Đặng Văn Sinh

Chuyển Kiếp

 

truyện ngắn

 

Hắn vào nghề này hoàn toàn bởi sự tình cờ. Hồi ấy hắn mất việc thậm chí xuýt nữa phải" nhập kho" (1) vì bị gã đồng sự phản thùng sau lần tổ hắn biển thủ cả một xe điện thoại di động bắt được của bọn buôn lậu ở dốc Đá Trắng. Hắn thoát khỏi bộ quần áo sòng sọc không phải do thế mạnh của dây rợ hay ô dù gì, mà đơn giản chỉ vì, ông giám đốc vốn là thường vụ tỉnh uỷ, đang ngấp nghé ghế phó chủ tịch, nên đã ỉm chuyện đi. Hắn chỉ bị xử lý nội bộ rồi lặng lẽ cuốn gói không kèn không trống.

 

Trên đường về, qua thị trấn Đông Ký, một phố huyện mới phất lên từ thời mở cửa, hắn bước vào quán thịt chó. Trước khi hoàn dân, hắn muốn đập phá lần cuối cùng để đưa ma cho sự nghiệp mười sáu năm tận tụy với nghề bây giờ bỗng chốc trắng tay. Tại đây, hắn nhận lời chạy hàng cho bà chủ quán tên là Trần Thị Vinh nhưng khách vẫn quen gọi là "mụ Béo". Bà chủ quán, bốn mươi hai tuổi, mặt rỗ hoa, giống như một cây thịt với bộ ngực đồ sộ và cặp mông núng nính tuy nhiên dáng đi lại khá nhẹ nhàng uyển chuyển. "Hàng" đây là các chú cầy tơ với đủ các thứ gam màu đen, vàng, vằn, vện… để ngày ngày các tay đầu bếp chuyên nghiệp chế tạo ra thứ "mộc tồn" (2) bảy món nổi tiếng phục vụ các "thượng đế" có nguồn thu nhập mờ ám nhưng khá ổn định từ các dự án xoá đói giảm nghèo.

 

Lúc hắn đang ăn có một người đàn ông béo tốt bước vào. Nhìn thấy chủ quán, ông ta nói ngay:

 

-         Chị làm gấp cho hai mâm. Nhớ là loại cầy tơ…

-          

Bà chủ đang thái bánh phở, quẳng dao, nhìn khách nhăn nhó:

 

- Gay lắm, từ sáng đến giờ chẳng mua được con nào cả ông ạ.

 

- Chị nói thật hay đùa đấy? - Người đàn ông chợt nghiêm giọng - Hôm nay lãnh đạo uỷ ban làm việc với các sếp tài chính và ngân hàng tỉnh xin kinh phí. Quan trọng lắm. chị cố thu xếp cho.

 

- Tôi không đùa đâu. Chú có biết các quán khác đã đóng cửa từ cả tháng nay chỉ vì cái lệnh "cấm" của ông chủ tịch nhà chú không? Chung quanh đây hết chó rồi, mà đi xa thì không có người. Thà dẹp tiệm cho khoẻ.

 

Nghe câu chuyện nhấm nhẳng giữa hai người, hắn chợt nảy ra một ý. Chờ ông khách ra khỏi quán, hắn bước lại gần bà chủ khẽ bảo :

 

- Tôi có thể cung cấp …chó cho bà.

 

- Chú ở đâu ta?

 

- Bên Nam Thành, cũng gần đây thôi. Huyện tôi chưa thấy có lệnh cấm.

 

Bà chủ bưng ra một đĩa dồi hấp, một bát nhựa mận, một chai 65 (3) rượu ngang đặt trước mặt hắn:

 

- Coi như tôi đãi chú. Buổi sơ giao, tuy chưa biết rõ lai lịch nhưng tôi quý chú ở tính hào hiệp.

 

Hắn rót rượu, và nhấm nháp các món đặc sản vừa hỏi nhỏ:

 

- Cái ông béo vừa rồi là ai thế ?

 

- Ông chánh văn phòng uỷ ban vừa đi nghỉ mát Đà Lạt bằng tiền "chùa" (4) về. - Bà chủ quán hất hàm - Mới về nên ông ta chưa biết cái lệnh cấm nuôi chó. Với lại văn phòng đã ghi nợ ở quán tôi hơn chục triệu rồi, bây giờ cho ký nữa thì hết vốn.

 

- Ra thế…

 

- Vậy cứ hai ngày một lần chú mang đến cho tôi.

 

- Mấy con thì vừa ?

 

- Được ba bốn thì càng tốt nhưng ít nhất cũng phải có hai. - Bà chủ hướng cặp mắt lá răm lúng liếng dưới hai hàng lông mày rậm xoăn tít, nặng sùm sụp, nói chẳng biết thật hay bỡn - Dù sao đây cũng là một hợp đồng làm ăn, tôi sẽ sửa cái lễ vào cửa "Cô" để "Cô" phù hộ cho.

 

Hắn nheo mắt cười, giọng chớt nhả :

 

- Thế nhỡ tôi phá hợp đồng thì sao ?

 

- Chú cứ đùa. - Bà chủ lấy ngón tay vuốt quết trầu hai khoé miệng, thản nhiên bảo- Đã làm ăn với nhau thì phải lấy chữ tín làm đầu. Trên đời, hay gì những quân lừa lọc, tráo trở…

 

Hắn gật đầu cảm ơn rồi bước ra với bộ mặt tái nhợt, thong thả dắt xe đạp. Bà chủ quán như chợt nhớ ra điều gì, gọi khẽ :

 

- Này, chú gì ơi !

 

Hắn quay lại :

 

- Chết, quên , tôi chưa thanh toán…

 

- Không, đã bảo tôi đãi chú kia mà. Chú tên là gì?

 

Hắn nói, tất nhiên là một cái tên giả.

 

- Cầm trước lấy trăm nghìn làm vốn.

 

- Chị không sợ tôi cầm tiền rồi "phắn" (5) à ?

 

- Đã bảo làm ăn bây giờ phải lấy chữ tín làm đầu. Tôi tin chú vì trông chú có vẻ lương thiện.

 

Trên đường về hắn phác ra một kế hoạch. Dù sao thì cũng rất ít người biết hắn là viên cảnh sát bị "tuột xích" trong một vụ án mập mờ do ăn chia không đều. Hắn chỉ là gã tốt đen, thấp cổ bé họng làm vật hy sinh cho các sếp sòng, sau đó những "đại ca" đểu giả và tham ăn như chó này trở mặt làm cho hắn thân bại danh liệt.

 

Quê hắn là xứ đồng chiêm trũng, xa tỉnh, xa huyện, lại chậm phát triển, ít thông tin. Trừ mấy thằng bạn khác ngành ở các xã loanh quanh đã được dặn trước, còn nói chung bà con dân làng vẫn yên trí hắn là cán bộ nhà nước. Hắn lại có mối quan hệ khá tốt với ông chủ tịch nên mọi bí mật về đời tư đều được giữ kín.

 

Việc làm đầu tiên là hắn thuê đan lồng sắt và tự tay làm chiếc thòng lọng bằng dây dù, cán tre. Với bộ đồ nghề đó, hắn dọc ngang khắp các làng gần làng xa (tất nhiên trừ làng hắn) trong bộ quần áo bò tàng tàng, cái mũ lá rộng vành và cặp kính đen gọng to bằng ngón tay, tìm cái thứ đặc sản mà bà chủ quán phố huyện Đông Ký hợp đồng. Xong việc, hắn gửi bộ đồ nghề trong nhà một thằng bạn mới quen làm nghề lái công nông, lên thị trấn tá túc ở cái nhà bẹp của thằng bạn độc thân vừa đi trại Vân Lĩnh về. Vài tuần một lần, hắn đảo qua nhà đưa tiền cho vợ nuôi con. Phần còn lại, hắn không tiêu pha phung phí mà tích cóp lại, cho vay lãi qua bà chủ quán làm trung gian. Công việc của hắn khá thuận lợi, có những hôm gom được cả chục con. Hắn nhốt lại ở nhà thằng bạn, bán dần từng cặp hoặc ba con một. Bà chủ là người rộng rãi và sòng phẳng. Có lần, hàng mang đến không phải cầy tơ, bà ta vẫn trả đến hai mươi nghìn một ký, và lần nào cũng vậy, đều đãi hắn một bát phở bốc khói. Còn rượu thì tuỳ thích, uống bao nhiêu cũng được.

 

Điều làm hắn suy nghĩ đôi chút có lẽ là ở hai việc đáng buồn sau đây. Vào một hôm trời mưa, hắn đến làng Bía ở phía nam đường 183 tìm hàng. Người ta mách ông Vấn có con chó hay ăn gà muốn bán. Hắn dựa xe ở cổng rồi vào nhà. Ông Vấn là phó chính uỷ trung đoàn hồi hưu hơn chục năm, trình độ học vấn chưa hết lớp ba nhưng thuộc nằm lòng tất cả các nghị quyết từ trung ương đến địa phương của Đảng, thấy một thanh niên sức dài vai rộng, tướng mạo xem ra cũng khá mà lại làm nghề buôn chó, ngứa mắt bảo :

 

- Anh không kiếm đựoc nghề nào đỡ nhếch nhác hơn à ?

 

Hắn điên tiết quát vào mặt lão già kiêu binh :

 

- Ông về hưu, ngồi mát ăn bát vàng, cứ ngồi đấy có Đảng nuôi, cần đếch gì đến ai. Còn tôi, bị mất việc, nhục như con chó nên mới phải buôn chó nuôi vợ con. Đề nghị ông đậy cái miệng lại cho.

 

Chuyện thứ hai. Hôm hắn sang sông vào làng Giành. Gần trưa, hắn đã mua được hai con, định kiếm thên con nữa, chiều đi luôn, sáng mai về. Đến cổng ngôi nhà có giàn thiên lý trước cửa, hắn đánh tiếng. Nhà chủ đang ăn cơm. Chẳng ngờ, người ra mở cửa lại là cô trung uý phụ trách hộ khẩu phòng Quản lý hồ sơ đang kỳ nghỉ phép. Thế là chẳng kịp nói câu nào, hắn nhảy phốc lên xe co cẳng đạp như bị ma đuổi.

 

Được hơn một năm, thị trường "mộc tồn" bắt đầu biến động. Mặt hàng đặc sản này vốn hấp dẫn khách nên số lượng quán nhậu đột nhiên nở rộ như nấm mùa xuân. Đội ngũ "di vu cho" (6) phát triển theo cấp số nhân, đông đảo đến mức đi đâu cũng chạm nhau. Hơn nữa, lệnh cấm đã bắt đầu được ban bố ở một số vùng trong huyện của hắn. Chó hiếm dần mà yêu cầu của bà chủ ngày cang cao, hắn đâm lo. Sau tết âm lịch, nghĩa là vào đúng thời kỳ các quán nhậu bắt đầu mở cửa cho một năm mới thì "cầy" (7) các loại ở địa bàn hắn gần như cạn kiệt. Đây là thứ dịch vụ tạm thời kiếm ra tiền. Vợ con trông cậy vào chiếc thòng lọng, hắn không thể giải nghệ. Làm cách nào đây?

 

Sau một đêm vắt óc suy nghĩ, hắn bỗng nhớ ra đàn "cầy" đông đúc ở làng, vốn là vùng hẻo lánh nên chưa bị lệnh cấm đe doạ. Tuy nhiên phải hợp lý hoá bằng cách nào để không lộ tẩy? Mấy con đầu có thể nói phứa mua cho cơ quan liên hoan tổng kết chiến dịch truy quét tội phạm hoặc hội nghị an ninh khu vực, nhưng còn những con tiếp theo? Bài toán dù hóc búa dến đâu cũng có lời giải. Hồi trước, một thằng bạn làm quản giáo bên trại Ba Lăng có truyền cho hắn chút ít về nghiệp vụ chó, hơn bao giờ hết, đây chính là lúc hoạ vô đơn chí, hắn quyết định tận dụng nó như một thứ cẩm nang trời cho.

 

Làng Chòi rộng, nhà tranh vách đất tuềnh toàng, nhiều đường ngang ngõ dọc. Cả một cộng đồng đông đúc từ chó đen, chó vàng, chó vá đến chó vện, chó lai cứ theo nhau biến mất không để lại dấu vết làm dân chúng nháo nhào. Ông trưởng công an, sau hôm mất con chó vàng "tứ túc mai hoa" (8) nói với bố vợ hắn :

 

- Bọn này chủ trương diệt hết chó làng ta rồi mới chuyển sang bước thứ hai là gây án có tổ chức đây. Đểu nhất là nó lại nhè đúng nhà mình…

 

Ông bố vợ hắn, tuy chưa bị mất nhưng xem ra đã nổi cơn điên, giọng hậm hực:

 

- Các ông làm ăn chán bỏ mẹ, chưa tối đã rúc váy vợ, nó xỏ mũi là phải. Tôi đã thuê phó Viện rèn một ngọn mác, thằng nào lớ ngớ mò vào là xiên luôn cho hết giống trộm cắp. Mà cũng lạ, nếu bảo bị đánh bả thì cũng có những con không mang đi được, đằng này hầu như con nào cũng mất tăm, tựa như có phép tàng hình.

 

Hắn cười thầm. Trừ những trường hợp nhốt cũi để trong nhà, còn nói chung, không mấy con thoát khỏi bàn tay như có phép màu của hắn. Hắn có thứ thuốc khá hiệu nghiệm giống như chất ma tuý đặc biệt hấp dẫn đối với chó. Ngửi thấy mùi "ma dược" ấy, bất cứ con nào, dù khôn ngoan đến mấy cũng bị thôi miên. Nó sẽ tự động bỏ vị trí canh gác, chúi mũi tìm đến nơi có mồi. Hắn chỉ việc dùng thòng lọng chẹt cổ, xoa thuốc vào mõm rồi mang đến căn hầm bí mật cho vào lồng sắt. Chừng vài giờ sau, thuốc mê hết tác dụng, lũ chó tỉnh lại, khoẻ mạnh như thường. Đến lúc ấy thì hắn đã ung dung đạp xe trên quốc lộ 183, đàng hoang, lương thiện như bất cứ "di vu cho" nào khác.

 

Hết chó bên ngoài, hắn bắt đầu "tỉa" chó của của họ hàng. Đầu tiên là ông chú ruột, một con xám tro nặng mười bảy ký rưỡi, được ba trăm năm mươi ngàn. Bà thím tiếc đứt ruột, đắp mả hờ, trồng cây chuối ngược, thắp hương chửi đúng bốn mươi chín ngày đêm. Nhưng rồi chó của các ông chú, bà thím, ông cậu, bà cô cũng dần dần biến sạch. Bà chủ quán thấy ngày càng hiếm, tăng lên hai mươi mốt ngàn một ký và yêu cầu hắn vẫn duy trì hợp đồng. Hắn, sau khi làm xong chén rượu với bát phở nhựa mận, mặt nóng bừng, nhưng giọng vẫn tỉnh, bảo :

 

- Bà cảm phiền cho. Dạo này họ cấm ngặt. Hết chó rồi. Hôm qua tôi phải lạy van mãi bà dì mới được con này…

 

Bà chủ tỏ ra thông cảm, giọng năn nỉ :

 

- Bây giờ tôi chỉ còn trông cậy vào mánh của chú. Hôm rằm vừa rồi, tôi đã đến điện Trầm bốc hai bát hương và xin với "cô" phù hộ cho chị em mình ăn nên làm ra, không phản lại nhau.

 

Sau vụ chết hụt do bị ông chủ nhà xóm Giữa lao mũi mác vào chân, hắn đâm tin vào trò đồng cốt, bói toán. Nghe bà chủ nói, hắn thoáng thấy sợ. Trên đường về, hắn tự nhủ, cũng chỉ còn hơn chục ngày nữa, thôi đành cố vậy, rồi sau sẽ liệu.

 

Con thứ nhất và con thứ hai của ông chủ tịch. "Ông thông cảm. Chẳng còn cách nào khác. Xong việc. tôi sẽ mang toàn bộ số tiền bán hai con chó đặt vào khe cửa nhà ông". Con thứ ba của chính ông bố vợ hắn. Đối với hắn, xích sắt, khoá và lưỡi mác sáng loáng của phó Viện không là gì. Hắn mang đi con chó đen "huyền đề" (9) và để lại cửa buồng một bọc tiền. Ông trưởng công an biết chuyện, sang chia buồn. Cả hai nhìn nhau lắc đầu, không biết nói thế nào về vụ trộm lạ đời.

 

Nhà hắn có một con chó trắng. Hắn tự bào chữa, mang chó nhà đi không phải là ăn trộm. Hắn sẽ cầm tiền về cho vợ. Tuy nhiên, quyết định rồi nhưng trong thâm tâm vẫn có điều lấn cấn. Hắn bán chó, chẳng may trộm mò vào nẫng sạch đồ đạc trong nhà thì biết tính sao? Mà hắn lại thường xuyên đi vắng. Nghĩ thế nhưng rồi hắn lại tặc lưỡi: "Cứ biết thế đã, ở đây lệnh cấm chỉ có tính tượng trưng, nay mai mua con khác". Vậy là đêm ấy chính nhà hắn mất chó.

 

Còn hai ngày nữa mới hết hội. Hắn phải kiếm bằng được con cuối cùng cho đủ số lượng giao kèo. Làng hắn gần như đã hết, trừ vài con chó ghẻ, trụi sạch lông, gầy giơ xương chẳng bõ động tay. Hắn chợt nghĩ đến làng Trụ bên kia sông. Tình cờ, chiều ấy từ xóm Trại về, hắn nghe ngoài đê có tiếng chó sủa. Đó là nhà bà Tảo goá chồng, ngôi nhà duy nhất ngoài bãi mà hắn chưa mò đến. Bà Tảo gần bảy mươi, mắt kém, có con chó vện mới đẻ chừng già nửa tháng. Chó mẹ tuy nuôi con nhưng khá béo và cái chính là rất khôn.

 

Chung quanh nhà có vườn chuối tây tốt như rừng. Đêm ấy, hắn huýt sáo nhẹ rồi vứt miếng mồi có tẩm "ma dược" vào góc vườn. Con chó khịt mũi đánh hơi nhưng nhất định không ra. Hắn chờ đến nửa tiếng, con Vện vẫn đứng nép dưới gốc chuối cảnh giác, thỉnh thoảng lại rít lên khe khẽ. Nóng ruột, hắn xoa thuốc làm mất hơi người vào mặt và chân tay, sau đó lách cổng chui vào ném miếng bả thứ hai. Con vật hình như chưa hoàn toàn tê liệt mọi giác quan. Cặp mắt nó mở trừng trừng, lóng lánh như mắt ma. Biết rõ trong nhà chỉ có một người đàn bà hoàn toàn không còn khả năng tự vệ, cùng với máu liều của một gã lưu manh từng được đào luyện trong bộ máy công quyền, hắn càng thêm vững tâm trong phi vụ cuối cùng. Lúc này con chó vừa nhìn xoáy vào hắn vừa lấy hai chân cào cào xuống đất rồi quay đầu chạy vào vườn chuối. Hắn cảm thấy lạnh và thất vọng. Bỗng nhiên có tiếng chó con gọi mẹ khe khẽ. Hắn áp tai vào đầu nhà và bất ngờ phát hiện ra đàn chó ở trong gian bếp nhỏ, cửa không khoá, nằm đối đầu với ngôi nhà chính. Lặng lẽ như một tên kẻ trộm chính cống, hẳn lẻn vào bếp lần đến ổ chó bắt hai con. Quả nhiên, hắn vừa ra đến cổng, con chó mẹ lại xuất hiện. Nó rên ư ử, nhe răng lao vào hắn. Hắn nhanh tay vứt miếng mồi thứ ba. Con Vện vội lùi lại nhưng "ma dược" đã làm nó mất mọi phản ứng. Hắn quẳng lũ chó con vào vườn chuối, rút thòng lọng tròng vào cổ con chó mẹ…

 

Sáng hôm sau, đúng vào ngày cuối cùng của mùa hội, hắn đạp xe vượt chặng đường mười bảy cây số đến thị trấn Đông Ký. Bà chủ quán đang sốt ruột, thấy hắn, mắt sáng lên:

 

- Hôm nay chú không đến thì tôi sập tiệm. Và mới có một đoàn khách của huyện uỷ đặt ba mươi tám suất mà chưa biết trông vào đâu.

 

Hắn đỡ chén nước nóng uống một ngụm rồi bắt đầu mở cửa lồng. Con chó bị trói hai chân trước quặt ra đằng sau, nằm bẹp một góc. Bị quăng xuống đất, nó giãy giụa, quằn quại, nhớt dãi chảy lòng thòng, một bên mõm dĩnh đấy cát. Như có luồng điện khá mạnh xuyên qua người, hắn không dám nhìn vào mắt nó nhưng linh tính báo cho hắn biết có chuyện chẳng lành. Con chó thở hồng hộc và bỗng nhiên tru lên một hồi dài thê thảm như tiếng loài sói bị thương hú gọi đàn. Tiếng hú âm âm, ghê rợn làm bà Béo phát hoảng, chắp hai tay vái lấy vái để lên bàn thờ Thổ công. Hắn cười gằn, vớ cây gậy ở gầm giường vụt vô tội vạ. Nhưng có lẽ do tâm thần bắt đầu hoảng loạn nên hắn toàn đập trượt. Con chó cố sức vùng vẫy, và, chẳng biết trong lúc hiểm nguy, nó làm cách nào giựt tung được dây trói, nép vào góc tường tránh đòn. Hắn quyết định trừng phạt đến cùng con chó láo lếu liền cầm gậy bằng cả hai tay vung lên quá đầu. Trong khoảnh khắc, con chó ngẩng lên, hai cánh múi phập phồng, run run. Từ cặp mắt thất thần của nó lăn ra những giọt nước trong suốt như thủy tinh pha lê. Lần đầu trong đời nhìn thấy sự lạ, hắn tái mặt, quẳng gậy, lùi dần về phía sau. Được tự do, con chó lưỡng lự vài giây rồi mới cúp đuôi rông thẳng ra đường.

 

Hắn ngồi xệp xuống, mắt trợn ngược, toàn lòng trắng. Mọi phản xạ lúc này có vẻ không theo quy luật tự nhiên nữa. Hắn tựa như kẻ mất hết khả năng suy nghĩ mà lần mò trong thế giới vô thức. Và rồi, chẳng biết thứ ma quỷ nào ốp vào, thốt nhiên, hắn bỏ quán bà Béo, bỏ cả xe đạp với chiếc lồng sắt chạy bổ ra đường đuổi theo con chó khốn khổ. Đầu hắn lao về phía trước, hai tay chới với, miệng sùi bọt, sủa váng lên :

 

- Gâu ! Gâu !

 

Đặng Văn Sinh

 

(1) Đi tù

(2) Là chó theo cách giải câu đố của Trạng Quỳnh

(3) Chai thủy tinh dung tích 65cc

(4) Tiền do nhà nước cấp

(5) Chạy (tiếng lóng)

(6) Di vu cho : Dịch vụ chó (tên gọi tắt theo kiểu Tây)

(7) Cầy : một cách gọi khác của chó

(8) Những biẻu hiện của loại chó khôn

(9) Một trong những đặc điểm của loại chó khôn

 

 

 

© gio-o com 2008