Trường Thu Đông

 

5 mãnh ván rời tặng con tim

 

1.

hầm mộ nổi, hầm mộ nổi

dự cảm hoài những hạt lệ xanh

bầy chó sói tuần tra mỗi tối

máu đã đầy những dãy hành lang

những hạt lệ vỡ trong hốc mắt

uất hận đầy môi giữ chặt răng

trên lồng ngực những đường dao cắt

( vết cào sâu của lũ chó săn )

hầm mộ nổi, hầm mộ nổi

thấy tên mình ẩn hiện giữa hàng bia

sợ hãi đốn hạ dần tình nghĩa

mỗi sớm mai là mỗi chia lìa

 

2.

làm sao sống khi biết mình đang chết ?

khi mộ bia đang nổi từng giờ

sợ hãi đã bốn bề phong toả

nghi kỵ đào những huyệt bơ vơ

 

những trái tim biết mình đang thở

bật sôi lên vì những im lìm

máu đã quyết xa rời bóng tối

uất hận đầy trong mỗi ngăn tim

tim đang thở và đang muốn sống

sống tự do chân thật với đời

nhưng " vết thương tự do " rát bỏng

tim nhịp đau những giọt bồi hồi

những khuôn mặt đanh như đá tảng

xây dầy thêm ( giữ lấy mộ mình )

khi trái tim như lên cơn sốt

đá tảng là dấu vết nguỵ trang

 

3.

máu từ tim máu lên hốc mắt

biến lệ xanh thành đá giữ hồn

máu từ tim máu dồn lên óc

nuôi niềm tin : - vượt khỏi mộ ngồi

máu từ tim máu nuôi tay siết

báo hiệu giờ dứt khoát ra tay

những mãnh ván từ tim ghép lại

chở linh hồn ra khỏi mộ đen

( cả trẻ thơ, thai nhi trong bụng )

quyết tìm sang bờ bến con người

quyết tìm đến nơi còn sự sống

còn tự do trong mỗi linh hồn

còn thương yêu giang hai tay rộng

lau khô dần những hạt lệ xanh

 

 

4.

thuyền trưởng là con tim

con thuyền là hy vọng

rời bến lắm mộ đen

hướng tới miền sự sống

hành khách cũng chính là thuỷ thủ

cả đời người vượt biển một lần

cả đời người đem thân đánh đổi

chết bên kia, không sống bên nầy

ôi, những thuỷ thủ đáng yêu

mang kinh nghiệm sống trong hầm mộ

chiếc la bàn cũ kỹ dẫn đường

bản đồ (là cuốn sách giáo khoa

dành cho những học trò đến lớp )

đưa đời mình đến chốn yêu thương

những thuỷ thủ năm châu ngưỡng vọng

anh hùng ca viết giữa đại dương

tim nhân loại tìm đâu cho rộng ?

trên tuyền kia, nhân loại cũng nhường !

thuyền ra khơi đêm khuya

bến tới là tự do

tình yêu là bãi đậu

đổi chết lấy nụ cười

hơn sống ngồi ngậm miệng –

ra khơi, ra khơi

trùng dương là bạn hữu

đưa người đến với người

 

5.

hầm mộ nổi, thuyền len khe nứt

thuyền mong manh, hoài bão vượt trời

bảy ngày đêm thuyền qua địa ngục

vượt trên ngàn cây số hải hành

tôi mừng rỡ vui căng lồng ngực

địa ngục nầy chị bỏ sau lưng

chị đã đến bến bờ mong ước

( cùng thai nhi mang nặng trong lòng )

thuyền một chiếc chở bao thế hệ

hoài bão mong giữ trái tim hồng

anh hùng ca những người vượt bể

đem trái tim thay ván đóng thuyền

người ở lại , ngực kề dao nhọn

( hầm mộ ngày một tối đen hơn )

người ở lại giữa lòng địa ngục

chọn trái tim : bãi chiến cuối cùng

mỗi trái tim là mũi tên đồng

lao đến đích : tự do , nhân ái

mỗi trái tim tự nhủ với lòng

tự do chết hơn tủi hèn để sống !

 

 01.6.1976

( Tặng chiếc thuyền, gồm 11 người Việt Nam vượt biển tìm sống tự do. Đến được Nam Dương. Trong đó có 4 trẻ em và một đàn bà đang mang thai.  Tin BBC )

 

 

tịnh khẩu

 

khi sống là cái chết muộn màng

và sương mù bay quanh vầng trán

khi bước tới bằng bước trở lui

thì mùa mưa chính là nắng hạn

 

tên mãi võ khoe đường gươm vụng

ảnh tượng làm bùa vật giữ nhà

giữa mùa xuân lá xanh sầu rụng

thì loài thú nói chung tiếng người

 

khi lớp học là chốn đấu trường

( thầy chào thua trước lúc so găng

và trò như ghế bàn buồn bã )

sách vở là một trò lố lăng !

 

khi loài thú đi qua sa mạc

tưởng diễn hành giữa chốn phố đông

thì trái tim chính là bầu bạn

của những điều giấu kỹ trong lòng.

                                                              

19.5.1976

 

Trường Thu Đông

 

(Trường Thu Đông là bút hiệu tôi gửi tặng tác giả một tập thơ tôi đang giữ trong ổ cứng. Tập thơ xuất thần! Thơ của một hồn thơ tài hoa cực kỳ lãng mạn Nam Kỳ bị lịch sử trấn lột và hiếp sạch vốn mạch. Tác giả đã gửi đến tôi nhưng sau gửi thư lại nói chưa muốn đăng lên gio-o. Tôi giữ tập thơ này bao nhiêu năm, cứ thỉnh thỏang mở ra đọc là nổi cơn ngứa ngáy muốn cho công bố.  Hôm nay tôi thử bắt đầu đưa lên gio-o com bằng một bút hiệu khác với tên tác giả gửi đến. Tập thơ được sáng tác vào năm 1976. Lê Thị Huệ)

 

© gio-o.com 2014