Ngô Nhân Dụng

Nói Chuyện Thơ
 

Cuối tuần rồi nhiều người làm văn nghệ ở Quận Cam và ở San Jose đã họp mặt, được nghe thi sĩ Tô Thùy Yên nói chuyện, nhân dịp cuốn thơ Thắp Tạ của ông mới ra đời.

“Thắp Tạ” nghĩa là gì? Nhiều người đặt câu hỏi đó. Ðó là tên một bài thơ và tên cả tập thơ. Thắp tạ nghĩa là gì? Thi sĩ Tô Thùy Yên không đáp.

Nhưng có một người đã trả lời, một người chúng ta không ngờ cũng phát biểu ý kiến về “thơ” và cũng trong dịp cuối tuần rồi. Ở bên kia bờ Ðại Tây Dương, tại thành phố Berlin, Ðức Quốc. Ðó là ông Jean Claude Prichet - Chủ Tịch Ngân Hàng Trung Ương Khối Liên Hiệp Âu Châu, ông đang dự phiên họp của các bộ trưởng tài chánh và Ngân Hàng Trung Ương 20 nước - gọi là G-20.

Cái hội nghị này lạ lắm. Một vấn đề đang làm cả thế giới băn khoăn là giá đồng đô la Mỹ đang xuống, nhưng bản thông cáo sau cùng của hội nghị không nói một câu nào đến chuyện đô la hết. Nhưng trước khi hội nghị họp thì ông Allan Greenspan - Chủ Tịch Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang - tức Ngân Hàng Trung Ương Mỹ, đã “cho nổ một trái bom” khi ông báo động sẽ tới lúc các nhà đầu tư quốc tế bỏ chạy không mua các chứng khoán của Mỹ nữa vì đồng đô la xuống giá mãi. Khi họ không mua các trái khoán và cổ phần của Mỹ thì họ cũng không cần đổi lấy đô la Mỹ, tức là đô la Mỹ càng xuống hơn. Trước khi ông Greespan phát biểu ở Frankfurt, thành phố này là nơi trụ sở của Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu, thì tuần trước đó ông Trichet cũng nói đến hối suất đô la và đồng euro mà 11 nước Âu Châu đang dùng chung. Ông nói rằng đồng euro lên giá quá cao và quá nhanh so với đô la Mỹ từ đầu năm tới nay. Ðó là một hiện tượng “tàn bạo và không hoan hỉ,” (brutal and not welcome.) Thứ Sáu vừa rồi có người mới hỏi lại ông Trichet ông muốn nói gì trong mấy chữ “tàn bạo và không hoan hỉ”? Ông Trichet trả lời: “Câu đó cũng như là thơ vậy, tự nó đã nói đủ nghĩa rồi!” Tức là quý vị nghe câu “tàn bạo và không hoan hỉ,” về chuyện đồng euro lên giá cũng nên giữ thái độ như khi quý vị nghe những câu thơ Tô Thùy Yên. Bà Tô Thùy Yên, tức là chị Huỳnh Diệu Bích, cũng không giải thích cho tôi hai chữ Thắp Tạ mà chỉ đọc hai câu trong bài thơ tặng chị:

“Thắp tạ càn khôn một vô tích

Thắp tạ nhân quần một luyến thương.”

Nếu như quý vị chưa thỏa mãn, thì xin trích dẫn thêm vài câu nữa trong bài Thắp Tạ, ngay trước hai câu thơ trên:

“Một mai nàng ra bãi vô định

Nhìn sông đổi lòng, nhìn núi chuyển chân.

Mây bay bay như những vẫy biệt...

Nàng đứng cho tàn một nén nhang.”

Rồi sau đó là hai câu thơ bắt đầu bằng hai chữ Thắp Tạ. Tôi nghĩ rằng tự các câu thơ đó đã nói đủ. Nếu giải thích thêm nữa sẽ thành vô lễ với độc giả và tác giả. Và sẽ bị ông Jean Claude Prichet chê cười là chẳng hiểu thơ là cái gì cả.

Một tập thơ, một bài thơ mới đem trình làng cũng giống như là làm bữa ăn đầy tháng cho một đứa con mới sinh. Có ai đi tới dự tiệc mừng mà lại đặt câu hỏi, “Thưa cháu bé là cháu trai hay cháu gái vậy?” Bố mẹ em bé chắc phải trợn mắt lên mà đáp: “Cứ nhìn kỹ thì biết, nhìn không thấy thì mở ra mà coi, hỏi gì nữa?” Có lẽ chính sách tiền tệ của các Ngân Hàng Trung Ương cũng như vậy.

Cái ý so sánh một cuốn sách mới với em bé sơ sinh là của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện. Ông có mặt chiều Thứ Bảy vừa rồi ở phòng sinh hoạt Nhật Báo Người Việt để bắt tay Tô Thùy Yên. Hai người cùng sống ở những nhà tù do cùng một chế độ cai quản, nhưng với các kinh nghiệm và cảm xúc khác nhau. Như các thi sĩ thật sự không ông nào giống bà nào. Nguyễn Chí Thiện bảo rằng dự một buổi ra mắt sách cũng giống như đi ăn tiệc mừng một em bé đầy tháng. Chúng ta chỉ nhìn những nét nào đẹp nhất của em bé, những nét mạnh mẽ, bụ bẫm, mắt sáng, môi son, chứ không ai nên nhìn vào những chỗ mình không vừa ý cả. Trong thời gian Nguyễn Chí Thiện một mình chiến đấu âm thầm ở trong nhà tù miền Bắc thì Tô Thùy Yên sống giữa cuộc chiến tranh thật ở miền Nam Việt Nam:

“Nhớ xưa thiên địa dấy binh lửa

Xứ xứ rần lên, người giết người...”

Hoặc là:

“Làng đã cháy, im lìm bất trắc...

Người nhớ người mà cũng sợ người.

Trời ơi những xác thây la liệt

Con ai, chồng ai, anh em ai?”

Những câu thơ đó là những suy niệm về chiến tranh, 20, 30 năm sau khi cuộc chiến đã chấm dứt. Cũng như những câu:

“Ðêm trước, đại quân vừa hạ trại.

Chiều nay, lều cháy, xác thây phơi.”

Ðọc hai câu này thì thấy Tô Thùy Yên rất cổ kính, rất Ðường thi, vì chợt nhớ đến những câu thơ cổ như của Ðặng Trần Côn:

“Kim triêu, Hán há Bạch Ðăng thành.

Minh nhật, Hồ khuy Thanh Hải khúc.”

(Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại.

Mai Hồ về Thanh Hải dòm qua.”)

Rồi sau đó:

“Em về giồng dưới qua bưng gió,

Dạ bời bời, nỗi sậy niềm mây”.

Nghe như những lời ca dao mới cho sông Tiền, sông Hậu. Tôi nghĩ những ý đó nhưng nghe lời khuyên của Nguyễn Chí Thiện không nói gì với Tô Thùy Yên. Nếu Ðỗ Phủ sống qua thời đại này với Tô Thùy Yên chắc cũng nhìn thấy cảnh tiếp theo:

“Xa giá càn dân lấy lối chạy.

Trẻ giữa đường đứng khóc một mình.

Sau cùng có người lính chấp kích

Ra trước ngọ môn mà quyên sinh.”

Tô Thùy Yên đã ghi lại những hồi tưởng về chiến tranh. Một phần tư thế kỷ sau khi chiến tranh chấm dứt. Nếu quý vị nghĩ đến làm một cái gì để đánh dấu 30 năm kể từ 1975 thì đọc tập thơ mới của Tô Thùy Yên cũng là một cách. Ðể thắp, tạ. Như thi sĩ viết:

“Thôi, ráng giữ gìn chút nước mắt,

Mai sau nhờ đó nhận ra nhau.

Sẽ mưa, trời sẽ mưa châu ngọc.

Ta sẽ về qua bãi lệ rào.”

Những người Việt Nam dưới lớp tuổi 30, 40 chắc không cảm động vì những lời nhắn gọi “mai sau nhờ đó nhận ra nhau.” Cũng không thể chia sẻ niềm hy vọng bùi ngùi “Sẽ mưa, trời sẽ mưa châu ngọc.”

Thứ Bảy vừa qua Tô Thùy Yên nhận xét rằng nếu trải qua một thế hệ mà dân tộc nào không sản xuất được một tác phẩm văn nghệ đáng kể thì dân tộc đó không còn sức sống. Trong 30 năm qua kể ra người Việt Nam ở khắp 10 phương cũng đã sản xuất được nhiều tác phẩm đáng kể. Trong đó có những bài thơ của Tô Thùy Yên. Sự kiện có hàng trăm người họp mặt với nhau để chào đón một thi sĩ cũng chứng tỏ tiếng Việt Nam và dòng giống Việt Nam còn đầy sức sống. Các thi sĩ có mấy khi nói chuyện với nhau đâu?

Tuần rồi, Nhật Báo New York Times đăng những lời phát biểu của 8 thi sĩ người Mỹ về thơ của nước Mỹ này. Họ đặt câu hỏi là trong 25 năm qua, ông, bà thấy bài thơ nào hoặc tập thơ nào đáng đọc, đáng nhớ nhất đối với chính mình. Có lẽ Tạp Chí Thơ cũng nên tổ chức một diễn đàn để các thi sĩ nói tiếng Việt Nam phát biểu về một câu tương tự. Một dân tộc, một cộng đồng mà không yêu tiếng nói của mình nữa thì chết.

“Nếu như hoa biết chiều nay rụng

Âu cũng vui mà nở sáng nay.”

Ðọc những câu thơ như vậy mà không đem lòng yêu mến tiếng Việt Nam sao được?

Ngô Nhân Dụng

22-11-2004