Nguyên Lương

chất thơ trong con người Huỳnh Công Ánh

 

 ( Viết riêng tặng qúi thân hữu có mặt tại buổi  ra mắt tập thơ : Quẳng Gánh Lao Đao Giữ Nụ Cười của HCA tại nhà Hàng Vietnam Palace, Philadelphia, của Anh Chị Hà Kỳ Lam do nhóm Duyên Văn tổ chức hôm 31 tháng 10, 2010)

   Sau năm 75, trên làng thơ  hải ngoại xuất hiện hai người mần thơ, nhạc (chữ của Công Tử Hà Đông) rất đặc biệt. “Nẫu” đến từ đất võ Bình Định, cùng ở Houston. Nổi tiếng vì thơ của nẫu không giống ai và bản thân  nẫu cũng rất lạ đời : Ngu Yên và Huỳnh Công Ánh. Ngu Yên qua Mỹ trước và có thơ xuất hiện trên các báo từ những năm 80,  cũng là năm Huỳnh Công Ánh trốn được khỏi trại tù cải tạo và  vượt biển đến đất tự do. Cả hai viết rất khỏe, tiên phong trên nhiều lãnh vực, và khi đã tiếp xúc với  họ rồi, đố ai mà quên được.

   Lạ từ văn phong, từ câu chữ, từ khái niệm. Lạ từ cái nhìn dí dỏm, cười cợt, phóng túng và bất cần. Sống ngang ngạnh, ngạo ngược  và  không biết  sợ nên trong thơ tuy có lúc hằn học với đời, với bản thân,  nhưng tuyệt đối không bi thương, sầu muộn theo kiểu thương mây khóc gió .

 Thơ của Ngu Yên là những lời  trần tình, tâm sự, đa số là với vợ, với chính mình và rất riêng tư:

….. Em hãy ra chợ mua ràng bánh tráng. Để cuốn đời anh vào cuộn chả giò. Hãy nhớ mua rau và nước mắm. Đề chấm đời anh ngàn nỗi âu lo …….Thêm chút ớt cho khoái  trào nước mắt. Và em ơi ta nhậu giữa mịt mù….

Trong thơ  viết về người nữ, cùng  cái đích nhắm của Ngu Yên,  người  vợ của họ Huỳnh cũng là đối tượng chính,  nhưng còn thêm vào những mối lo khác lớn hơn:

…Em còn sót mỗi miếng cười. Gắp bỏ vô chén cuối đời của ta. Ung dung nhấm nháp khề khà. Mượn men quẳng gánh sơn hà long đong…

Điểm chung của cả hai chỉ dừng ở  đó, còn tất cả những cái khác  họ là hai  thái cực.

Hôm nay ta nói về  Hùynh Công Ánh qua tác phẩm thơ : Quẳng Gánh Lao Đao, Giữ Nụ Cười.

   Trước hết là âm thanh. Thơ của HCA khi đọc ta có cảm giác như  đang đi bị ai gọi  giật ngược. Những điệp ngữ ông dùng cho  trạng từ, tĩnh từ có tính lập âm, đồng thanh như: lung linh, lấn lướt, xồng xộc, rưng rưng, ngây ngất, rưng rức, lơ lơ, trùng trùng, chênh vênh, râm  ran…Đọc qua rồi  như phải đọc lại :

          Đóm lung linh chân thật giữa trái tim

          Giận lấn lướt nhau rồi nhức nhối

          Ngàn năm, trăm năm xồng xộc tới

          Áo học trò hồi tưởng hóa rưng rưng

          Giật mình ta rưng rức xót thịt da

          Anh thẩn thờ rồi kiếp kiếp lang thang

          râm ran nhức buốt từng giờ

          Tối tối, song song, chênh vênh trăng tỏ

          Từng con đường ướt nhẹp, rưng rưng

         Phiền gì riêng người lơ lơ hôm nay

         Từ bi ngủ gật cõi mê trùng trùng

Cách dùng chữ  đã lạ, cách ngắt câu càng lạ hơn. Chữ rất đời thường cữa miệng  nhưng ghép vào thơ  nghe cứ  như  lùng bùng trong lỗ tai, chọc khoáy, ngứa ngáy không yên. Những từ: eo ếch, vểnh mỏ, bù trất, mượt mềm, hớ hênh, quay mòng mòng…không phải  là những chữ thường xuất hiện trên thơ. Thế mà ông rất tài tình cho nó vào thơ đề biến thơ ông từ xa xôi trở về gần gũi. Chuyện ái ân, trai  gái ông cũng đưa lên thơ một cách rất tự nhiên, trần trụi:

          Hồn lên núi, xác xuống đời. Ôm ngay eo ếch rã rời xác thân. Sáng chia tay, tối xáp gần. Cái này  được, chuyện khác toàn cãi nhau

          Vậy mà anh vẫn lao vào chốn ấy. Bỡi không muốn cô đơn vểnh mỏ nằm khơi

          Trăng nghiêng nhìn lén xuyên rèm. Ngẩn ngơ da lụa mượt mềm, hớ hênh

          Dẫu  tháo xiềng vẫn  vướng từng sợi tóc. Mùi hương thôi đã không thể  thoát  thân

          Anh tình cờ bắt gặp một màu trăng. Tỏa trên gáy, trên vai, trên lưng ngực

          Máu sôi  sóng dậy quay mòng mòng

          Giữa đời nhau ân ái một chỗ ngồi.

Người đọc thử  thay những chữ  đậm bằng một chữ khác xem câu thơ có còn ổn không?

Thơ HCA không êm ả, nhẹ nhàng mà từng bài, từng câu đọc lên cho ta cái cảm giác như  luồng điện chạy ngược sau xương sống. Có lúc ông cũng muốn cho hồn mình tĩnh lại:

Cũng hiu hiu gợi,  buồn lăn tăn rồi

Hiu hiu là chữ của gió nhẹ, lăn tăn là chữ của sóng êm, nhưng nhẹ, êm sao được khi cuối câu ông kết bằng chữ  rồi, nghe  như tiếng hờn giận, bỏ cuộc, buông thỏng, nó lọt thỏm vào vô định, không bay, không gợn được.

   Nghe bạn tù kể lại, HCA sống chẳng biết sợ là gì. Từ nhà trường (đã từng là hiệu trưởng một trường trung học), tình trường đến thương trường HCA lúc nào cũng là người tiên phong, khai phá một cách liều lĩnh, với niềm đam mê mãnh liệt. Nói như thơ Trang Châu : “Đời bình yên ta chẳng là ta nữa. Ta chỉ là ta khi bão lên”. Bão đã cuốn phăng đời ông bao bận, nhưng ông vẫn thích đứng đầu sóng, ngọn gió, và tiếp tục ngẩng  cao đầu đón bão. Tựa đề tập thơ là “Quẳng gánh lao đao giữ nụ cười”. Lao đao thì còn đấy nhưng liệu ông có quẳng nó được không? Nụ cười của riêng ông chưa tươi vì cái gánh nặng vẫn còn oằn trên vai.  Ông đã từng là nhà gíao, sĩ quan, tù nhân, thương gia, nông gia, ông làm tất, và làm cái gì cũng được việc. Ông là người tài hoa nên bạn hữu gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ, họa sĩ, ông từ  chối hết, chỉ nhận một chữ sĩ : liêm sỉ. Ông sống có hậu với bạn bè, người thân, và cả  đến những người muốn hại ông. Ở ông toát ra một cái gì đó ngang dọc, khuấy động, không chịu cúi lòn của Từ Hải  trong truyện Kiều. Có lúc ông đã có, có  rất nhiều và cũng có khi ông đã mất, mất  hết sạch. Dù có nhiều hay mất hết, trong ông lúc nào cũng ngùn ngụt cháy  một ngọn lửa của tình chiến hữu, nghĩa đồng bào, hồn dân tộc. Trong thơ  ông ít nhiều mỗi  bài đã nói lên những  điều đó:

          Thì mở vòng tay như đã mở. Đón đời, đón tình, đón yêu thương. Và đón những gì không còn nữa. Biết đâu may đó là thiên đường.

          Thất phu còn xó dung thân. Đã rồi cung gãy kiếm cùn còn chi

          Cuốn sách đọc cả  đời sao chằng hiểu. Nợ không ai đòi mà trả bắt đừ

          Chiều dọc, chiều ngang, muôn chiều ái ngại. Làm sao thoát nổi kiếp người ta

          Lỡ tôi, tôi đã lỡ rồi. Giận hờn xin gởi ngàn khơi sóng về

          Bao giờ ra khỏi bờ biển khổ. Thở một hơi dài cho đã chơi, Rồi trèo lên núi ngồi thở dốc. Gởi tặng ngàn xanh giọt mồ hôi.

          Người quay gót mặc kệ đời hệ lụy. Long đong tràn trăm suối hóa ngàn sông

   Còn nhiều,  nhiều nữa trong gần 100 bài thơ của  tuyển tập có hai phần: phần dành cho riêng Em, phần còn lại dành cho bằng hữu, quê hương và thân phận. Phần dành cho Em chiếm phân nửa, đủ biết tác gỉa ưu ái người tình, người vợ mà ông gọi là Em trong thơ ông biết chừng nào. Hình ảnh người Em trong thơ HCA không cao xa như  Hàn Mặc Tử, không lạnh lùng như  Đinh Hùng, cũng không đài các như Bích Khê. Ông yêu qúi, trân trọng và thương nhớ người trong nỗi cô đơn lúc xa vắng. Một người đàn ông coi đất là chiếu, trời là màng, mà có lúc cũng thấy lạnh buốt thịt da của nỗi  trống vắng  nhớ nhung. Ông không thoát được cái luật của âm dương: “Có âm dương, có vợ chồng. Dẫu trong nguyên tử cũng vòng phu thê”, và ông đã ngã qụi vì tình bao lần, chứ đâu có cứng cáp hơn ai nỗi  gì. Khi buồn HCA tâm sự: Anh đã mệt mỏi lắm rồi, muốn dừng chân lại. Tôi đã đọc anh nghe mấy câu thơ của Phạm Cao Hoàng: “Ngựa có khi cũng mỏi vó giang hồ. Anh có lúc cũng thèm đứng lại”.

 

   Nếu biết mần thơ, là được gọi là nhà thơ thì từ khi lưu vong nhà thơ chúng ta còn nhiều hơn nhà thờ (chữ của Trần Dzạ Lữ). Viết lách bây giờ không còn để nổi danh với ngôn từ , không để làm dáng với chữ nghĩa, không để có tên trong “Nhị Thập Bát Tú” mà thuần túy là để tâm sự. Thơ đã trở thành những bức thư gởi cho bằng hữu phương xa hay một lời tạ lỗi với người vợ nằm kề. Không còn bị những bóng cây đa, cây đề cổ thụ che khuất. Cũng không còn bị làm khó dễ bỡi chủ bút, chủ biên. Thơ hải ngoại mọc lên như nấm sau mưa. Trong đám nấm mới mọc đấy, có cái vị rất lạ, ăn phải là nghiện ngay. Những  ai  đã từng “nhấm nháp”  thơ Cao Tần, Vũ Kiện, Trang Châu, Bắc Phong và bây giờ là Huỳnh Công Ánh là biết tôi nói gì. Nhưng cũng có cái ta không dám nếm thử  lần thứ hai. Thích thì mở ra đọc, không thì gấp lại đi làm việc khác. Trước khi gấp lại tập thơ của HCA, xin bạn nghe tôi đọc thêm mấy câu thơ nữa của ông:

…Tập xếp hàng, luyện tụng kinh

Mõ chuông gởi tiếng u minh vào hồn

Truông bình minh, ngõ hoàng hôn

Tịch liêu thiền tọa, nghe oan khuất về…

Sao? bạn đã thấy say chưa hay vẫn còn tỉnh ? nếu chưa thì mở ra đọc tiếp. Phần tôi, càng đọc càng thấy mình u mê. Thế mới lạ!

 

Nguyên Lương

10/31/10