chân dung nhà thơ Nguyên Sa và nàng thơ Nga (sau này là vợ) ở Hà Nội năm 1952
Trịnh gia Mỹ
Nguyên Sa, Thầy tôi
Với tôi, Nguyên Sa không chỉ là một người Thầy dạy mà còn là một người cha, người chú, người bạn theo đúng nghĩa của nó. Ông sinh năm 1932, cùng năm sinh với Má tôi.
Đầu năm 1983, lúc ở đảo mới sang, một buổi sáng tình cờ tôi đọc được tạp chí Đời. Tôi gọi phone cho Nguyên Sa. Đó là một buổi nói chuyện, không, một buổi phỏng vấn đầy lý thú. Chuyện Việt Nam, chuyện bên đảo, chuyện bạn bè, chuyện đời sống…đủ thứ. Rồi ông hỏi tôi đang tính gì? Trời, một người vừa ngóc đầu lên khỏi vũng nước tưởng đã chết ngộp, đang từ từ ngữa mặt hít thở bầu không khí tự do trong lành. Đầu óc chưa tỉnh táo. Nét mặt đang lơ ngơ thì biết gì mà tính? Tôi cười cười “Dạ, con chưa tính gì hết” Rất là nhanh, ông tính cho tôi “Đi học lại đi, ở đây mà không có chữ nghĩa thì khó mà sống.”
“Khó mà sống”, câu nói làm tôi cũng hơi run. Nhưng chuyện trước mắt là phải kiếm tiền. Tôi bắt đầu làm quen với cái máy may công nghiệp. Cái apartment hai phòng má tôi thuê đã chứa 7 người, giờ thêm hai vợ chồng tôi cộng thêm thằng con trai nhỏ là đủ một chục. Tôi thuê cái máy may để kế bên giường. Vừa may vừa ghi tên đi học lại. Thỉnh thoảng Thầy Nguyên Sa hỏi thăm “giờ con đang làm gì?”, tôi tường trình, ông hỏi “con viết đi, có giờ viết không?” tôi thắc mắc “viết gì Thầy?” Ông nói viết truyện ngắn, viết tùy bút, viết cái gì mà người ta đọc được. Rồi ông ra lệnh “viết đi nhé, viết truyện ngắn cho Thầy”. Vậy là cái giường ngủ lại trở thành cái bàn viết. Tôi viết vào đêm khuya, khi cái máy may không được phép làm việc. Tôi vừa viết vừa làm homework. Homework ở trường thì mỗi ngày. Homework cho Thầy thì mỗi tháng. Đều đặn. Tôi viết tay trên tập giấy kẻ hàng rồi gởi Thầy. Mỗi tháng Thầy gởi cho tôi cái check. Tháng nào tấm check của Thầy cũng phụ cho cái check của hãng may giúp tôi trang trải rất nhiều chi phí khi đi học lại.
Nguyên Sa ít khi đi ra ngoài, càng không lê la cà phê mỗi sáng. Vậy mà Thầy biết rất nhiều thứ. Bolsa động tịnh một cái là Thầy đã biết. Phố Việt mình có cái gì thay đổi một chút là Thầy đã hay. Thầy làm báo Dân Chúng mỗi tuần, chẳng phóng viên, chẳng tòa soạn, vậy mà tin tức vẫn cập nhật, bài vở vẫn phong phú. Thỉnh thoảng Thầy nói với tôi “Vài chục năm nữa loại báo này chẳng ai đọc đâu con. Người lớn chết dần, bọn con nít đọc báo Mỹ chứ chẳng thèm đọc báo Việt”. Ngoài làm báo, Nguyên Sa còn làm băng nhạc. Những băng nhạc của Thầy toàn là ca sĩ thượng thặng. Thầy chăm chút từng bản nhạc, từng lời ca. Thầy vào ngồi luôn trong phòng thu nghe ca sĩ thu âm. Chỗ nào không ưng ý, Thầy bắt thu lại liền. Bởi vậy trung tâm băng nhạc Đời của Nguyên Sa luôn được niềm tin của thính giả. Đa số những bài hát trong băng là những bài hát phổ nhạc từ thơ của Nguyên Sa và những bài hát nổi tiếng mà ít ai nhớ tới. Nguyên Sa bắt được nhịp thẩm âm của người Việt hải ngoại nên Thầy thành công trong lĩnh vực băng nhạc. Nhiều nhạc sĩ phổ thơ Nguyên Sa. Nhưng không phải ai phổ nhạc từ thơ của Nguyên Sa cũng đều được Thầy chấp nhận. Thầy nói phổ nhạc không khéo, cũng là một hình thức giết chết bài thơ. Trong bài thơ có tựa là Thơ Phổ Nhạc, Nguyên Sa viết “Tôi đã làm xong bài thơ để phổ nhạc. Nhưng bài nhạc chưa tới. Đến khi nó tới. Bài thơ nhất định bỏ đi. Nó chuẩn bị lên đường lúc em bắt đầu gõ cửa. Tôi dỗ dành nó một chặp. Tôi đóng vai trò người tình đau khổ. Nó vẫn bỏ đi….". Tuy vậy, có một số bài thơ của Nguyên Sa, sau khi phổ nhạc, đã rất được mọi người yêu mến vì cái lụa là mà gần gũi của những vần thơ. Nhưng làm gì thì làm, bận rộn gì bận rộn, Nguyên Sa vẫn làm thơ, tuy Thầy cho là “…Phải có hứng mới làm được thơ. Không có hứng, làm thơ giống như đi cày…” nhưng thỉnh thoảng Thầy gọi và đọc cho tôi nghe một bài thơ Thầy vừa mới làm xong một cách thích thú. Nhất là thời gian của năm 1997 và 1998, Thầy có nhiều bài thơ, là những bài thơ tự do và lục bát. Những bài thơ mà, sau này nhìn lại, mới thấy đó là thơ của một người đang ở ngã rẽ của cuộc đời, nhìn lại chặng đường mình đã qua, nhớ lại những kỹ niệm mình đã sống và chấp nhận những gì đang xảy tới. Nguyên Sa nhìn những việc đang tới với cuộc đời mình một cách bình thản, như những sự việc ấy đang tới với một người nào đó, không phải là mình. Ông lạc quan và vẫn làm việc mỗi ngày. Nằm trong phòng bệnh nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi có những chiếc lá phong đang thay màu, nghĩ về mùa thu, mùa đông, nghĩ về cuộc đời, nghĩ về mình, Nguyên Sa đã viết:
“Khi những chiếc lá phong ngả sang màu rượu chát,
Vào tuần lễ thứ nhì,
Tôi biết cây phong nghĩ gì.
Tôi biết cây phong đứng ở trước cửa bệnh viện nghĩ gì
Khi những chiếc lá phong buông tay ra
Làm thành những vòng tròn nhỏ
Những chiếc lá phong màu rượu chát rơi xuống một vị trí tên là mặt đất
Gió đưa những chiếc lá phong sang một vị trí khác cũng tên là mặt đất
Như thể vật nào cuối cùng cũng chỉ có cùng một tên
Tôi biết cây phong đứng ở trước cửa bệnh viện nghĩ gì,
Tôi cũng biết cây phong biết tôi nghĩ gì,
Vào thời gian lá cây buông tay ra,
Vào tuần lễ rụng tóc,
Vào tuần lễ thứ nhì đó,
Của sáu tuần
Hóa học trị liệu.”
Nhớ những ngày trước, không, phải là hai hay ba năm trước. Tôi gặp Nguyên Sa ở Peek Family Funeral Home, trong đám tang nhà văn Mai Thảo. Trong lô nhô dòng người đến tiễn đưa nhà văn Mai Thảo, tôi nhận ngay ra Thầy. Vẫn cái mũ che đầu, vẫn cái dáng điệu từ từ như chẳng có gì cần phải vội. Tôi len lõi qua nhiều người, đến chào Ông “Thầy khỏe?” Nguyên Sa nhìn tôi “Thầy vẫn vậy” rồi ông thêm “Ai rồi cũng đến chỗ này thôi, con biết không?” rồi đi vào chỗ ngồi. Vẽ như là Thầy xem cái sinh, lão, bệnh, tử là định luật muôn đời của tạo hóa. Cái không thể thay đổi, không thể chọn lựa nên chấp nhận. Những ngày nằm bệnh, nghĩ đến lúc phải ra đi, thước phim cuộc đời được quay lại. Nguyên Sa trân trọng những nơi ông từng đi qua, nhất là thời thơ ấu, thời của tình yêu thuở đầu đời, Thầy viết bài thơ Thủy Chung, cũng là lời dặn dò “… Anh nói anh muốn Saigon, anh muốn đường Phan Thanh Giản, anh muốn nước Mỹ vùng biền Thái Bình, anh muốn Montpellier, muốn Nice, muốn Cannes, muốn Saint Tropez, muốn tất cả những thị trấn miền Nam nước Pháp, nhất là những thành phố quanh Địa Trung Hải. Nhưng anh chỉ có hai chân, anh chỉ xin em ném dùm anh xuống những mảnh đất đầu đời: chỗ bãi phù sa anh tắm mỗi chiêu, con lộ mỗi ngày chúng mình cùng nhau đi học.”.
Nhiều người, khi nói về Nguyên Sa, thường nói về thơ tình mà quên mất đi những bài thơ khác. Có lẽ vì thơ tình của Nguyên Sa mang một ngôn ngữ mới lạ, nhiều hình ảnh, nhiều cảm xúc nhưng gần gủi mà ai đọc cũng thấy tâm trạng của mình. Nhưng bên cạnh đó, Nguyên Sa còn có những bài thơ về chiến tranh, đó là tập thơ “Những năm Sáu Mươi” mà Thầy nói trong bài tựa là đã làm trong 10 năm, nhất là trong thời gian nhập ngũ. Tập thơ gồm bốn chục bài thơ của Nguyên Sa vào thập niên 60. Năm 1970 đã không được Bộ Thông tin cấp giấy phép xuất bản, cho nên năm 1971 nhà xuất bản Trình Bày đã in lén tập thơ này giới hạn qua hình thức quay roneo chỉ phổ biến cho tác giả và trong vòng bằng hữu. Trong bài tựa, Nguyên Sa đã viết: “…Bộ thông Tin không cho in trên nền long ly quy phụng thì in ronéo như một phân định rõ rệt hoài niệm, về hạnh phúc và cái thuộc về một nguồn gốc và chính nó và cũng là sự chia xẻ phân định tìm thấy với bằng hữu.”. Trong tập thơ này Nguyên Sa viết về những ghi nhận của chính ông về chiến tranh, về chia cách, về những mặt phía bên kia của đời sống như: Giã từ khóa đàn anh, bài Sân bắn.
Nguyên Sa đã ghi trong hồi ký về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Sân bắn” như sau: “… không khí của sân bắn còn mang lại những ấn tượng thật đặc biệt. Có những buổi tập bắn, mục tiêu ở trước mặt cố định. Những buổi tập bắn, khác với đối tượng di động. Khi huấn luyện viên tác xạ hô lớn “bia lên”, nhiều chục tấm bia từ một con đường hầm dài ở phía xa trước mặt được nhất loạt đưa lên. Người sinh viên sĩ quan thụ huấn phải bắn trúng mục tiêu dành cho mình trong thời gian ngắn trước khi tiêng hô “hạ bia” vang lên.
Bia là những tấm hình đầu và thân người, nhưng không có cánh tay nào cả. Tiếng động cơ nổ đều, độ rung của chiếc xe, kỷ niệm vang vọng những tiếng hô “bia lên”, những tiếng nổ chát chúa kế tiếp, những tiếng reo vui “trúng hồng tâm”, tiếng reo vui “có bằng thiện xạ rồi”, âm thanh nào trở thành sợi giây liên tưởng mang lại cho tôi”
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch, thấy đời lãng du
Thấy tay dư, thấy chân thừa
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không ..
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta…”
Ngoài ra, Nguyên Sa còn có những bài thơ đấu tranh không bừng bừng lửa đốt nhưng mời gọi lòng người góp một bàn tay để lấp sông vá biển. Một trong những bài thơ đó là “Bài hát cửu long” mà tôi rất thích.
“Có gì đâu em: có một đoàn người
Có một đoàn người góp sức góp vai
Cùng rủ nhau về góp một thành hai
Những bước chân góp đi làm đến!
Họ không dại khờ: góp trăng làm nến!
Chỉ những miệng cười góp lạ thành quen
Góp những giọng hò làm trống ngũ liên
Góp những bàn tay dựng thành đại hội
Cánh tay chắp cánh tay cho dài thêm nửa với
Gạo quanh nồi góp lại bữa cơm chung
Họ cùng đi cùng góp tháng, góp năm...
Để sáng ngày mai làm sông làm biển
Có gì đâu, có một đoàn người
Bên bờ Cửu Long gõ nhịp
Cả giòng sông gõ nhịp vịn bờ sông
Họ rủ nhau về sương gió vui chung
Dù có phút nước mắt chạy quanh
Hay miệng cười hớn hở
Vẫn bát gạo Hậu Giang, vẫn nụ cười huynh đệ
Mắt nghẹn ngào sáng tỏ nắng phương Nam
Màu nắng vàng không màu nhiệm hào quang
Nhưng dù má bừng lửa cháy
Trán đổ mồ hôi
Họ cùng không đóng cửa mừng vui
Những bàn tay ngượng ngập díu môi cười
Không phải khóc
Một đời người tầm gửi”
Từ Pháp trở về cuối năm 1955, Nguyên Sa mang theo những ngôn ngữ mới lạ và đầy ắp hình ảnh lãng mạn của trời Âu vào thơ Việt. Tuổi trẻ Việt Nam khát khao được bay vào những khung trời mới lạ vượt ra ngoài những ước lệ cổ xưa. Nguyên Sa đã làm được điều đó. Ông đã khẻ đẩy ra một cánh cửa cho họ nhìn thấy bầu trời xanh rộng ở phía sau. Nguyên Sa thả vào bầu trời xanh rộng đó những bài thơ mới mẽ bay bỗng nhưng cũng rất ước lệ. Nói một cách khác, Ông đã khoác những chiếc áo mới lên những hình thù rất đậm nét Việt Nam. Nguyên Sa ghé vào vườn thơ Việt Nam bằng những bước chân nhàn hạ, thảnh thơi. Từ bài thơ “Áo lụa Hà Đông”, thi ca Việt Nam đã định vị chỗ đứng của ông. Một chỗ đứng không ai có thể thay thế được. Bao nhiêu năm trôi qua. Bao thế hệ đã nằm xuống, lớn lên và tiếp nối đã một lần đọc thơ Nguyên Sa, đã từng thích thơ Nguyên Sa, đã từng thuộc một câu, một phần hay một bài thơ nào đó của Nguyên Sa. Thơ Nguyên Sa kiêu kỳ nhưng đại chúng. Như đóa hồng cắm trong chiếc bình quý đặt ngay trước mặt mà ai cũng có thể nhìn ngắm, sờ đụng. Nguyên Sa mê làm thơ và nhiều người mê thơ ông. Ngoài những việc phải làm vì cuộc sống, Nguyên Sa vẫn thích làm thơ và làm báo văn học. Khoảng đầu năm1997 Nguyên Sa gọi tôi, nói Thầy muốn làm một tờ báo chuyên về văn học và muốn tôi phụ một tay. Thoạt đầu tôi từ chối vì lúc đó tôi đang trông coi cửa hàng computer rất bận rộn, và nhất là tôi sợ bị đụng chạm. Nhưng với cái tài thuyết phục cộng với sự nể nang Thầy nên cuối cùng tôi nhận lời. Ngày nào Thầy cũng gọi tôi, chỉ tôi cái này, bảo tôi cái kia… Thầy chỉ tôi từng chút, cả những việc nhỏ nhặt. Có lúc Thầy trấn an tôi “có Thầy chẳng ai dám ăn hiếp con đâu”. Có làm việc với Nguyên Sa, mới biết ông lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng làm việc, lúc nào cũng có những điều đã vạch ra sẵn để làm và làm một cách chu đáo.
Nhưng tính là một chuyện, nên hay không lại là một chuyện khác. Giữa năm 1997 Nguyên Sa lâm bệnh. Mọi việc coi như bị gác lại. Nhưng sau khi giải phẩu xong, lúc cảm thấy đã khỏe hơn, Nguyên Sa lại tiếp tục dự án làm tạp chí văn học. Tháng hai năm 1998, Nguyên Sa cho tôi những dự định về số văn học đầu tiên và bảo tôi dịch những tài liệu về Michelle Kwan cùng những bài vở khác. Thầy lại gởi những tài liệu cho tôi. Chỉ tôi làm cái này, bảo tôi làm cái kia. Rồi Thầy lại vào bệnh viện. Nằm trên giường bệnh, Thầy vẫn không quên tạp chi văn học, vẫn không quên việc in ấn quyển Thơ Nguyên Sa toàn tập. Nguyên Sa đã sống với thơ cho đến giờ phút cuối.
Nguyên Sa ra đi vào giữa tháng tư năm 1998 khi tạp chí văn học của Thầy chưa hình thành, khi quyển Thơ Nguyên Sa toàn tập chưa được in. Sau này tôi có dịp phụ Cô Nga khi Cô một mình đi lo in ấn Thơ toàn tập của Thầy.
Nguyên Sa tự ví mình chỉ là một con số không, là một hạt cát nguyên sơ trong trời đất. Trong bài thơ “Sợi tóc”, dường như Ông đã tiên đoán nơi mình sẽ nằm, chốn mình sẽ đến khi viết lên những câu thơ:
Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?’
Và bài thơ này đã được gia đình khắc lên bia mộ của Nguyên Sa ngày 18 tháng tư năm 1998.
Trịnh gia Mỹ
Tháng 4 năm 2021
Aó Lụa Hà Đông, thơ Nguyên Sa, ngâm: thi sĩ Tô Kiều Ngân (1926-2012).
Năm 1955, Tô Kiều Ngân cùng Đinh Hùng, Thanh Nam, Hồ Điệp, Hoàng Oanh...
thành lập ban thi văn Tao Đàn trên Đài Phát thanh Sài Gòn.