Phan Thanh Tâm

 

Vơ Phiến: Nghề văn do Trời cấp Lai Xăng

    

(với phụ bản tạp luận Bắt Trẻ Đồng Xanh
của nhà văn Vơ Phiến ở cuối bài)



                                                                                                                                                                                     

Nghề văn do Trời cấp lai xăng. Kẻ có số làm văn thơ hẳn đă cầm sẵn chứng chỉ hành nghề khi từ bụng mẹ chui ra. Kẻ ấy lớn lên đến trường học nghề sáng tác th́ tiếp nhận thêm được vô số điều hay ho, th́ tài năng càng tha hồ rực rỡ. Nhưng tấm ‘lai xăng” th́ phải hờm sẵn từ trước, từ lâu. Nhà văn Vơ Phiến đă khẳng định như vậy trong bài Người Viết Với Cuộc Sống khi đề cập đến vấn đề kinh nghiệm hay kiến thức, cảm hứng hay suy tưởng, bên nào quan trọng hơn? nhân vật hay cốt truyện hay tư tưởng, cái nào trước cái nào sau? vai tṛ của kỹ thuật dựng truyện .

Nhà văn họ Vơ viết, học y khoa, nha khoa, công phu là thế, học xong được cấp hành nghề ngay. Xây nhà, cắt tóc, lái xe, địa ốc, kế toán…nghề khó nghề dễ học xong được chứng nhận có đủ khả năng hành nghề hợp pháp. Trong chúng ta kẻ viết truyện ngắn, người viết truyện dài, kẻ làm thơ, người làm phóng sự…ai có trong tay giấy chứng nhận khả năng sáng tác, mặc dù không thiếu kẻ được đào tạo nghiêm chỉnh tại trường? V́ lẽ ấy người ta không có lệ cấp giấy phép cho người làm văn thơ chăng? 

Theo ông, đối với người viết lách một thái độ về cuộc sống là quan trọng hơn cả. Có thiết tha, có say mê, có nồng nàn với cuộc sống, bấy giờ hăy nghĩ tới chuyện viết lách. Từ thuở khai sinh mở mắt ra đă “phải ḷng” ngay cuộc sống, bất cứ giờ phút nào cũng bị cuộc sống thu hút. Nhưng thiết tha với cuộc sống là thế nào? Là ham sống, là yêu đời, là hăng hái hưởng lạc hết ḿnh, cắn soàm soạp vào trái ngọt trần gian; hay ưu thời mẫn thế, cúc cung tận tụy lo cho đời, dốc ḷng cải thiện xă hội?

Không. Phải là như Tolstoi bị khích động bởi mọị máy động, dạng vẻ của sự sống. Các giác quan của nhà văn Nga luôn luôn tỉnh thức, tở mở đón nhận, ghi khắc cảm nhận một chút ngập ngừng của bàn tay, một vấp váp của hơi thở, của tiếng ngáy,một lọn tóc bung ra, một tiếng lá khô cưụ ḿnh, hay những run rẫy đợi chờ của lúc tỏ t́nh... Tolstoi lấy sự cảm nhận cuộc sống xung quanh làm cái sinh thú cho ḿnh; như một t́nh nhân say mê đắm đuối cuộc sống, Nhà văn gốc B́nh Đinh nói rơ như vậy trong cuốn Vơ Phiến Cảm Nhận của nhà xuất bản Văn Mới  .

Bài viết trên gửi cho nhà văn Trần Doăn Nho cũng đă nhắc tới câu thơ Vang Vang Trời Vào Xuân của Thanh Tâm Tuyền. Vơ Phiến cho rằng nhà thơ không nghe bằng tai mà nghe bằng cả cái nồng nàn đối với cuộc sống. C̣n Phan Nhật Nam trong bài kư Quê Hương và Người Huế th́ thấy bằng tâm hồn đàn chim đông đảo vừa bồ nông vừa hạc vừa hải âu bay “nằng nặng, buồn buồn”, bay “đầy cả trời” như thở dài như hấp hối buồn đến rợn người ở phá Tam Giang rộng mênh mông, không bờ băi, hoang vu lặng gió.

Cuối bài Người Viết với Cuộc Sống, Vơ Phiến xác nhận, dẩu nghề văn do số mệnh có tinh, thân cũng khó vinh được. Đa số túng bấn. Ai dám bảo số này là may. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, dưới con mắt nhà Trời mỗi người mỗi việc, ai cũng ngang nhau thôi. Ngoài ra, trong bài Văn Phong, Nhân Cách, ông nói rơ,   người nghệ sĩ xuât hiện với đời là xuất hiện như một tâm hồn, chứ không phải như một tập hợp kỹ thuật cao siêu. Người đời đến với một nghệ sĩ là t́m đến một tâm hồn; mấy ai buồn t́m hiểu các tṛ kỹ thuật làm ǵ đâu?

Vẫn theo Vơ Phiến, hễ đọc thơ văn mà bắt được nét đẹp của một phong cách, đă yêu nó, th́ cứ thoáng thấy nó xuất hiện ở đâu là thích đấy, bất luận người nghệ sĩ đang nói ǵ, đang tả cái ǵ, đang kể lể con cà con kê về cái ǵ….Phong cách nó phản ảnh một quan niệm sống, một thái độ ở đời, nó phản ảnh một khung cảnh xă hội, một thời đại, nó thừa kế các đặc điểm của một ḍng dơi, một đường hướng giáo dục, một bầu không khí  văn hóa v.v..Nó là cái dung mạo của một tâm hồn.

Nhưng làm sao “bắt” được phong cách của một tác giả? Nó phảng phất ở đâu? Nó nương ḿnh vào chỗ nào? Vào câu nào chữ nào? Vơ Phiến giải thích, biện luận thuyết giảng thí rối rắm, nhung phong cách là một sự thực. Hảy lấy lương tri ra trực nhận. Ông đưa thí dụ, bà mẹ Tôn Quyền nh́n qua anh chàng Lưu Bị một cái là đủ biết ngay con người đàng hoàng xứng cho cô con gái cưng gửi thân trọn đời. C̣n văn cũng vậy; đọc thoáng một cái là “chịu” liền. Người có cốt cách của người. Văn cũng có cốt cách của văn phong.

Để cho cụ thể tác gỉa bài Văn Phong, Nhân Cách đă đề cập tới cái mùi của thức ăn và cái mùi của văn thơ. Ông nói chuyệ này chẳng có ǵ mới mẻ. Cao Bá Quát, người xưa đă từng mắng cái mủi vô duyên khi ngửi phải câu thơ Thi xă.  (chán thay cái mủi vô duyên , câu thơ Thi xă con thuyền Nghệ An). Theo Vơ Phiến, ăn phở thực chất là ăn bánh phở, nước dùng, là ăn những sách, những nạm. Mùi thơm chỉ để ngửi. Nó không phải là cái ngon của phở mà chỉ là cái báo hiệu của ngon. Nhưng phở mà không thơm, không mùi th́ thiệt là khổ năo trần gian.

Về thưởng thức văn thơ, ông viết, đọc sách th́ đọc chuyện, đọc ư, c̣n phong thái là cái vô h́nh phảng phất, chỉ để ..ngửi chơi. Vậy mà chính cái đó mới làm cho Nguyễn Tuân thành Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính thành Nguyễn Bính, Phan Khôi thành Phan Khôi, cũng như xưa kia cái văn phong đó làm cho Lư Bạch thành Lư Bạch, Tô Đông Pha thành Tô Đông Pha..Cái đó chứ không phải là những cái tả cảnh hay ho, là những tư tưởng cao siêu nào. Bài viết này in trong tập Viết của nhà xuật bản Văn Nghê.

 

Nhận xét về Vơ Phiến, học giả Nguyễn Hiến Lê cho biết, nhà văn này, có óc ṭ ṃ, đọc nhiều và đi nhiều, rất sở trường về thê văn tuỳ bút. Qua tập Đất Nước Quê Hương của nhà văn họ Vơ, chúng ta thấy mấy trang ông tả cách nấu rót và uống chè Huế làm ta liên tưởng đến Những chiếc ấm đất của Nguyễn Tuân: nghệ thuật không kém mà lại dí dỏm hơn, nhẹ nhàng hơn, có hương vị của quê hương hơn. Trong bài tựa cho tập này, học giả họ Nguyễn c̣n cho hay, v́ kư một kiến nghị đ̣i băi bỏ kiểm duyệt mà nhà văn phải di chuyển nhiều; nhờ vậy ông đă viết nên tập tùy bút. Vơ Phiến là bút hiệu chữ nói lái tên người bạn đời Viễn Phố.

 Bài tựa của học giả c̣n có đoạn viết, một cơn mưa, một giọng hát, một hớp trà, một trang sách, một tà áo phất phơ c̣n dưới gió, một tiếng ve rỉ rả trong rừng … bất kỳ một cảnh vật nào, một sự việc nào cũng có thể là một đề tài cho Vơ Phiến; lịch tŕnh Nam tiến và Tây tiến của chiếc áo dài phụ nữ cũng giúp ông có ư mỉa mai nhẹ nhàng và thấm thía về sự thành công của cuộc thống nhất đất nước của chiếc áo dài. Nó êm thắm, đẹp để hơn những đường lối thống nhất bạo tàn biết bao ! Vơ Phiến sinh năm 1925 ở B́nh Định, tuy là công chức cả khi ở trong nước và ngay ở hải ngoại ông như là một nhà văn chuyên nghiệp, sáng tác đều đều, đă có hơn 40 đầu sách gồm đủ thể loai.

Theo trang mạng Gio-o.com qua tác gỉa Chu Ngạn Thư, trong tháng 6-2012,  hai Nhà xuất bản Nhă Nam và Thời Đại đă giúp tập tùy bút Đất Nước Quê Hương có visa vượt tường lửa, tường tre để được in lại tại VN, nhưng với tên sách mới : Quê Hương Tôi. Tác giả sách không ghi là Vơ Phiến mà là Tràng Thiên. Tên thật của hai bút hiệu này là  Đoàn Thế Nhơn. Cuốn Quê Hương Tôi in ở Việt Nam có mấy điểm khác: không có bài tựa của Nguyễn Hiến Lê; bài Thơ lục bát Chàm  bị  mất phần đầu bài có dính đến thơ Chế Lan Viên.

Giọng văn như kể chuyện, một lối văn nói, khiến người đọc thấy gần gũi, chan ḥa. Tập sách đưa lại nhiều hiểu biết về môn đất nước học, văn hóa học, và cả những kiến thức về du lịch, nhưng trên hết là một t́nh yêu, một tấm ḷng. Càng đọc càng thích thú, khoái cảm, càng thấy ḿnh hiểu thêm nhiều điều trong cuộc sống quanh ḿnh, ở trên đất nước ḿnh, nhất là về phía Nam, càng kích thích ḿnh chú ư hơn đến những cái thường ngày để mà t́m hiểu. Nhà phê b́nh Phạm Xuân Nguyên ở trong nước đă có một vài nhận định như vậy về tập tùy bút.

Vơ Phiến là nhà văn có nhiều nhà v́ ông có khả năng viết nhiều thể loại: nhà tùy bút, nhà tạp luận, nhà lư luận văn học, nhà phê b́nh văn học, nhà xuật bản, nhà viết truyện ngắn, truyện dài…và nhà tiên đoán thời cuộc nữa. Năm 68 , sau 23 năm ch́ến tranh thảm khốc, nghe nói ngưng chiến ai nấy mừng rơn; riêng nhà văn đă đưa ra lời cảnh báo là Cọng sản sẽ tiến đến Cà Mau qua bài tạp luận Bắt Trẻ Đồng Xanh (1).  Ông đă bày tỏ những ư nghĩ buồn thảm, đen tối của ḿnh khi nhắc đến các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau d́u nhau ra núi rừng Việt Bắc! Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở.

 Nhà văn cho biết họ Hồ chấp nhận ngưng chiến là v́ keo này chưa được th́ bày keo khác. Ông ta lo liệu một cuộc chiến tranh quân sự mới để rước cho kỳ đươc chế độ cọng sản về; dù phải chết thêm hai ba thế hệ liên tiếp. Hồi tháng 4-68, khắp nơi Quảng Trị, Pleiku, Kontum đến Mỹ Tho, Cà Mau, phe cộng đă có một kế hoạch bắt trẻ qui mô để chuyển chúng ra Bắc bằng phi cơ từ Cam Bốt hoậc bị dẫn đi trên đường ṃn Hồ Chí Minh. Cái Mặt Trận Gỉai Phóng Miền Nam được thành lập năm 1958 trước khi có người lính Mỹ đầu tiện chết trên lănh thổ Miền Nam ngày 22-12-61.

 Sau 1975 ṭan bộ sách của Vơ Phiến bị cấm, bị đốt hủy trong chiến dịch tẩy xóa tàn tích Mỹ Ngụy. Ông bị coi như là một trong những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Chính ông, trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan cho biết, Vơ Phiến khước từ cộng sản ngay từ đầu, có thái độ chính trị dựt khoát . Đó là nhờ trước 1954 ông đă có kinh nghiệm với cộng sản, từng gia nhập bộ đội, dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ Việt Minh, vào đội Tuyên truyền Xung Phong và từng tham gia vào tổ chức chống cộng ở B́nh Định năm 1951. Bị bắt, ở tù, chỉ được thả v́ theo hiệp định Geneve, trốn ra Huế ông làm công chức cho chính phủ miền Nam.

Từ 1954- 1975, ông đóng góp vào sư phát triển văn học miền Nam. Vơ Phiến và học gỉa Nguyễn Hiến Lê là hai cây bút chủ yếu của Bách khoa; tạp chí qui tụ nhiều cây viết thuộc nhiều thế hệ đă phản ảnh đời sống Việt Nam Cọng Ḥa trên nhiều mặt.  Ra hải ngoại v́ chỗ nặng t́nh với một thời văn học kém may mắn  bị bỉ báng hồ đồ và cộng sản VN c̣n t́m cách hủy diệt nên ông đă viết cuốnVăn Học Miền Nam Tổng Quan để có một tổng kết, một kiểm điểm sơ luợc cho những ai về sau c̣n lưu tâm có chút căn cứ sưu khảo. Sáu năm sau cuốn sách đă được cố họa sĩ Vơ Đ́nh Mai dịch ra tiếng với tựa tiếng Anh Literature  in South Vietnam 1954-1975.

            Phạm Phú Minh quen thân với gia đ́nh nhà văn Vơ Phiến cho biết, không cần tinh ư lắm người nói chuyện với ông hiện nay cũng nhận thấy ông quên nhiều. Chỉ người nào hay găp ông mới nhớ. Ông thú nhận, rất ngại tiếp xúc với người khác v́ có khi không nhận ra người đối thoại, sợ họ giận, sợ họ bảo ông là người kênh kiệu một cách oan uổng. Sau bài Cái Sống Hững Hờ viết năm 2009, không thấy ông viết thêm. Trong tác phẩm chắc là sau cùng n ày, tác giả viết:

“Tạo Hóa có ḷng lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh ḷng người. Tuổi người càng cao, ḷng người càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc c̣n lại một sự hững hờ: ‘Chết? ai mà khỏi? Việc ǵ phải sợ?’ (...)  “Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đ̣i hỏi cho được vừa huưt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính ḿnh sẽ là những bước thong thả, hững hờ. Đại khái thế thôi.”

 

Phan Thanh Tâm                                                                                                                               

Saint Paul, 10.2012

 

Phan Thanh Tâm là một nhà báo Việt Tấn Xă uy tín của Miền Nam Việt Nam Cọng Ḥa trước 1975. Khi bước sang các bài viết có tính văn chương, Phan Thanh Tâm mang theo phong cách viết  khách quan và chắt lọc kỹ lưỡng của một ng̣i bút báo chí nghiêm chỉnh, nên các bài viết của ông luôn đạt chất lượng cao. Ông cọng tác với gio-o.com kể từ năm 2006


http://www.gio-o.com/PhanThanhTam.html

 

phụ lục

Vơ Phiến

Bắt Trẻ Đồng Xanh  (1)

Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa nhỉ? Làm ǵ bây giờ?

Trong bao nhiêu năm trời, chúng ta đă quen với nếp sống chiến tranh đến nỗi ḥa b́nh làm chúng ta bối rối. Nhưng thiết tưởng ngưng chiến không đáng làm chúng ta bận tâm đến thế. Chiến tranh này sắp kết thúc, bằng cách này hay cách khác, hoặc sớm hơn một ít hoặc chậm hơn một ít. Chuyện phải đến rồi sẽ đến, nó xảy đến ra sao dường như cũng đă được trù liệu.

Cái đáng bận tâm là những điều tiếp theo cuộc ngưng chiến ấy.

— Th́ các vị lănh đạo của chúng ta đă tiên liệu rồi: đấu tranh chính trị chứ ǵ? kinh tế hậu chiến chứ ǵ?

Đấu tranh chính trị, nó hiển nhiên quá, nó sờ sờ ra đấy, tưởng như rờ mó được. Nói rằng trong giai đoạn tới ta với cộng sản phải đấu tranh chính trị với nhau, nói thế gần như không phải là tiên liệu ǵ ráo. Đó là đối phó. Chuyện ấy đến ngay trước mắt rồi, ta buộc ḷng phải đối phó tức khắc, thế thôi.

Nhưng nói thế c̣n là khá. Hầu hết mọi người chỉ chăm vào những cái gần hơn nữa: hàng mấy trăm kư giả mỗi tuần bu đến pḥng họp báo của các phái đoàn Hoa Kỳ và Bắc Việt để ghi lấy dăm ba câu tuyên bố loanh quanh, các b́nh luận gia khét tiếng của báo này báo kia, đài này đài nọ bóp trán suy đoán xem lúc nào th́ ngưng oanh tạc dưới vĩ tuyến 19 v.v... Thiên hạ theo dơi ư kiến của họ.

Trong lúc ấy nhóm lănh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo liệu công việc mai sau: tức một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn ḥi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ư của dư luận: các b́nh luận gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến chuyện ấy.

Thế mà đó mới là chuyện đáng quan tâm. Thiết tưởng là chuyện đáng quan tâm hơn cả vào lúc này. Bởi v́ nếu ta mù tịt về ư định của đối phương trong tương lai th́ trong cuộc đối thoại thương thuyết với họ hiện thời ta làm sao biết đặt ra những điều kiện cần thiết? 

 

Cuộc bắn giết sắp tới giữa Miền Nam và Miền Bắc đă được cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước ngày đ́nh chiến theo hiệp định Genève.

Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội gây chiến tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại Sài G̣n căi lại: Mặt trận Giải phóng Miền Nam đă thành lập từ năm 1958 và ra mắt ngày 20-12-1960, c̣n người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử trận trên lănh thổ Miền Nam ngày 22-12-61.

Người của pháp luật, họ căi lư với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều người đă đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc, và xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng Lao động đă đẻ ra Mặt trận này.

Mặt trận này, mặt trận nọ..., đó là những bằng chứng đă có tên gọi. Chờ cho cộng sản đặt tên rơ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là nghĩ tệ về họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi đă từng xảy ra nhiều hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng.

Khi họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đ́nh với Pháp để giữ lấy nửa nước, th́ họ đă đặt ngay vấn đề: c̣n lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch “giải quyết”, cùng lúc với kế hoạch điều đ́nh. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không phải năm 1958.

Thật vậy, hiệp định đ́nh chiến vừa kư kết, th́ những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.

Lúc ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào Miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già th́ vào theo nhà nước để lănh hương hưu, các cụ cố th́ theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v...

Cũng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:

— Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở Miền Nam;

— Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời cơ, có hạng đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động v.v...

— Địa chủ, phú nông, trót bị ngược đăi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành để xóa bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được th́ họ thủ tiêu, v́ xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ;

— Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lăo nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ư gây phân ly chia cách, làm thế nào để mỗi gia đ́nh đều có kẻ đi người ở;

— Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng Miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.

Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v... là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho chúng.

Ngay từ đầu, t́nh cảm của những người này đă hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu. Thái độ và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương lo ngại, đề pḥng. Do đó, họ thành một khối người dần dần sống cách biệt, nếu không là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp đối xử vụng về bị khai thác, một vài sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng. Rồi một ngày kia, chuyện được tính trước sẽ xảy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đ́nh có đứa con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt lẻn vào nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm h́nh mới nhất của con hay của chồng từ Bắc mang vào, gia đ́nh nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt, dù biết họ đang gây loạn. Đă không tố giác được, tất phải che giấu, nuôi dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đ́nh nọ dần dần đi sâu vào sự cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn vào hàng ngũ của họ.

Chính v́ như thế mà thư từ h́nh bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt quan trọng: những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động, trong người họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, h́nh bóng của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng giúp họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên.

Gây được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp số lương thực tiền bạc cần thiết để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập, các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận Giải phóng ra đời.

Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất măn chống một chế độ độc tài gia đ́nh trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài G̣n từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt trận kia.

Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng... Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vă sau ngày đ́nh chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngă gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.

Dân chúng Miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộn ràng bấy giờ, nếu không v́ lư do quan trọng, chắc chắc đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn. Dù t́m trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo vợ cho quan binh túi bụi đến chừng ấy.   

 

Cũng như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không v́ lư do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao ṃn suy kiệt dọc đường.

Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản họ nhằm làm nhẹ một gánh nặng nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng Kinh tế hoặc Xă hội của chúng ta. Mọi người đều rơ, tại Bắc Việt và Trung Cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái.

Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng sản họ nhằm giúp ông tổng trưởng Giáo dục của chúng ta một tay để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này.

Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công ngh́n việc, nếu chuyện bắt trẻ Miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt th́ họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam cộng ḥa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường ṃn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp gáp.

Họ bổ sung quân số đó chăng? — Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ sung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai sau đấy.

Đem chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta thấy trước dăm ba điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được kư kết:

— Họ sẽ bỏ lại Miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn, tàn tật v.v... Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động tâm lư trong quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế Miền Nam;

— Lúc cuộc “chiến tranh chính trị” mà các nhà lănh đạo Miền Nam vẫn nói được bắt đầu, th́ bao nhiêu ức vạn gia đ́nh có con cháu ra Bắc (và những cô gái có chồng lính cưới vội cưới vàng trước khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà chánh quyền ta không sao lôi kéo tranh thủ nổi. Ḷng họ hướng về những con tin ở ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng họ do nhà đương cuộc Miền Bắc định đoạt. Thái độ của họ khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất măn, chống đối v.v...

— Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập , mang theo thư từ của con, của chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với những cán bộ nọ, cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho chồng con họ sớm trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v...

Cán binh gốc người Miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phái trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ v́ có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao xuyến ǵ trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động tâm lư bất lợi; họ lại được mong chờ đón đợi ở Miền Nam; và họ thông thạo am hiểu về dân t́nh cùng địa thế Miền Nam.

Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, ph́ nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta c̣n đang xôn xao mong ước ngưng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng chưa đúng: thực ra các tài liệu về “Vấn đề gửi các cháu ra Miền Bắc” đă được phổ biến trong hàng ngũ cộng sản từ tháng 4-68, và thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ư xuống thang chiến tranh để đi tới điều đ́nh.

Điều đ́nh để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhơm. Điều đ́nh đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, v́ ngưng chiến thế nầy, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc. “Thế này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được! Sao có thể quan niệm một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?”

Ư tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v... Ư tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sự. Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đă chịu đau thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đă chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà Miền Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đă bắt đầu từ nửa năm nay rồi.

 

Trước một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hằng ngày đấm ngực đồm độp, băn khoăn, tự trách ḿnh cái lỗi không kết thúc được chiến cuộc, thái độ ấy ngây ngô đă đành. Thái độ của những người hớn hở với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm ḥa b́nh trước mắt mà hí hửng tính chuyện xây dựng, mà mơ cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ của những kẻ nh́n xa để báo động về một cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không khác ǵ chỉ vào con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa ḿnh, như giúp địch ngụy trang.

Dù cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh nào, phong trào nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết phục được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người, cộng sản Bắc Việt đă có trong tay một lực lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính trị của chúng ta, lực lượng nằm ngay trong ḷng quần chúng ta, hàng ngũ ta, mà hoạt động. Ấy là chỉ so sánh về lượng. Mặt khác, trong số các đoàn viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia v.v... hạng thực sự nhiệt thành v́ lư tưởng được bao nhiêu? Và riêng trong hạng nhiệt thành có được bao nhiêu kẻ mà ḷng thiết tha đối với lư tưởng có thể mạnh hơn ḷng thiết tha với chồng con của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia?

Dù cho chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đă bất lợi như thế. Huống chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. C̣n họ..., nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa, th́ đó là ư trời, không phải là ư của họ đâu.

Ư của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.

Năm 1954, sau chín năm ê chề ṃn mỏi v́ chiến tranh, thấy ḥa b́nh ai nấy nhẹ nhơm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. — Th́ Hồ Chí Minh đă xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.

Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói ḥa b́nh mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đă bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ư nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. — Th́ Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.

Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên truyền chính trị, nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải thứ tuyên truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các nước tự do, mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử dụng các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xă v.v...

Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho ḿnh cái chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta c̣n hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người v́ đă tổ chức giặc giă trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước, trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lănh tụ bất tài nhất cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta c̣n hóa thành chính trị gia khôn ngoan, thành “cha già dân tộc” dưới mắt nhiều người, trong khi ở các xứ khác cùng lâm vào t́nh trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ giải quyết t́nh trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến cuộc tàn sát nọ, không một mảy may sờn ḷng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm làm cho cả nhân loại đều ái ngại.

Người như thế, không biết ḷng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người, vừa chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào ḿnh vào chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho t́nh yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.

Những lời trên đây không được nhă nhặn. Quả thật không nhă nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ ḿnh. Nhưng khi ḿnh là dân một nước đă trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mặt một viễn tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ ḷng b́nh thản để nói lời tao nhă.

Có thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là v́ nguyện vọng dân tộc? — Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rơ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đ̣i hành động nhân danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy về. Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đă nhiều, từng trải việc đời đă nhiều, ông ta đâu c̣n ngây thơ mà quáng mắt v́ những danh từ khoác lác, những hứa hẹn hăo huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rơ những ǵ đê tiện xấu xa xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rơ sống ở Đông Đức đâu bằng ở Thụy-điển, Ḥa-lan, thừa rơ con đường từ Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.

Mà dù ông ta có không nghĩ như thế, có cho rằng Tiệp-khắc sung sướng và tự do hơn Thụy-điển đi chăng nữa, th́ sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đă chịu quá nhiều đọa đày v́ ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.

Đă không v́ nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động v́ lẽ đảng ông ta nhất định phải thắng các đảng khác, v́ lẽ người như ông ta không chịu thất bại nửa đường? — Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào v́ tranh hơn tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng bào không xót thương đến thế? Người ta có thể v́ tức khí, nóng giận mà tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. C̣n ông, ông dai dẳng quá.

V́ cuồng tín chăng? V́ tự ái chăng? V́ cái ǵ ông ta cũng đáng trách đáng giận quá.

 

Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua ǵ. Một biểu thị t́nh cảm: thật vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động thích hợp. Lời nói — dù nhă hay bất nhă — rồi sẽ bay đi theo mây gió. Chỉ có hành động mới sửa đổi được t́nh thế. Mà hành động th́...

Th́ rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng ḥa b́nh, rồi tiếp sau đó sẽ bất đồng căi cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Thế thôi.

Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong nầy âm thầm nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.

Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi cuốn vào chiến cuộc, lấy làm lo ngại, bực ḿnh, quay đầu về cái xứ lắm chuyện này nh́n bằng cái nh́n xoi mói, nghiêm khắc, trách vấn: “Rầy rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử không nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v.v... khiến dân chúng bất măn nổi lên chống chế độ. Dung dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại v.v...”

Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học gọi nhau họp ở Thụy-điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble v.v... trịnh trọng suy tư, trịnh trọng bàn căi, rồi lên án, kết tội v.v... Trong khi ấy các lănh tụ Hà Nội họ chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều quan trọng: họ không được phép cười. Họ không được phép chế giễu lương tâm và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ; họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.

Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đ̣n đánh từ bên ngoài và những dằn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau; hoặc bên phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật ch́, cộng sản liệu ăn không nổi, thế là lại điều đ́nh và lại xếp đặt một kế hoạch khác... Như vậy không biết đến bao giờ.

C̣n ba mươi hai năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực lạc, nhưng cũng là cái ǵ vượt xa t́nh trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ hậu. Như thể cá vượt Vũ Môn.

Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi hai năm nữa e vẫn c̣n đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa nước d́m nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ c̣n có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.

Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau d́u nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần ḿnh, các em đă chịu côi cút ngay từ lúc này; c̣n đất nước th́ sẽ v́ những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đă sáu tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, để nghĩ cách cứu các em, th́ cũng đă muộn.

Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi ḥa b́nh, ngày ngày báo chí chỉ những rập ŕnh từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các em những ư nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối.

Vơ Phiến

10 – 1968

 

1 Nhan đề bài này mượn từ một cuốn sách của Phùng Khánh, dịch truyện The Catcher in the Rye của J.D. Salinger. Sách Phùng Khánh do Thanh Hiên xuất bản năm 1967 tại Sài G̣n.

 

© gio-o.com 2012