn luôn đ̣i hỏi sự đổi mới. Với tiến tŕnh đó khiến nghệ thuật càng lúc càng ĺa xa dần thực tại. Thử lấy một thí dụ trong bất cứ một ngành nào trong bẩy  (hay tám) ngành nghệ thuật cho tới giờ này con người có được,– hội họa chẳng hạn. Dấu vết xưa cũ nhất là những họa phẩm được khắc lên đá khi loài người chưa tạo ra được những phương tiện chúng ta có ngày nay. Hăy tưởng tượng là con người lúc ấy trải qua những kinh nghiệm buồn vui nên cũng mong để lại chút dấu vết, điều ấy là những thôi thúc hết sức tự nhiên. Sống, ta có ngay ư thức về sự phôi phai, mất mát nên mong muốn giữ lại. Chẳng c̣n cách níu giữ cái có thật th́ phải tạo ra cái không thật lắm, nhằm nhắc nhở kư ức. Tôi nh́n thấy nàng lần đầu lúc nàng ngắt một đóa hoa dại cài lên tóc, tôi bèn khắc lên đá h́nh ngựi trên tóc có gắn đóa hoa. H́nh ảnh ấy chẳng đẹp đẽ ǵ lắm nhưng nó có giá trị ở chỗ khi nh́n nó là tôi tưởng tượng ra phút giây bồi hồi mà tôi đă trải qua với nàng. Sáng kiến đầu tiên của tôi sẽ gây được hứng khởi cho nhiều kẻ khác, mỗi người đều có những kinh nghiệm tương tự và cùng muốn ghi khắc hầu ǵn giữ phút cảm xúc quí báu cho riêng ḿnh. Trong số họ tất phải có những kẻ có “hoa tay” hơn, do đó tác phẩm tạo được sẽ xuất sắc hơn. Chính những kẻ này sẽ đi tiên phong trong việc cải tiến nghệ thuật. Sơ khởi người ta chỉ mong làm thế nào cho giống hệt được thực tại, ư niệm hội họa lúc ấy chỉ  là sao chép thật tỉ mỉ và thật trung thành. (Mạc Đỉnh Chi đi sứ sang Tàu thấy bức vẽ mấy con chim tưởng thật đă gắng chụp bắt, làm tṛ cười cho mấy quan lại người Hán). Nhưng càng về sau th́ chính những kẻ có “hoa tay” lại là những kẻ bừng tỉnh sớm nhất để nhận ra rằng sao chép sự thật chưa đủ. Vẽ chàng Kim Trọng lần đầu trong buổi thanh minh đi tảo mộ nh́n thấy hai nàng Kiều e lệ nép vào dưới hoa ta không cần phải tô kỹ mấy ngọn cỏ dưới chân chàng Kim, cũng không cần băn khoăn chi về tên tiểu đồng dắt ngựa mà chỉ nên cố gắng phác họa nét mặt thộn của kẻ ngây t́nh cùng sự kín đáo của hai nàng dù “t́nh trong như đă” mà “mặt ngoài” th́ “c̣n e”. Thành ra điều không vẽ ra được mới là điều đáng kể! Nỗ lực nắm bắt cái không vẽ ra được mới coi là thành công. Mục đích nhằm đến đă khiến nghệ sĩ cố ư xao lăng phần thực mà nhằm phần hồn. Những bức họa theo thời gian không c̣n là bức ảnh chụp nữa mà nhiều khi hoàn toàn lạ lẫm. Picasso vẽ nàng Dora khóc (Femme qui pleure) trưng ra trước mắt chúng ta một bức tranh rằn ri hỗn độn ; chúng ta không thấy Dora khóc, chỉ riêng ông ấy thấy v́ ông vẽ Dora bằng tâm trạng của ông qua nước mắt Dora. Bắt đầu từ đây kẻ thưởng ngoạn nghệ thuật phải tập nh́n tác phẩm qua nội tâm họa sĩ.

Ư nghĩa của sáng tạo là như thế.

Tuy nhiên đừng thừa cơ có nước đục mà thả câu bừa! Tài hoa là cái mênh mông nhưng vẫn có qui luật. Đừng tưởng cứ tha hồ bôi xanh bôi đỏ rồi bảo rằng đấy là hội họa. Cũng như thơ tự do. Tuy không bị bó buộc v́ vần điệu, v́ số câu số chữ, kể cả sự “hợp lư”, những liên hệ về ư tưởng nhưng trong toàn thể nó vẫn có trật tự tinh thần riêng, không phải muốn gán ghép thế nào cũng xong. Tôi nhớ một đoạn của nhà thơ mà tôi rất thích. Có nhà biên khảo đă khen ngợi loại thơ lục bát của tác giả nhưng riêng tôi lại t́m thấy trong thơ tự do người thơ c̣n tung hoành phóng túng hơn và viết “tới” hơn nhiều. Đọc nhà thơ này tôi cảm thấy nhiều mới lạ, nhưng trong mới lạ vẫn quen thân ; nó gợi cho ta cảm tưởng được trở về ngôi nhà cũ, nh́n lại những khuôn mặt quen thuộc xưa. Có lẽ đó là sự đồng cảm. Nhưng tôi đă bị cụt hứng ít nhất v́ hai người ngoài cuộc, hai người ấy đă cho rằng tôi mê nhà thơ chứ không mê thơ. Sự đó khiến tôi không c̣n muốn để tâm t́m hiểu sâu hơn về thơ của tác giả này nữa. Đáng tiếc (cho tôi)!

Sáng tạo, trong hội họa và trong thơ, trực giác đóng vai tṛ quan trọng, thậm chí rất quan trọng. Kẻ sáng tạo thường không phải là kẻ sống duy lư nhưng điều hắn thực sự cảm nhận vẫn có một hài ḥa rất hợp lư, cái đó không do dẫn dắt của lư trí mà của t́nh cảm (v́ hài ḥa nên hợp lư chứ không phải v́ hợp lư nên hài ḥa!) Điều này đ̣i hỏi cái mà ta gọi là hứng khởi. Hứng khởi chỉ là giây phút mà nguồn t́nh cảm trong ta đạt tới mức cao vời, nó giúp ta hoàn thành nhanh chóng những điều muốn bày tỏ ; riêng phần qui luật không phải do trực giác tạo ra mà do sự làm việc, suy nghĩ, nghiền ngẫm âm thầm của cá nhân nghệ sĩ từ lâu nay đă biến thành nếp trong trí óc. Người ta bảo người nghệ sĩ làm việc ngay khi anh ta không làm ǵ cả, v́ tuy không làm ǵ cả nhưng anh ta đă làm ngày làm đêm, luôn băn khoăn trong đầu, luôn tính toán trong đầu, tưởng tượng trong đầu. Và quan sát. Và nghe ngóng. Và suy nghiệm. Tất cả vốn liếng ấy được cất đặt kỹ và giai đoạn sáng tạo là giai đoạn mà những vốn liếng đă đầu tư lâu nay được mang ra dùng. Có thể ngay bản thân nghệ sĩ cũng không ư thức được  việc ḿnh chọn màu, những nét cọ quất mạnh xuống nền vải, coi chúng như hành động bản năng, thực ra là một chọn lựa đắn đo từ nhiều năm tháng ; tương tự đối với người thơ : những từ, những h́nh ảnh liên kết tài t́nh không phải là việc làm phút chốc, đó là những giọt nước cất chảy ra từ một hệ thống sàn lọc dài hơi. Đôi lần, nhờ cơn hứng, một bài thơ có thể được viết ra trong vài phút, ít đ̣i hỏi phải sửa chữa khiến nhà thơ tưởng chừng ḿnh chẳng nhọc công, kỳ thực việc làm đó đă được chuẩn bị từ trước.

Thật ra chỉ nhân một cơn vui (và hứng) nhờ đọc đoạn truyện ngắn của Vơ Phiến, hôm qua trên mạng Diễn Đàn Thế Kỷ có tựa “Quanh Ḿnh”, viết hồi 1974. Thời điểm đó tôi dốt văn chương v́ chỉ quanh quẩn cùng súng đạn. Có tới gần mười năm tôi không theo dơi xem nền văn học Việt-Nam ra sao, tiến tới đâu rồi ; khi rảnh rỗi chỉ nghĩ đến tụ tập anh em uống bia nghe nhạc và làm điều xằng bậy.  Đầu óc toàn bùn đất. Âu bây giờ trong thời gian hưu trí tôi được quyền và tự cho phép ḿnh nhai lại số thực phẩm mà ngày đó ḿnh không có cơ hội nhâm nhi.

Cũng theo lư thuyết đă tŕnh bày ở phần trên, bộ môn nghệ thuật nào cũng đi từ chỗ khởi đầu là bắt chước y hệt thực tại rồi sau đó đi xa dần. Văn chương bắt đầu bằng tự sự, kể chuyện thật, càng trung thành càng tốt, một thứ story-telling mà đến giờ này nó vẫn tồn tại và vẫn c̣n được yêu thích. Những tác phẩm xưa mà ta quen gọi là “truyện tàu” là một thí dụ.  Từ những Tôn Tẩn-Bàng Quyên đến Phạm Công Cúc Hoa, rồi đến các tác giả Việt thuộc loại tiền hô của Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh viết loại “kim thời tiểu thuyết”qua đến thời kỳ chúng ta c̣n ở Sài G̣n như bà Bút Trà, bà Tùng Long…  rồi sang đến bên Tây này tuy tŕnh độ thưởng thức đă có cao hơn dân ta nhưng sách của Guillaume Musso,  Marc Lévy của Tây, Danielle Steel (Mỹ) vẫn bán chạy như tôm tươi hơn hẳn những cây bút có chỗ ngồi hẳn hoi trong viện hàn lâm. Cao siêu cỡ Jean-Paul Sartre đă từng rẻ rúng phân loại écrivant với écrivain, nhưng chị bán hàng ngoài phố, anh công nhân trong xưởng sẽ chẳng bao giờ ngửi nổi La Nausée với Les Mots.

Kết luận là cho dù bạn viết hàng tá sách cũng chưa chắc bạn được liệt vào ghế nhà văn ; chỉ có thể là người cầm bút. Thực ra hầu hết mọi kẻ cầm bút vẫn đủ trung thực để tự  nhận rằng ḿnh chưa phải là nhà văn, (trừ ông nọ cứ oang oang trên sân khấu rằng “chính tôi là nhà văn mà”… để so sánh với cô bạn lẻo mép đứng kế bên) mà nếu có cái tước đó th́ chỉ do người khác gán cho ḿnh thôi.

Theo truyền thống anlgo-saxon th́ người ta phân loại sách ra hai cụm : cụm fiction và cụm non-fiction ; non-fiction là những loại sách… thật (khảo cứu, lư luận, phê b́nh) c̣n fiction thuộc loại ảo, tác phẩm của tưởng tượng (bên nhà gọi là hư cấu) –ảo! Nhưng  giữa ảo của Kim Vân Kiều truyện với chuyện ma Bồ Tùng Linh đă có chỗ xa xôi ; từ Kafka đến Haruki Murakami cũng lại khác xa nữa. Chung qui là nhằm làm mới – nỗ lực sáng tạo.

Từ chỗ cầm cuốn sách bạn mong ước đọc  xem anh chàng nghèo kiết xác kia sao có thể một ngày lấy được bà công chúa vừa mỹ miều vừa sang cả, ngày hôm nay xin bạn nên giới hạn bớt sự chờ đợi đó đi. Bạn có thể đọc bốn năm trăm trang sách mà chẳng thấy chuyện ǵ xảy ra, chẳng có ai mùi mẫn, chẳng có xác chết nào ḷi ruột, chẳng có người nào xách khăn gói ra đi biệt dạng. Ai nấy vẫn ngồi nguyên chỗ không suy suyển. Và bạn phản đối : thế th́ c̣n ǵ mùi mẫn hấp dẫn nữa?

Vâng. Không mùi mẫn hấp dẫn theo một quan niệm ; và rất hay, theo một quan niệm khác. Những bài tùy bút không nhằm kể cho bạn nghe chuyện gay cấn thế mà vẫn có nhiều người thích. Nhà văn Pháp Philippe Delerm viết cuốn sách chỉ để kể cảm giác về ngụm bia đầu nuốt qua cuống họng vẫn khiến ta thích thú
[1]. Nguyễn Tuân theo dơi kẻ người làm của nhà ông sáu lên xin nước về nấu trà, gánh gánh nước và nước trong bầu cḥng chành bắn ra cát tạo thành những vệt sao, chừng ấy cũng đủ cho ta lấy làm thú vị.

Truyện ngắn có tựa là Quanh Ḿnh được mở ra với cảnh cô Lộc và hai con vịt con – ngoài bắc người ta gọi là con ngan. Cách mô tả của Vơ Phiến rất tài t́nh. Ai trong chúng ta cũng đă từng nh́n thấy sinh hoạt của giống này và chính nhờ vậy ta mới thấy cách gợi h́nh của ông đúng chóc. Nhiều người bảo Vơ Phiến có tài quan sát ; tôi nghĩ mọi chúng ta đều có “tài” quan sát chẳng kém ǵ ông v́ nếu không có tài quan sát chúng ta sẽ không nhận ra cái khéo ấy của Vơ Phiến đâu! Đúng ra ông có tài thuật lại cách  quan sát của ông.
 
Bạn đọc cũng như tôi, khi bắt đầu đọc ta tưởng tượng rằng câu chuyện sẽ xảy ra khác nhưng càng đi sâu vào th́ ta bị tác giả điều chỉnh dần lối nh́n của ta, tựa như lần đầu cầm súng nhắm vào bia ta đùng một phát, sau phát ấy ta mới biết nên  đưa tầm súng xuống thấp một tị hay cao lên một tị nhích qua phải hay qua trái một tị mới mong chạm vào giữa bia được. Ta chờ đợi xem cô Lộc giở tṛ ǵ v́ nhất định cô ấy phải giở tṛ ǵ đó chứ, nếu không sao thành truyện được? Nhất định cái cô Lộc này phải là vai chính và cô sẽ  lôi kéo nhiều nhân vật khác vào tṛng nữa…
 
Nhưng không. Ta bị hai con vịt xiêm con quyến rủ ta rồi, nhất cái lối rượt theo mấy con ruồi rồi th́nh ĺnh nằm bẹp xuống. Chúng sống động quá, hai con vịt con ấy. Ta có cơ muốn bỏ quên cô Lộc mà theo hai con vịt –tựa như theo gánh nước của tên lăo bộc trong Nguyễn Tuân nhờ những giọt nước sóng ra ngoài– nếu không có anh chàng Tín xuất hiện bên rào. Thật ra anh chàng Tín này cũng ởm ởm ờ ờ chứ không chịu xông xáo cho đă cơn chờ đợi của chúng ta. Nhưng cũng hợp lư thôi. Anh chàng đă có vợ dù đỗ bằng kỷ sư tận bên Mỹ, lại thêm cô vợ đẹp, học cao. Thế th́ c̣n sơ múi ǵ cho cô Lộc? Và c̣n sơ múi ǵ cho anh Tín? Ậy, chính vậy đấy mới “có chiện” chớ. Lư do chính là nơi tác giả : Vơ Phiến không chủ  ư kể chuyện lâm ly đâu ; ông chỉ nhằm phân tích tâm trạng cô Lộc. Ông mở rất rộng ṿng vây bao quanh cô, bắt đầu từ …con vịt, rồi đến con chó con mèo rồi đến trẻ con người lớn. Không hiểu cô Lộc có cái duyên ǵ mà hễ có sự giao thiệp quen biết là lập tức sau đó có thương yêu tha thiết liền. Nếu liều lĩnh một chút, ta có thể bảo cô có hai ṿng rào ấp yêu : một ṿng gồm mọi người thiên hạ kể cả súc vật và một ṿng khác mơ hồ hơn do anh chàng Tín tạo ra. Nói là do Tín tạo cũng sai, cũng
do cả cô nữa. Tín có làm ǵ nên tội ! Ném một quả cam qua hàng rào cho cô, cười lớn tiếng khi cô chợp hụt, nhận chiếc kẹo trong tay cô mời, nh́n sững cô khi hai người gặp lại nhau bất ngờ khiến cô đỏ mặt, nếu những điều đó trở nên có ư nghĩa là tại cô nhiều hơn chứ không v́ “thứ t́nh cảm mơ hồ, khuây khỏa, nhạt nḥa” [2]đó.

Có một nhân vật phụ khác là mẹ cô Lộc. Tuy phụ nhưng cá tính nhân vật này thật đặc biệt mà chỉ cần viết ra rất ít nhà văn đă phác họa khá rơ khuôn mặt bà. Chúng ta thường bắt gặp những mẫu nhân vật như vậy nơi tác giả: có những cá tính b́nh thường hoặc dưới mức b́nh thường nhưng đă hành động một cách không b́nh thường chút nào. Việc một người đàn bà “không phải loại lẳng lơ lại c̣n quá bảo thủ, cố chấp” mà lấy hai chồng cùng một lúc chẳng phải là chuyện động trời sao? Sau đó bà có con (với ai?) rồi ông chồng thứ hai bị tai nạn chết, ông thứ nhất bỏ đi ; bà chọn lựa thái độ làm lơ với quá khứ động trời đó bằng cách coi như ḿnh không có quá khứ nữa. Xoá sạch.


Sự có mặt của bà, t́nh yêu Lộc dành cho mẹ sẽ là nút mở của câu chuyện, mặc dù Lộc vẫn có  quan niệm rằng “người con gái chỉ thực sự sống trong bất trắc” như “ư nghĩa của tuổi xuân” rồi Vơ Phiến chấm dứt truyện bằng hai tiếng “Ô hay!”. Hai chữ ấy “đắc” lắm. Chỉ cần hai chữ ấy để ông tự cho phép ḿnh kiệm lời và cùng lúc cho phép người đọc tham gia vào công tác khám phá thêm những điều ông muốn nói.

Có lẽ càng ngày tác phẩm văn chương càng muốn kêu gọi một sự hợp tác giữa người viết và người đọc. Trong ư hướng đó, tác phẩm không bao giờ là một tác phẩm được hoàn thành mà đang hoặc c̣n đợi hoàn thành. Nút thắt sẽ không được mở ra và không chỉ có một lối mở ; nó có nhiều lối mở tùy cách diễn dịch của người đọc. Hai chữ “ô hay” hẳn là để tỏ ra ngạc nhiên về cách chọn lựa của Lộc chăng? Ở đây là sự chọn lựa giữa ṿng rào thương yêu của nhiều người nhiều vật (ta sống giữa thừ t́nh êm đềm mà không bị chút đe dọa nào ; khổ thay có khi ta thấy như một mỉa mai bảo rằng đó chỉ là thứ t́nh an ủi “dành cho cô con gái muộn chồng”) và ṿng rào thương yêu thứ hai nhỏ bé, ích kỷ hơn, đầy mạo hiểm, đầy bất trắc có  thể  đưa đến đau khổ và  … trắng tay (là cái chắc : được anh chàng đă có vợ yêu đâu có thể là chuyện lâu dài)…


Vậy trọng tâm câu chuyện là ǵ? Là sự biến đổi tâm lư của người con gái trẻ chờ đợi t́nh yêu nhưng khi mơ hồ nh́n thấy cũng cùng lúc nhận ra quá nhiều cản trở. Từ đây có sự chọn lựa, dựa vào tính t́nh đương sự, dựa vào hoàn cảnh đẩy đưa, dựa vào một số yếu tố khách quan thuận lợi hoặc bất thuận lợi. Theo bài bản th́ như vậy. Nhưng kẻ sáng tạo sẽ dắt ta đi theo cách truy tầm của ông. Một con đường khác, không lối ṃn. Đôi khi ta c̣n bị kéo đi lung tung tưởng chừng lạc mất đích đến. Cũng là hậu ư của người viết nữa. Nhưng như đă nói từ đầu bài, sáng tạo đ̣i hỏi sự  mạo hiểm càng xa càng tốt, đối với thực tại. Dù vậy cũng không nên lạm dụng quá nhiều ảo thuật. Xa mà rất gần.


Ngoài ra, một tác phẩm hay c̣n nhờ vào một thứ trực giác mà không phải người cầm bút nào cũng sở hữu. Đọc Milan Kundera chẳng hạn, khi đă cầm sách lên khó mà dứt bỏ. Tôi nhớ rằng mỗi mở đầu tác phẩm ông, bao giờ ông cũng cho ta hoặc một ư tưởng hoặc một h́nh ảnh khiến ta bị cuốn vào ngay. Thí dụ h́nh ảnh người đàn bà đứng trên hồ bơi trong L’Immortaliaté hay sự xuất hiện của Tereza trước Tomas trong L’Insoutenable légèreté de l’être. Sức lôi cuốn của Vơ Phiến cũng tương tự.


Nhờ kỹ thuật internet ngày nay độc giả được phép bày tỏ ngay sau khi đọc tác phẩm. Hồi 1974, hẳn Vơ Phiến cho đăng trên báo, Bách Khoa chẳng hạn, rồi sau đó gom thành tuyển tập, xuất bản. Ông có thể bằng vào số sách bán để biết ḿnh có được người ta thích không. Cũng có chỗ mơ hồ. Ngày nay, truyện đăng lại trên mạng, có anh chàng vào đọc và phê : “hay quá. Đọc trăm lần vẫn thấy hay”. Nghe vậy thấy thích hơn chứ!

Tôi không biết phân tích kỹ thuật viết của Vơ Phiến, chỉ cảm thấy thích đọc ông và trăm lần đọc có lẽ tới chín mươi lần thích thú. Tôi cũng khoái thể tùy bút do ông viết. Ông không có cái tiểu xảo của Nguyễn Tuân trong cách lựa chọn h́nh ảnh, lời lẽ. Ông cũng không biền ngẫu và cầu kỳ như Mai Thảo. Nhưng không có không phải là thiếu. Ông chọn lối đi khác, thế thôi. Bản chất ông, văn phong ông không buộc ông vào những kỹ xảo. Ông thô nhám. V́ ông thích thô nhám, mộc mạc, quê mùa mặc dù nếu cần ông cũng văn vẻ bác học nhưng vẫn cứ ra điều b́nh dân.
Nhưng dù được viết dưới h́nh thức nào, phải thoát khỏi lối tự sự th́ mới mong biến câu chuyện kể thành một tác phẩm văn chương. Mà chưa có tác phẩm văn chương th́ không thể gọi là nhà văn được, như Sartre quan niệm.

 

Đặng đ́nh-Túy

[1]  La première gorgée de bière et autres plaisirs minuscules, 1997

[2] Nguyên văn

 

http://www.gio-o.com/DangDinhTuy/DangDinhTuyNhatKyMotThanXac.htm

 

© gio-o.com 2012