Hoài Băng
B Ứ C T Ư Ờ N G
truyện ngắn
Ở đó là một bức tường vô nghĩa, chắc hẳn ai đó trong chúng ta cũng đã từng một lần nghe đến hai từ vô nghĩa. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng hiểu hết về nó. Tôi vốn là một trường hợp như vậy.
Ông bảo tôi:
Cháu có thấy ta trên bức tường ấy không?
Tất nhiên là không.
Ta không nghĩ như thế, dẫu nó rất nhỏ.
Cái bức tường mà ông nói, ai cũng thấy. Nhưng tôi nói không sở dĩ là vì tôi chẳng nhìn thấy điều gì rõ rệt ở đó cả. Nó có thể là cả một thế giới nhưng cũng có thể nó chẳng là gì cả. Hoặc đơn giản tôi đã nói thật.
Bức tường của ông thăm thẳm, có một ánh đỏ vằn vện. Chưa bao giờ tôi thấy đám đỏ lửa ấy tan biến. Ông lập dị và quái đản. Bức tường của ông cũng quái đản như chính con người ông. Nó không ghi lại những gì phản ánh mà nó chìm sâu, nó phục kích và rồi nó sai khiến sự trả thù.
Cháu có thấy cháu cô đơn như ta lúc này không?
Thưa ông! cô đơn là gì ạ!
Đúng rồi! Cô đơn là gì nhỉ? Ta không biết, cả nhân loại này đều nói mình cô đơn. Ta chỉ là một trong số ấy. Ta không thể nói khác được.
Ông có thể im lặng.
Im lặng cũng là cô đơn.
Ông có thể hát.
Hát lại càng cô đơn hơn, nó sẽ khơi gợi nỗi buồn trong ta.
Chỉ còn một cách cuối cùng dành cho nỗi cô đơn của ông thôi!
Là chiến đấu phải không cậu bé? Vô nghĩa thôi! Tất cả đều thất bại.
Nỗi cô đơn thật đáng sợ.
Phải rồi! ta chỉ có thể chung sống với nó, đồ khốn kiếp. Mà sao ta lại đi nói chuyện này với một đứa trẻ nhỉ?
Ông kết thúc câu chuyện một cách đột ngột, tâm tính ông giống hệt như một người lẩm cẩm. Tôi không nhìn được vào bức tường ấy nữa. Nó đã di chuyển đi chỗ khác, chứa đựng, ghi nhận và chuẩn bị cho một sự phán xét mới. Cánh đồng ở đây mênh mông! Nó đủ lớn để nuốt chửng những con người nhỏ bé như tôi. Ánh mặt trời đỏ quạch, đấy là khi nó sắp tàn. Và, cái thời gian tôi đang nói nó rơi đúng vào cái thời điểm này. Thời điểm mà tôi ngung nguẩy cái mông tong teo của một thằng bé mười một, mười hai tuổi chạy theo ông. Tôi vấp ngã rúi rụi. Ông quay lại chỉ tay vào mặt tôi quát lớn.
Cánh đồng rộng lớn thế này, cháu sẽ lạc mất ta nếu cứ ngung nguẩy cái mông như con gái ấy.
Cháu nghĩ là ông nên chờ cháu.
Ta cũng sẽ đi lạc như cháu mất thôi.
Cánh đồng của ông tan biến khi bản nhạc trên đôi tay lão luyện của người nghệ sĩ dương cầm tài ba làm rơi nước mắt của hàng triệu đốm lửa đỏ. Ở đó có sự xuất hiện của những bức tường, chúng có màu sắc và hình hài khác nhau.
Ông bảo:
Sẽ chẳng bao giờ những bức tường vô nghĩa ấy chạm tới nhau. Mỗi bức tường phản ánh một nỗi cô đơn. Ai cũng tưởng mình là người cô đơn nhất.
Tôi vẫn không biết sự vô nghĩa ở đâu phía trong bức tường. Tất cả những gì tôi nhìn thấy đều lung linh và sinh động như chính cuộc sống này.
Ta không có vợ nhóc ạ!
Ý ông là sau này cháu cũng không có vợ?.
Ý ta là vợ tao đã bỏ ta để đến với một người đàn ông khác và đó là nguyên cớ khiến ta thấy mình cô đơn.
Nếu vậy thì cháu cũng có lí do để cô đơn cùng ông, cháu cũng bị người nào đó mà cháu gọi là mẹ bỏ rơi. Bằng một cách nào đó mà ông chưa bao giờ nói cho cháu nghe, bà ấy đã để cháu lại cho ông.
Đúng vậy, với ta, cháu đúng là phiền phức. Nhưng cháu nói đúng, nhờ cháu mà ta thấy mình bớt cô đơn.
Bà ta bỏ ông vì ông là một nghệ sĩ quá tài ba chăng?
Khi ta còn nghèo hèn bà ấy nói với ta rằng: “Ông thật sự vô dụng, sao ông không làm cho tôi được mát mặt”. Và khi ta trở nên nổi tiếng và giàu có thì bà ta bỏ ta đi theo một tên lái buôn không thật sự giàu có như ta.
Cháu không hiểu người lớn nghĩ gì.
Ta nghĩ chẳng có cái gì là phù hợp cả.
Thế thì có cần phải cố gắng nữa không?
Có thể có, mà tốt nhất là không.
Nắng đã tắt hẳn, tôi cứ tưởng cánh đồng đã tan biến nhưng không phải. Ông giải thích, bức tường là đôi mắt. Tôi lại hỏi xem vì sao đôi mắt lại bị coi là vô nghĩa. Ông cười giòn tan, khiến tôi thấy mình bị xúc phạm ghê gớm lắm! Một thằng bé mười một tuổi rồi, không thể không biết cái điều mà tất cả mọi người đều biết, như ông nói. Thỉnh thoảng, ông đố tôi tìm thấy đôi mắt của thần tình yêu. Đến khi tôi lắc đầu, ông mới cười rồi mắng tôi là đồ ngốc. Sau vài lần như thế tôi ngộ ra thần tình yêu không có mắt. Lúc ấy ông bảo: “cháu khôn hơn rồi! không uổng công cháu ăn cơm của ta mà sống”.
Chỉ có thần tình yêu là không có mắt, nên tình yêu lúc nào cũng mù quáng.
Chúng ta có nên gắn mắt cho ngài không?
Như vậy thì nhân loại sẽ không còn yêu được nữa. Đôi mắt sẽ biến tình yêu thành lòng thù hận, vì nó vốn là một bức tường vẽ lên mọi thứ xấu xa nhất.
Nói vậy thì đôi mắt là thứ xấu xa nhất trên đời.
Nó chỉ trở nên xấu nếu cháu không biết dùng nó để nhìn và đặt mọi thứ vào đúng vị trí của nó.
Nghĩa là sao?
Nếu cháu đặt cái miệng lên đúng chỗ của bức tường nó sẽ cứu rỗi linh hồn cháu, ngược lại nó sẽ trở thành một cái búa han rỉ để chém giết thiên hạ.
Vậy cháu nên đặt nó vào chỗ nào?
Chỗ mà lời nói phát ra từ sự chân thành.
Còn trái tim?
Cháu nên đặt trái tim vào chỗ mà tình yêu không có sự khuất tất.
Còn tình bạn?
Nơi con người ta thật sự biết đồng cảm cho nỗi đau của kẻ kia.
Nói thế thì đôi mắt có thể nhìn thấy tất cả.
Đúng vậy.
Ông hút đến điếu thuốc cuối cùng trong bao. Ông trâm ngâm suy tư. Mắt ông dõi lên nụ cười của bà vợ trong bức ảnh ngày cưới, tai ông vểnh lên giần giật theo bản nhạc “đôi mắt cô đơn” đã thâu trong đĩa DVD. Cuối cùng ông quay lên nói với tôi một lời đầy trăn trở.
Ta vừa bắt gặp điều này nhóc ạ! Đôi mắt không phải là vô nghĩa như ta vẫn nghĩ. Đúng là bà ấy đẹp thật. Ta đang nói đến vợ cũ của mình. Chỉ có điều ta không nhận ra rằng bà ấy không thật sự yêu ta. Lúc đó thần tình yêu đã làm mù mắt ta bằng một bức tường tối.
Ông ta vẫn thường nói với tôi những điều ấy. Nhiều khi tôi bất bình cãi lí.
Nỗi cô đơn chẳng có liên quan gì đến đôi mắt cả.
Cháu nói đúng, ta nghĩ nỗi cô đơn chính là đôi mắt.
Không phải! nỗi cô đơn là trái tim mới đúng.
Người ta nhận thấy nỗi cô đơn qua đôi mắt cháu chứ không ai nhìn thấy hình thù của quả tim cháu. Và lại tất cả những gì cháu nhìn thấy bằng mắt sẽ đi đến trái tim nên ta nghĩ nỗi cô đơn đúng là đôi mắt. Nhưng cả đôi mắt và nỗi cô đơn đều là những thứ vô nghĩa cả. Cháu có nghĩ thế không?
Tất nhiên là không.
Sau một hồi tranh luận không kết quả, ông quay sang thở dài.
Ta nghĩ những bức tường giờ đây đã được sơn quá nhiều màu, nó đa dạng thật nhưng nó dối trá.
Ý ông định nói đến những kẻ sở hữu những bức tường phải không?
Đôi mắt cũng có thể biến dạng không theo cảm xúc nữa mà là một sự sắp đặt đầy toan tính. Giờ thì ta bất lực, ta không nhận ra con người phía sau bức tường của họ.
Thế tại sao ông luôn khẳng định: “con người cô đơn”?
Ta không khẳng định nữa. Ta chỉ nghĩ thôi. Mà ta nghĩ như thế này này, một khi con người không còn nhận ra mình sau chính bức tường chắn do mình tạo ra thì con người đích thị cô đơn rồi!
Thế cháu có phải là kẻ cô đơn không?
Sẽ là không nếu cháu soi gương vào mỗi sáng sớm và nhận thấy cháu vẫn còn nguyên vẹn trong đôi mắt của kẻ đối diện.
Ông sẽ từ bỏ những nốt nhạc, cây đàn và vuông giấy chứ! Cháu chợt nhận ra ông đã không còn là mình từ rất lâu rồi!
Ta sẽ từ bỏ sân khấu chứ không phải là niềm đam mê. Với ta vinh quang cũng đáng sợ như thất bại. Nó buộc ta trở thành nô lệ cho nó. Khi nghèo hèn ta phải dùng ánh mắt van lơn dù máu trong ta đang sôi ùng ục, chỉ chầu chực trào ra nữa thôi.
Cháu hiểu.
Khi nổi tiếng, ta phải nhìn họ bằng ánh mắt đam mê nóng bỏng kể cả khi ta thật sự cần đến sự tĩnh lặng.
Cháu hiểu.
Tốt.
Nhưng ông đừng quy kết cho đôi mắt bất cứ tội lỗi nào của con người, nhất là sự gian xảo và dối trá.
Cháu nói đúng. Đúng là ta già rồi! Ta lẩm cẩm mất rồi! Ta chẳng nên quy kết điều quái quỷ gì cả.
Ông cứ lẩm cẩm như thế thật, cho đến tận lúc chết. Họ vẫn chơi nhạc của ông, nhưng nó không phổ biến vì người ta không còn ưa chuộng thứ nhạc cổ điển không lời ấy nữa.
Tôi cũng không còn nhớ nổi tên thật của ông. Tôi đã quen gọi ông là “triết gia lẩm cẩm”. Tôi tặng cây đàn và số tài sản khổng lồ cho một học viện âm nhạc nổi tiếng. Đó là món quà di chúc. Ông lúc nào cũng giản dị. Ông kiếm được nhiều tiền nhờ viết nhạc và chơi nhạc, nhưng ông đã chẳng tiêu gì nhiều đến nó. Tôi cũng chẳng biết tiêu nó như thế nào. Tôi hãnh diện quyên góp cho niềm đam mê của cả ông và tôi. Dầu tôi đã ra sức giải thích cho họ hiểu: ông chỉ là một triết gia lẩm cẩm nói về những điều vô nghĩa, nhưng họ vẫn nhất quyết đổi tên học viện thành “bức tường” có nghĩa là “đôi mắt”. Con người thật khó hiểu. Tôi bỏ đi. Tôi bỏ theo đam mê của mình tới một vùng đất phát triển rực rỡ hơn về âm nhạc cổ điển, tôi muốn thử sức ở đó. Hành trang duy nhất tôi mang theo lúc đó là hình ảnh đôi mắt đượm vẻ suy tư của ông, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ là nó vô nghĩa. Tôi nghĩ ông sai.
Hoài Băng
29.5.10
Lớp: Sáng tác-Lí luận-
Phê bình Văn học K11
Đại Học Văn Hóa Hà Nội
Email: hoaibang89@gmail.com
Blog : http://vn.360plus.yahoo.com/
gio-o.com 2011