Bóng thời gian

NGÀY XƯA TÔI BÉ…

Lê văn Phúc

Cai tôi vốn là đứa lêu lổng từ tấm bé, thích la cà, lang thang ở ngoài đường hơn là quanh quẩn trong nhà. Vả lại, gia đình Cai tôi không khá giả gì, đâu ai chăm lo săn sóc, thế cho nên lãng du là nghề của chàng.

Bố mẹ Cai tôi thuộc giới bình dân lao động mỏ lét bù loong, buôn thúng bán mẹt nuôi một lũ con nên ít có thời giờ để ý đến con cái. Nuôi ăn còn chưa xong, nói chi đến dậy bảo. Thôi thì mọi chuyện phó thác cho nhà trường, cho các thầy, các cô chăm lo cho cháu.

Nhà trường nào cũng có kỷ luật phân minh, theo dõi việc học hành của học sinh hang ngày rất là cẩn thận. Như điểm danh, làm toán, làm thủ công, học thuộc lòng, viết chính tả, tập thế dục, bài làm ở nhà v.v…

Sự thưởng phạt cũng rất rõ ràng, xứng đáng. Trò nào học giỏi, thuộc bài thì được điểm cao. Trò nào lười biếng, bết bát thì ăn “trứng gà” - tức là số 0 –có khi bị chép phạt, có lúc bị quỳ, có phen bị ăn vài cái thước kẻ đét đít.

Nhà trường tuy trách nhiệm về vấn đề dậy chữ nghĩa nhưng cũng không quên uốn nắn, dậy dỗ các học trò rằng “Có học phải có hạnh”. Hiểu biết là một chuyện, còn nhân cách lại là một chuyện khác. Trong hai chuyện đó, phẩm hạnh quan trọng hơn. Cho nên, lớp nào cũng có dán câu châm ngôn, chữ cắt bằng bìa bóng đủ mầu, rằng “ TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN” tức là điều cần thiết trước tiên của học trò là phải lễ phép, đạo đức, học cái đạo làm người ngay thẳng, hiếu đễ, trung thành, yêu thương trước đã rồi sau mới học chữ nghĩa để hiểu biết mà lập thân, phụng sự gia đình, xã hội.

Cứ coi như vậy thì đủ thấy học văn không bằng học lễ.

Riêng Cai tôi nhận xét thì cả hai môn trên đều khó chứ chả cứ môn nào khó hơn môn nào. Hoá nên, từ thuở cắp sách đến trường đã thấy rằng cuộc đời mình sớm muộn gì cũng ba chìm bẩy nổi, chin lênh đênh…

Nói riêng về cái học thôi, Cai tôi từng bị nhiều phen khốn đốn.

Ngày bé, học lớp tư, lớp ba, Cai tôi thường chọn bàn cuối cùng để ngồi chung với mấy tên bạn hay nghịch và ưa nói chuyện trong lớp. Những đứa ngồi bàn đầu thường là những tên chăm chỉ học hành, ngoan ngoãn, gỉỏi giang.

Cai tôi tự biết mình nên khiêm tốn, tìm cho mình một chỗ thích hợp.

Cái nguy của những tên ngồi bàn đầu, bàn nhì là thầy giáo, cô giáo thường nhớ mặt nhớ tên để thân ái gọi lên bảng làm bài, đọc bài, sai vặt.

Mỗi ngày đi học, khi thầy giáo giở quyển sổ điểm ra, gọi vài trò theo vần A,B,C là Cai tôi mặt xám như chì, tim đập thình thịch, hãi ơi là hãi. Chẳng may hôm nào thầy chiếu cố đến vần P mà lại gọi đích danh thủ phạm thì y như rằng bữa ấy Cai tôi khốn đốn. Lý do dản dị là chả bao giờ Cai tôi học bài, làm bài, chả bao giờ ngó ngàng chi đến sách vở thì có vào lớp cũng như đứng ngoài đường.

Bởi thời giờ trong lớp nó trôi qua rất nặng nề nên Cai tôi thường mang tiếng là hay nói chuyện. Thầy cô rầy la, cảnh cáo, cốc đầu, đét cho vài cái thước kẻ thì cũng như phủi bụi, như nước đổ lên đầu con vịt…

Có lần, Cai tôi huýt sáo trong lớp, bị thầy phạt mà nhớ đời. Thầy không đánh mắng làm chi cho phí sức phí nhời.

Lần đó, thầy nhỏ nhẹ gọi trò lên bàn, ra lệnh cho trò đứng quay mặt vào tường, tự do huýt sáo.

Các cụ thử nghĩ mà xem, lúc nào vui, lúc nào khoái thì mình mới huýt sáo được! Chứ trong cái cảnh chịu phạt như thế ni, bao nhiêu con mắt trần gian chăm chú theo dõi, còn ông thầy lại lăm lăm cái thước kẻ thì làm sao Cai tôi có thể thi triển tài năng mới được?

Cai tôi chúm môi, huýt gió theo lệnh của thầy mà sao nước mắt, nước mũi cứ chẩy ròng ròng. Còn tiếng huýt gió, huýt sáo thì chẳng thấy đâu sốt cả!

Ông thầy vẫn tiếp tục giảng bài, thỉnh thoảng liếc một cái xem Cai tôi có giở trò gì khác không. Học trò vẫn làm bài nhưng hình như cả trăm con mắt vẫn hướng về phía nam tài tử đang trình diễn màn huýt sáo.

Thời gian cứ nặng nề, lặng lẽ trôi qua…

Một lúc lâu lắm thì phải, ông thầy mới gọi trò lại gần bàn để giảng giải mấy lời giáo huấn.

Cai tôi biết thân biết phận, mặt mày nom ủ rũ, nước mắt nướic mũi tùm lum coi bộ rất là thê thảm, khoanh tay cúi đầu chịu trận.

Ông thầy lại cầm cái thước kẻ, chỉ vào mặt Cai tôi mà mắng rằng:”Ngồi trong lớp học thì phải học hành cho chăm chỉ. Giờ học ra học, giờ chơi ra chơi. Không thể nào trong giờ học mà lại đùa nghịch, nói chuyện, huýt sáo làm mất trật tự được. Học trò thì phải nghe lời thầy thì sau này mới ấm vào thân, chứ cứ lêu lổng chơi bời thì sau này chỉ là kẻ ăn  hại xã hội”. Nói xong, thầy lại chỉ cái thước kẻ về phía câu châm ngôn dán bằng bià bong ở trên tường:
“Tiên học lễ, hậu học văn” để giảng cho cả lớp nghe về ý nghĩa cao quý của danh ngôn đó. Chớ có trò nào ỷ mình học giỏi mà khinh người, làm tàng, làm phách, vô lễ với kẻ trên người dưới. Vì như câu châm ngôn khác cũng dán trên tường đã nói rằng:”Có học phải có hạnh”.

Sau màn luân lý giáo khoa thư ấy, ông thầy có vẻ hơi mệt vì nói hơi nhiều, ngồi xuống ghế thở dài…

Thầy không bạt tai, đét đít hay bắt chép phạt gì cả.

Thật là hú viá!

Nhưng có điều này lạ lắm: Rằng từ sau ngày bị thầy giáo phạt quay đầu vào tưòng huýt sáo, cho đến bi chừ đã hai thứ tóc trên đầu, Cai tôi mất hẳn cái thú huýt sáo. Mà có huýt sáo cũng không thành tiếng nữa!

***

Ngày xưa, các thầy giáo, cô giáo chọn cái nghề dậy học, nói nôm na, cụ thể là “Nghề bán cháo phổi” vì nói nhiều, giảng nhiều nên rất hại phổi. Ít ai suy bì về lương bổng mà vì yêu nghề nên dành cả cuộc đời mình cho thế hệ tương lai, những mong đào tạo giới trẻ thành người hữu ích cho xã hội. Với lý tưởng cao cả ấy, nhà giáo thường sống đạm bạc, bình dị để tâm hồn được thảnh thơi đọc sách thánh hiền, tu tâm dưỡng tính, truyền bá đạo học và làm gương cho các học sinh.

Người xưa cũng đặt vai trò của nhà giáo rất cao theo cấp bậc “Quân, Sư, Phụ” tức là thầy học chỉ dưới vua nhưng trên cả bậc cha mẹ. Bởi thầy là ngưòi thay thế cha, hàng ngày gần gũi săn sóc ta cả hai phương diện học hành và hạnh kiểm.

Cổ nhân cũng dậy rằng:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là học một chữ hay chỉ nửa chữ thôi, người dậy ta học cũng là thầy ta vậy!

Xem như thế, địa vị của thầy thật là nặng nề và cũng thật là hãnh diện. Nặng nề vì thầy gánh gần như nguyên con trách nhiệm tinh thần. Hãnh diện vì thầy chính là “Kiến trúc sư của tâm hồn”, tạo cho xã hội những con dân hữu ích, làm vẻ vang cho gia đình, cho học đường.

Trong “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” lóp Dự Bị có bài nhắc nhở học trò phải nhớ đến công lao dậy dỗ của thầy qua một bài rất nổi tiếng, rất dễ nhớ. Ai đã học đều không thể quên được.

Ấy là truyện ông Carnot trong bài “Học trò biết ơn thầy”. Ông Carnot xưa là một ông quan to nước Pháp. Một hôm, nhân khi rảnh việc, tạt về thăm quê nhà. Khi ông đi ngang qua trường học ở trong làng, nhìn thấy ông thầy dậy mình khi còn bé, bây giờ đầu tóc bạc phơ, đang ngồi trong lớp giảng bài.

Ông ghé vào thăm, lại trước mặt thầy kính cẩn thưa rằng: Thưa thầy, thầy còn nhó con không? Con là  Carnot đây ạ!”

Rồi ông quay lại phía học trò, nói rằng:”Ta bình sinh, nhất là mang ơn cha ơn mẹ, sau là ơn thầy ta đây. Vì nhờ có thầy dậy bảo, ta mới có được sự nghiệp ngày nay…”

Thưa các cụ, hồi bé Cai tôi đọc bài này và ngó cái hình vẽ ông Carnot cầm mũ, đeo gươm, đi ủng, nói trong lớp học mà chẳng thấy cái gì là đặc biệt cả!

Chuyện ông Carnot tuy có đôi chút ý nghĩa nhưng cái tình thầy trò không mấy đậm đà, thắm thiết.

Ở nước ta, sự kính trọng quý mến ông thầy biểu lộ rõ rang, thắm thiết hơn nhiều.

Cái sâu sắc, đậm đà, mang đầy tình nghĩa thầy trò của ta là mặc dù các trò đỗ đạt cao, chức vị lớn của triều đình nhưng vẫn tìm về trường cũ. Rồi các vị ấy cởi bỏ mũ áo cân đai võng lọng quân hầu, xuống ngựa xe, đi bộ từ đầu làng vào trường xin gặp thầy cũ, khoanh tay đứng hầu, đun nước pha trà, xin được nghe thầy chỉ bảo, khuyên răn như những ngày xưa ngồi học đưói mái trường.

Các cậu học trò còn đang sôi kinh nấu sử, bò lê bò càng quanh đó khi nhìn quan lớn, tiền hô hậu ủng nay về thăm thầy mà khoanh tay đứng hầu, đun nước pha trà như thế kia thì đây là một tấm gương lớn, một bài học không bao giờ quên được trong đời học trò của họ.

Thiết nghĩ, lời khuyên nhủ nào của ngưòi thành đạt đối với học trò cũng là thừa trong hoàn cảnh này.

Bố mẹ Cai tôi cũng thấm nhuần đạo lý ấy nên cũng bầy tỏ tấm long của phụ huynh đối với thầy.

Cho nên hễ khi nào bác Hội bên làng Tâng Thượng, Gia Lộc đem cho ít gạo Nàng Hương, rổ khoai mới, thúng đậu đen thì Cai tôi lại có bổn phận sẻ mỗi thứ một ít, lễ mễ ôm lại kính biếu thầy, lễ phép thưa rằng:

-         Thưa thầy, thầy bu con có chút quà nhà quê biếu thầy ạ!

Thầy nhận xong, cười vui vẻ mà rằng:

-         Gớm, hai bác cẩn thận quá đi thôi! Anh về thưa lại là thầy xin cám ơn hai bác nhá!

Cai tôi khoanh tay, cúi đầu chào thầy, nom rõ ra  một học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau, ngoan ngoãn dễ thưong có một…

Vào dịp tết ta, bố mẹ Cai tôi lo mua các thứ để cúng lễ nhưng không bao giờ quên tết thầy.

Thế là vào một ngày cuối năm, Cai tôi lại lẽo đẽo theo ông bố đến nhà thầy giáo.

Bố tôi một tay cầm gói trà và một hộp mứt sen, một tay kia cầm cái rỏ nhỏ, lót rơm, trên có chục quả trứng gà.

Còn Cai tôi xách cái lồng tre, trong có con gà mái tơ. Đối với tuổi tôi thuở ấy thì công tác này hơi nặng tay một tí nhưng  ở cái tỉnh Hải Dương nhỏ bé này, phố nọ sang phố kia cách nhau có dăm chục mái nhà nên đi cũng mau.

Nhà thầy ở cách nhà tôi chừng 15 phút, từ phố Hàng Đồng ra vườn hoa Bảo Đại.

Đến nhà thầy, bố tôi gõ cửa, gặp bà giáo mời vào, chờ thầy giây lát.

Bố tôi đặt mấy món trên bàn, còn tôi thì hạ chiếc lồng gà mái tơ xuống đất, cạnh chân bàn.

Hai bố con tôi ngồi ghế gỗ nhìn quanh quẩn. Cai tôi lại thấy trên tường mấy câu gì nghe rất lạ tai, như:” Ấu bất học, lão hà vi”, “Nhân bất học, bất tri lý”. Cai tôi chẳng hiểu trời trăng mây nước nghĩa lý ra làm sao, nhưng đoán  rằng chắc lại để răn đe, cảnh cáo các con của thầy chứ không có mục đích gì khác đâu!

Khi thầy từ nhà trong  ra  nhà ngoài tiếp khách, bố con tôi đứng dậy chào rất là kính cẩn. Bố tôi nói những gì, tôi không còn nhớ, chỉ thấy thầy giáo đáp:

- Bác cứ bầy vẽ làm chi!

Cai tôi đứng cạnh bố, vốn là đứa thoông minh từ nhỏ, muốn trình thầy rằng ngoài các món thầy thấy ở trên bàn, bố mẹ con còn biếu thầy một con gà mái tơ nữa cơ. Nhưng mà, Cai tôi không thể xách lồng gà ở dưới đất để lên trên bàn, coi vậy không đẹp chút nào. Nhờ thông minh từ bé, Cai tôi thuận chân trái, đá nhẹ ngay vào cái lồng một phát khiến con gài mái tơ hoảng hồn, kêu quang  quác!

Thế là thầy hiểu ý trò!

Đó là cái chân tình mộc mạc đơn sơ của cha mẹ học sinh đối với thầy.

***

Mỗi năm đến hè là lòng Cai tôi lại mang mác buồn. Chả phải vì nhớ nhung trường cũ, xa bạn bè, thương cây hoa gạo đỏ ối, mà vì cứ mỗi độ hè về, bố tôi lại bắt tôi đi học lớp hè của cậu giáo Thành.

Suốt năm, Cai tôi đã khổ sở vì  học, đến hè bố lại bắt học thêm. Lý do là Cai tôi vừa lười vừa dốt, vừa trốn học, nếu không có người kèm thì làm sao lên lớp?

Bố tôi là người biết rất rõ về thằng con nghịch ngợm, ma mãnh, dối trá cho nên phải nhờ đến tay cậu giáo Thành trị mới nổi.

Cậu giáo Thành có cái tiệm sửa đồng hồ gần nhà thuốc tây Quản Trọng Tiến và cách đó không bao xa là nhà thờ.

Mấy nơi này đều nằm trên trục lộ số 5, phố chính của tỉnh lỵ. Cậu giáo có lớp học phía trong nhà, học trò lối hơn chục đứa.

Cai tôi vốn sợ các môn toán, tiếng Tây mà lớp hè của cậu lại chuyên trị tiếng Tây và toán.

Mỗi ngày đi học đối với Cai tôi là một cực hình. Cai tôi không thể biến cuộc đời mình thành một cái nhà giam và đau khổ mãi được. Nhờ thông minh từ bé, Cai tôi lựa tên nào khá toán, ngồi cạnh nó để chép bài. Với lối tính toán đó, Cai tôi đỡ đi được nhiều cú đau đầu về con số. Còn về tiếng Tây, Cai tôi học ba xí ba tú, qua loa rơ măng cho có lệ.

Bữa nào cậu giáo bận khách, bận sửa giây cót, kim đồng hồ hay vợ cậu nhờ cậu đi công việc thì bữa đó chính là dịp may cho Cai tôi tháo cũi sổng chuồng…

Cái thú nhất là Cai tôi chạy tọt sang nhà thuốc Tây Quản Trọng Tiến, lê la các bậc cửa lát đá hoa mát rượi, vừa sạch sẽ , tự do lại vừa có đủ các mùi thuốc Tây thoang thoảng. Không ai đuổi trẻ con nên Cai tôi ngồi bậc thềm đá hoa, nhìn phố xá, xe cộ, người qua kẻ lại bằng cặp mắt yêu đời, sung sướng.

Lâu lâu, có ai trong tiệm thuốc cho Cai tôi cái kẹo thì quả nhiên cuộc đời rất mực thần tiên. Khi nào thèm bánh khảo, bánh đậu, mứt bí, mứt gừng thì Cai tôi  lò dò lại góc đường, vào tiệm Cự Hương, quanh quẩn đấy, hít hà dăm hơi cho đỡ nhớ mùi bánh đậu, sen trần, nước bọt chảy như nước suối.

Có ông thợ nào nhân đức, thảy cho Cai tôi vài miếng đầu bánh khảo cắt dư thì ôi thôi, ăn xong có chết cũng cam lòng…

Cái thú thanh cao, nhẹ nhõm hơn là Cai tôi chạy vào nhà thờ. Cai tôi thuộc gốc “A Di Đà Phật”, đâu có biết làm phép, đọc kinh thánh ra làm sao. Thì cứ vào giáo đường mát lạnh, yên tĩnh, quỳ xuống, cúi đầu. Cai tôi thiếp di một giấc cũng đã lắm rồi.Còn hơn là ngồi trong lớp nóng bức, chật chội, ruồi muỗi để nghe cậu giáo giảng bài, truy bài nhức đầu nhức óc lắm!

Ngồi chán trong nhà thờ, Cai tôi chạy ra sân nhà thờ đuổi chim bồ câu, đi tìm tổ chim để chọc. Khi nào gặp cha, gặp người trong nhà thờ, Cai tôi lại làm ra vẻ một con chiên ngoan đạo, đứng dựa cột nhà thờ nhìn lên cây thánh giá, tháp chuông…

Mỗi lần đi chơi như thế, khi quay lại lớp, cậu giáo đều tức bực về tên học trò ba-gai, lười biếng. Lần nao cậu giáo cũng hỏi:

-         Mày đi chơi đâu về?

Và Cai tôi đều hiền lành, nhỏ nhẹ thưa rằng:

-Thưa cậu, cháu mới qua bên nhà thờ coi lễ một tí thôi ạ!

Cai tôi chỉ thấy cậu giáo Thành lắc đầu, thở dài.

Cái thở dài tương tự của thầy tôi.

Như ngụ ý cuộc đời của Cai tôi sau này khó khá…

Lê văn Phúc