ký ảnh của Nguyễn Thảo
TTG
CHƯƠNG BỐN
“Mở”: https://www.gio-o.com/TTG/Chương Mở
“Một”: https://www.gio-o.com/TTG/Chương Một
Trên
cả tác phẩm, tôi nghĩ về việc viết lách như một trạng thái bình thường. Đôi khi
có vài người xưa tích cũ hỏi tôi có còn viết không. Câu hỏi thời
xa xưa đã từng làm tôi cười mỉm, còn bây giờ, thì mỉm cười nhưng
nụ cười ấy đã không còn mang theo sự tinh nghịch kiêu ngạo. Nó là nụ cười của
kẻ từng đi qua bao nhiêu vùng mù mờ của ngôn từ, vừa đủ để chứng kiến nhiều
người lấy chữ nghĩa làm mặt nạ, bao kẻ khom lưng trước
cái bóng của chính mình, bao người tự nguyện biến mình thành nô lệ của những gì
họ gọi là sáng tạo, lấy nghệ thuật làm cớ để tự hợp thức hoá
sự thèm khát hiện diện.
Tôi
vẫn trả lời như xưa, viết thì viết, không viết thì không viết. Bởi vì văn
chương – hay bất kỳ hình thức sáng tạo nào – không phải là định mệnh, là sợi
dây thừng chủ nhân buộc tôi phải bước đi trong một lối mòn lặp lại. Tôi là người
duy nhất chịu trách nhiệm cho tự do nội tâm, yếu tố duy nhất quyết định cho tâm
hồn, không bị ràng buộc bởi bất cứ hình thức sáng tạo nào. Tâm hồn không cần phục
vụ cho hệ thống, cơ cấu, thị trường, đám đông, độc giả hay bất kỳ thứ gì gọi là
đời sống nghệ thuật. Nó càng không cần được đóng dấu bởi các danh xưng thường
được người đời trân trọng như nhà văn nhà thơ nhà tư tưởng, hay con mẹ con tiều
gì đó. Danh xưng không làm nên sự sống bên trong. Cái tôi của mấy chục năm về
trước đã hiểu điều đó, nhưng cái tôi bây giờ, từng trải hơn, im lặng hơn, khiêm
cung hơn, thì hiểu thêm là khi sự sáng tạo trở thành bổn phận, nguồn gốc của
sáng tạo đã bị bứng gốc.
Tôi
chưa từng xem văn chương tư tưởng là nghĩa vụ. Tôi không ký giao kèo với ngôn
ngữ. Tôi không xem câu chữ là điều ràng buộc mình phải tiếp tục. Tôi không là
tù nhân của sự sáng tạo tưởng tượng.
Tôi
từng nghĩ nếu mình không còn viết nữa, liệu mình có còn là mình không? Nhưng
rồi tôi nhận ra, cái tôi thật sự không nằm ở hành động viết lách, mà ở khả năng
sống trọn vẹn với mỗi sáng thức dậy biết mình phải và không phải làm gì, và
bây giờ càng tin chắc rằng, nếu sáng tạo không xuất phát từ sự thành thật với
chính mình, thì dù tinh xảo đến đâu, nó cũng chỉ là một bản sao được làm bằng
khuôn mẫu của nỗi sợ hãi bị lãng quên.
Và
quan trọng hơn hết: tôi không xem sáng tạo là điều gì quá đặc biệt.
Cái
cảm giác tự do ấy, tôi học được không phải từ sách vở, mà từ chính những lần
ngồi giữa đám đông, quan sát mọi người vội vã đi qua, mỗi người mang theo một
nỗi bận tâm, một mục tiêu, một khát vọng được công nhận. Có người sống chỉ để
được gọi là nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ v.v.; có người lại sống để chứng minh
mình là abcd gì đó rất khác biệt, và càng cố gắng chứng minh lại càng bị cuốn
vào vòng xoáy của những kỳ vọng từ mình, người khác, xã hội. Sự khác biệt không
thể cố gắng, mà rất đơn giản và dứt khoát: một là có, hai là không. Sự cố gắng
ra vẻ khác biệt chính là sự chối từ bản thân lộ liễu nhất.
Xã
hội hiện đại rất khéo léo, rất tinh vi, thần thánh hóa sáng tạo để chuyên môn
hóa nó. Xã hội mặc định sáng tạo là một đặc quyền của giới nghệ thuật, những
người viết văn, làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc, v.v., là những người có thể sản
xuất ra sản phẩm nghệ thuật tiêu thụ được, đo lường được. Đó là một nhận thức
sai lệch – sai lệch đến mức nguy hiểm – vì nó đánh cắp sáng tạo khỏi tay phần
lớn con người, những người sống một đời bình thường mà vẫn đầy tinh tế sâu lắng.
Sáng tạo không phải là đặc quyền của ai cả. Nó không nằm trong tác phẩm, không
nằm trên giấy, không nằm trong triển lãm tranh ảnh hay sách in hàng chợ, không
nằm ở những ca khúc, không nằm trong những thước phim mà nằm trong từng quyết
định vô thức.
Người
ta gán chữ sáng tạo cho những gì họ cho là vĩ đại, tiểu thuyết, bản nhạc giao
hưởng, tác phẩm hội hoạ, phim ảnh. Họ tôn vinh người làm ra những thứ đó là
người sáng tạo tài năng, nghệ sĩ đại tài, được ca tụng bằng những câu từ mà con
nít vừa sinh ra cũng phải khóc thét trước khi bị bà mụ vỗ mông, mà ngay cả những
người sáng tạo tự trọng lúc đang hấp hối, chuẩn bị khâm liệm, cũng phải nhỏm dậy
thất thanh, có chết cũng không nhận.
Còn
phần lớn những con người âm thầm sống ngoài ánh đèn sân khấu cuộc đời, thì bị
đặt ra ngoài vùng sáng tạo, gọi họ là những người bình thường.
Tôi
không tin vào sự phân loại đó, từ chối hoàn toàn, tuyệt đối phủ nhận.
Người
đầu bếp nêm nếm bằng trực giác. Người mẹ dỗ con bằng một bài hát tự nghĩ ra.
Người tài xế lách nhẹ vô lăng để tránh ổ gà mà không làm tỉnh giấc đứa bé đang
ngủ phía sau. Người kinh doanh thực hiện giải pháp chưa ai từng nghĩ ra. Nhà
chính trị biết nói một lời thật lòng giữa một biển từ ngữ giả tạo. Một con chó
khe khẻ đùa chơi với con mèo. Một người con gái len lén ngoại tình bằng mắt.
Một thằng đàn ông bỏ chạy mất dép sau khi tỏ tình. Tất cả, nếu phản ứng bằng sự
vô thức, bằng tình yêu, bằng sự dấn thân trọn vẹn, đều là nhà sáng tạo. Sáng tạo
là một dạng ý thức tự nhiên, đôi khi âm thầm, thô ráp, không hình thức, không
mang tính biểu diễn. Không cần đặt tên, vì chính việc phải đặt tên đã làm méo
mó bản chất của sáng tạo.
Chúng
ta cần phải phá vỡ quan niệm cũ rằng sáng tạo là sản sinh ra tác phẩm nghệ
thuật. Sự sáng tạo đích thực không cần được lưu trữ, không cần được phát hành,
không cần được đặt tên. Nó là một cách đối thoại, khả năng tiếp xúc trực tiếp
với đời sống mà không thông qua thói quen, lối mòn hay mục tiêu, xảy ra ở mọi
nơi, mọi lúc, bởi bất kỳ ai. Sống một cuộc đời cho ra con người cũng là sự sáng
tạo mà sống một cuộc đời không ra con người cũng là sự sáng tạo.
Những
người tự nhận là nhà sáng tạo, cống hiến cho văn học nghệ thuật, thường ngụy ngữ
những khái niệm mơ hồ mà tưởng như cao quý đó, thành một cỗ máy sản xuất chữ
nghĩa, hình ảnh, âm thanh. Họ mang trong mình một sứ mệnh tưởng tượng phải liên
tục tạo ra sản phẩm tinh thần, ép bản thân cập nhật, hiện diện, chạy theo kết
quả, biến mình thành phiên bản của những gì đã đạt được, liên tục đẻ ra chữ
nghĩa, quẹt thêm sắc màu, nhấn thêm nốt nhạc, như kẻ mắc nợ không lối thoát. Họ
không còn sáng tạo ra cái đẹp mà chỉ tái chế những gì từng đẹp, và trong quá
trình đó, chính họ bị tiêu hao dần như một bức tượng bị mòn đi theo từng cái chạm
tay suồng sả của đám đông. Họ chạy theo tiến độ, phản hồi, kỳ vọng; viết, vẽ,
sáng tác như người đẩy xe lên dốc, mỗi câu, mỗi nét đều nặng nhọc, tôn thờ đó
là lao động nghệ thuật. Nghệ thuật trở thành công cụ, bộ máy phải hoạt động
liên tục để cung ứng sản phẩm ra thị trường tâm lý độc giả, biến cảm xúc thành
hàng hóa, trải nghiệm thành đơn vị tính theo lượt tương tác, biến những gì
riêng tư thành công cụ gây ấn tượng. Họ cày bừa trong ngôn ngữ như thể nếu
không đẻ ra được cái gì thì sẽ trở nên vô nghĩa. Nhưng nghệ thuật không phải thứ
có thể ép ra theo hạn định; nó không sinh ra từ ý chí, mà từ một trạng thái
thăng bằng mong manh giữa vô thức và ý thức. Dù sản phẩm ấy được hoan nghênh,
treo trên tường hay in ra sách, nó cũng không còn mang sự sống nguyên bản mà chỉ
còn là tính năng. Nghệ thuật khi mất đi tính sáng tạo thì trở thành sản phẩm
tiêu dùng, và người làm ra nó chỉ còn là nhà cung ứng, nghệ công tinh thần.
Nghệ
thuật không bao giờ sinh ra từ áp lực. Nghệ thuật không phải là một sản phẩm được
làm ra theo dây chuyền. Nó là một sự bộc phát tự nhiên, một nhu cầu nội tại, giống
như việc hít thở, ăn uống, đi chơi, đi mần. Nghệ thuật là điểm mấu chốt duy nhất
của tâm hồn giúp cho con người không bị đồng hoá và thêm phần phong phú. Còn
nghệ thuật nhai lại, giả nghệ thuật, thì lại làm cho tâm hồn con người nghèo
nàn và mê muội. Khi nghệ thuật không còn là sự khai sinh mà trở thành nghĩa vụ,
người ta đánh mất cái đẹp chân thiện mỹ ban đầu. Sự sáng tạo, lúc ấy, không còn
mang theo cảm hứng mà chỉ để lại tiếng thở dài thế hệ.
Nghệ
thuật, nếu đúng nghĩa, là điều bộc phát, đến bất chợt khi tâm trí buông lỏng
không còn mục tiêu, nhu cầu chứng minh. Còn cái mà họ đang gọi là nghệ thuật,
cái có chủ đích, chiến lược thì nó không còn là sáng tạo nữa mà là sự phản bội
lại tính ngẫu nhiên và lấp lánh vốn có của cái đẹp. Nghệ thuật đích thực giúp
con người không điên loạn trong thế giới rối loạn này; còn nghệ thuật giả tạo
thì làm cho tâm hồn trở nên bạc nhược, rỗng rễnh và cuối cùng là mê sảng trong
ảo tưởng thành tựu.
Điều
sai lầm nhất của những con người trong xã hội hiện đại là họ biến sáng tạo
thành một ngành nghề đặc biệt. Họ dạy người ta cách sáng tạo. Họ tổ chức hội thảo,
khóa học, lộ trình để duy trì sự sáng tạo trong mọi môi trường. Họ biến sáng tạo
thành kỹ năng, thành nội dung trình chiếu biễu diễn. Và từ đó, họ giết chết bản
chất tự do của nó. Khi sáng tạo bị kéo vào để định lượng hóa theo hiệu suất,
ràng buộc bởi chiến lược và định hướng thị trường, thì nó là tối ưu hóa, là cải
tiến hoá, là phản ứng hoá của sản phẩm gượng ép nhưng không còn là ý tưởng bật thoát
từ bên trong con người đang sống đúng với bản thể của mình.
Tôi
không chống lại kỹ năng hoặc quy trình, nhưng tôi chống lại sự đồng hoá. Việc một
người có thể viết ra một cuốn sách hấp dẫn, làm một bài thơ mỹ miều, hoặc bất cứ
sản phẩm trí tuệ ra vẻ chiều sâu, không có nghĩa người đó đang sáng tạo theo
nghĩa mà tôi nói. Đó là kỹ thuật, sự hiểu biết về hành vi thị trường, là kinh
nghiệm kết hợp với công cụ. Không có gì sai nhưng cũng không nên gọi đó là sáng
tạo, vì nếu con mẹ gì cũng đều là sáng tạo, thì chẳng còn gì là sáng tạo cả.
Sáng
tạo, ở tầng sâu nhất, là khả năng vượt qua phản ứng có điều kiện, dám dừng lại
một tích tắc để không làm theo điều mà lẽ ra ai cũng sẽ làm, không chọn theo
lối mòn, kể cả trong suy nghĩ. Là không nắm lấy thứ gì chỉ vì nó an toàn, hợp
lý, hay được xã hội xác nhận. Những thứ đó không cần tài năng, chỉ cần thói
quen nhưng sáng tạo thì không thể sống nhờ thói quen mà phải được sinh ra từ
một nơi chưa từng định nghĩa. Sáng tạo không cần được lưu trữ, không cần phát
hành, không cần được gì hết. Đó là một cách hiện diện của tâm hồn, khả năng
tiếp xúc trực tiếp với đời sống, bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, bất kỳ ai.
Tôi
càng không tin vào tư duy sáng tạo như một mệnh lệnh. Sáng tạo không đến từ tư
duy. Nó đến từ sự sống, tri thức, sự suy nghĩ, sự chiêm nghiệm, và nó đàng
hoàng bước ra một cách rất tự nhiên. Một người sống đủ sâu trong vực thẳm sẽ có
lúc nói ra điều không ai nghĩ đến, làm điều chưa từng được thử. Còn người chỉ học
kỹ năng để sáng tạo thì sẽ mãi đứng ngoài sự sáng tạo.
Xưa
tôi đã nhìn thấy những kẻ nô lệ của danh vọng. Nay tôi thấy những kẻ nô lệ của
những lượt xem, lượt thích, lượt chia sẻ. Họ tự nguyện dâng hiến tự do của mình
cho những con số ảo, cho những tiếng vỗ tay rỗng xương. Họ không hiểu rằng sự
sáng tạo đích thực không nằm trong những con số đó, mà nằm trong hơi thở của tự
do.
Tôi
thấy những người viết để được đọc, nói để được nghe, làm để được nhớ; những
người sống vì ánh đèn giữa ban ngày, những lời tung hô xưng tụng bán buôn tâm
hồn. Họ bị cuốn vào trò chơi của đám đông. Họ điều chỉnh bản thân theo số liệu,
theo phản ứng, theo xu hướng trong việc duy trì hình ảnh. Và chính những người
tưởng như thành công nhất –nhà văn, nghệ sĩ, người truyền cảm hứng, những người
của công chúng– khi đêm xuống, hoặc những lúc hiếm hoi, nếu họ đủ dũng cảm dù
chỉ trong vài giây để đối diện với họ, bản thể trần trụi, không một ai, không
ngoại vật thì họ sẽ thấy tất cả hào quang mà họ nghĩ mình sở hữu -đến từ đám
đông không có thật, đám đông luôn cần một thần tượng mới, đám đông rình chờ
những tác phẩm mới để phán xét, đám đông có thể tung hô hôm nay và xỉ vả ngày
mai.
Đám
đông đó không trung thành, không hiểu họ, không nhớ họ, không quan tâm họ. Đám
đông đó chỉ cần hình mẫu kế tiếp. Đám đông đó chỉ quan tâm đến vai mà họ đang
đóng, và nếu ngày mai có một diễn viên khác đóng tốt hơn vai đó, đám đông sẽ
quay ngoắt mà không hề ngoái đầu lại. Lúc xảy ra, nếu họ không bị hoảng loạn
thì có thể họ sẽ hiểu được điều quan trọng nhất, rằng họ chỉ sống để tạo ra một
hình ảnh tồn tại cho những bóng dáng mờ ảo. Đó là điều mệt mỏi nhất: phải bảo
vệ một thứ không có thật. Nếu họ sống để phục vụ nó, họ sẽ phải tái tạo bản
thân mãi mãi, cho đến khi cạn sạch tâm hồn. Bản thân chỉ tiến hoá không thể tái
tạo. Tâm hồn chỉ khô cằn nếu không được tiến hoá.
Không
phải vì họ sai mà vì họ thiếu một điều mà tất cả danh vọng quyền lực tiền bạc không
thể lấp đầy: sự trung thực và an nhiên với chính mình.
Và
nếu bạn chỉ sống vì đám đông đó, bạn sẽ phải thay hình đổi dạng không ngừng để
không bị vứt ra ngoài như một món đồ cũ.
Tôi
hiểu, rất hiểu. Vì tôi cũng đã từng là một thành phần trong họ.
Tôi
đã đi qua đoạn đường đó. Không miễn nhiễm. Đã từng viết để ai đó đọc, nói để ai
đó nghe. Đã từng hồi hộp chờ người khác hiểu mình. Đã từng hảnh diện khi được
ca tụng lúc đứng trên diễn đàn. Đã từng cảm nhận mình có ý nghĩa khi được nhắc
tên nhưng sau cùng tôi thấy trong lòng vẫn có một khoảng trống mà không một lời
khen nào lấp được. Tôi nhận ra mình phải trả lại mọi vai trò mà người khác muốn
tôi đóng. Phải cắt đứt những kỳ vọng vô hình từ người khác luôn cả từ chính
mình. Phải chấm dứt ngay lập tức vai trò tự mình tạo ra cho mình. Phải im lặng,
không phải để chờ đợi một điều gì xuất hiện, mà để thấy rõ, ngay cả khi không
có gì, tôi vẫn bình thường với tôi. Trong những khoảnh khắc ấy, tôi không nghĩ
về sáng tác, không nghĩ về thành tựu, không nghĩ về những gì đã qua hay sẽ đến
mà nhận ra rằng sự sáng tạo lớn nhất là giữ được cho mình một vùng yên tĩnh, là
phải chấp nhận một sự thật hiển nhiên, là kỳ vọng, ảo tưởng đều không có thật
nhưng sự lãng quên là có thật, không thể níu kéo để tự mình hiện hữu.
Khi
tôi nhắm mắt nhìn nắng trườn qua mặt bàn ở quán cà phê vỉa hè, gỏ muỗng tụng
kinh vào thành ly, xé vụn giấy thành bột mì, nghe tiếng xe ngoài phố, tiếng rì
rầm của những người xa lạ. Tôi chỉ lắng nghe, cảm nhận và nhận ra chính những lúc
không bị ràng buộc bởi mục tiêu sáng tạo lại là nguồn mạch sâu nhất của mọi cảm
hứng, âm thầm bền bỉ, như một lớp trầm tích nuôi dưỡng mọi ý nghĩ, mọi xúc cảm.
Tôi
không cầu mong cảm hứng, không mời gọi nghệ thuật đến, không áp đặt tâm trí
phải sản sinh ra ý tưởng. Nếu điều gì đến thì đến. Nếu không đến, cũng không
thiếu. Khi sống trong sự đủ đầy của cái không chờ đợi, thì cũng là một hình
thức sáng tạo hoàn toàn không có hình thức.
Và
cũng phải nói thật rằng, tôi chưa bao giờ tin vào khái niệm cống hiến cho nghệ
thuật. Cống hiến cho nghệ thuật nghe ra có vẻ cao cả, nhưng thực chất nó thường
là một cách nói khác cho việc người ta buộc mình phải gánh một vai trò, một
hình tượng, một ảo vọng của xã hội, của chính bản ngã đang đói khát được tồn tại
trong mắt người khác, nhưng nếu nghĩ kỹ hơn là tự mình buộc cái gông cùm vô
hình, vì thật sự chẳng ai mong đợi sự cống hiến gì từ mình. Nếu
sống lệ thuộc trong áp lực phải sáng tạo ra điều gì đó đẹp, nhất là sản phẩm
trừu tượng, nó cũng là kết quả của một sự bất ổn. Nghệ thuật không cần được
phục vụ, chỉ cần một điều, là phải trung thực phải sự suy nghĩ cá nhân. Và
nếu trong đời sống ấy có một khoảnh khắc đẹp, có một suy nghĩ rung lên thành chữ,
có một câm lặng trở thành ngôn ngữ thì đó là một món quà nhưng là món quà của
cuộc đời, chứ không phải của bất cứ ai.
Ngày
xưa tôi đã viết, “Có bút thì viết, không có bút thì đi chơi.” Đó không phải là
tuyên ngôn ngạo mạn tuổi trẻ, mà là triết lý sống. Không có gì để viết thì đi
chơi, đơn giản vô cùng, nhưng vừa đi, vừa nghĩ, và vừa viết trong đầu. Những
con đường đi qua, những gương mặt nhìn thấy, những hạt mồ hôi cảm nhận là những
trang sách sống động huy hoàng nhất, bởi vì cuộc đời này là
một bản thảo vĩnh viễn chưa hoàn tất với sự chuyển động không ngừng để tạo nên
kiệt tác đó.
Tôi
viết không phải để mong chờ bất cứ gì, hoặc nói theo kiểu buồn buồn chém gió gặt
bão, là viết vì giòng sông tư tưởng chảy trong từng mạch máu quê hương rền rỉ,
hoặc vì cơn gió bất chợt thổi qua sa mạc đại dương mang theo một ý niệm cải
lương nào đó. Những lúc đó, tôi không ghi chép, không lên ý tưởng, không cần
ghi nhớ nhưng chính những lúc đó mới là gốc rễ của sáng tạo, không phải hành
động, không cần giữ lại vì những gì đáng nhớ thì sẽ không mất, mà nếu có mất
thì cũng xứng đáng.
Tôi
từng nghĩ sáng tạo là một nhu cầu nhưng thật sự sáng tạo là một hệ quả của sự
mơ hồ. Khi một người sống trung thực, không đóng vai, không nương theo phải
trái, thì sáng tạo là điều tự nhiên sẽ xảy ra. Còn khi sáng tạo trở thành một
một mục tiêu thì sớm muộn gì, người đó cũng sẽ kiệt sức cho chuyện tào lao
thiên địa.
Sáng
tạo, nếu cần phải định nghĩa, là khả năng suy nghĩ và hành động lạ lẩm mà không
cần được khen. Là khả năng nghĩ khác mà không cần gây ấn tượng, khả năng làm
một việc nhỏ dù không ai nhìn thấy. Là khả năng chọn không làm gì cả, mà vẫn
không thấy thiếu. Không ai dạy được điều đó, không khóa học nào cung cấp được
điều đó và không ai có thể sống hộ điều đó cho ai.
Vì vậy
nếu có ai nghiêm túc hỏi tôi còn sáng tạo không (là câu hỏi xứng đáng bị chửi
nhất trong cuộc đời này), tôi chỉ cung kính trả lời lể phép là tôi đeo biết.
Nếu trong đời sống có một hành động nào được ai xem là sáng tạo, thì tốt. Nếu
không, cũng tốt. Và nếu trong quá trình đó, điều gì hình thành chữ nghĩa ý
tưởng hình ảnh âm thanh, thì nó sẽ tự biết cách để ra đời, không cần thúc ép. Ai
thích là chuyện của họ, khen thì họ nghe, rồi kể lại cho tôi; ai không thích
thì chuyện của họ, chê thì họ đm ráng mà nghe với nhau, đừng kể lại cho tôi.
Tôi
không viết để có dấu ấn (đã ân ấn rồi), để được nhớ đến (có nhơ nhớ rồi). Nếu
có điều gì tôi để lại thì đó là trạng thái tinh thần rằng một người có thể sống
tự do giữa những ràng buộc, sáng tạo mà không cần sản phẩm, hiện diện trên sân
khấu trò đời mà không cần khán giả. Đó là điều quan trọng hơn bất kỳ cuốn sách
nào đã được viết.
Nếu mai
này mọi thứ tôi viết ra bị xoá sạch (tôi đã xoá rồi), tôi cũng không quan tâm vì
giá trị không nằm ở sản phẩm, mà nằm ở cái chớp mắt khi viết. Cái đẹp thật sự,
đôi khi, chỉ cần được một mình mình biết dù rằng hai chữ mình mình tưởng là hai
chữ nhưng khi nằm lên nhau cũng chỉ là một mình. Như khi nhìn thấy một chiếc lá
rơi đúng cách. Một ánh hoàng hôn gãy giữa hai tầng mây. Một ánh mắt người xa lạ
khiến trái tim trật nhịp. Những cuộc trò chuyện tồn tại trong hơi thở. Những
bài thơ không bao giờ được ghi xuống. Những bản nhạc không bao giờ cần được
biểu diễn. Những tấm tranh bơ vơ trong góc phòng. Không phải vì chúng không đủ
giá trị mà vì giá trị của chúng không nằm ở chỗ được ngưởng mộ.
Tôi
không viết để tạo tiếng vang nồi chảo, mà viết để nghe rõ hơn tiếng động nhỏ bé
trong tâm hồn mình. Khi tất cả đã im lặng, không còn sự quan sát nào, mới biết
viết vì cái gì, và nếu lý do ấy không khiến mình nhẹ lòng, thì có lẽ đã trôi
lạc.
Tôi đã
từng đi lạc. Cũng từng bị cuốn theo vài làn sóng tưởng chừng như cao đẹp, từng
để lòng bị chao đảo, từng để dạ nặng trĩu bởi sự mong đợi của người khác. Nhưng
rất may tôi vẫn còn giữ được một điểm mốc: sự trung thực với chính mình. Cái
cảm giác rất mong manh nhưng rõ ràng khi biết mình đang sống lệch khỏi trục, dù
rằng tác phẩm có được đón nhận nhưng sâu trong lòng lại thấy chênh vênh. Và từ
đó, tôi không viết vì cần phải viết, không tiếp tục vì phải tiếp tục mà tôi để
cho mọi thứ đến nếu nó đến. Tôi để nó đi qua cuộc đời như gió thổi qua vai. Nếu
gió muốn ở lại, nó sẽ ở lại. Nếu gió đi, tôi vẫn lang thang đâu đó, mơ mơ theo
các hình bóng xanh đỏ, màng màng kéo vài hơi thuốc cho ra vẻ nghệ sĩ suy tư cuộc
đời cho bằng anh bằng em.
Tôi
nghĩ, sống như vậy, cũng đủ; chơi như vậy, cũng được.
Và
có lẽ điều quan trọng nhất tôi học được sau bao nhiêu năm viết và ngừng viết,
là không có gì quý giá hơn tự do nội tâm. Tự do ấy không đến từ việc được làm
điều mình thích, mà từ việc không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều gì, kể cả những
thứ mình từng yêu quý nhất. Khi không còn sợ mất, không còn sợ bị quên lãng,
không còn sợ không ai biết đến, thì mọi hành động, mọi sáng tạo, mọi hiện diện
đều trở nên nhẹ nhàng tự nhiên như hơi thở, bởi vì trên cả tác phẩm, trên cả
những gì có thể giữ lại, cuối cùng chỉ là trạng thái tự do tuyệt đối.
Tôi
không còn bận tâm để chứng minh gì, càng không còn muốn trở thành gì gì của gì
gì. Đã có và đã vứt sau lưng. Sống vì bị sống. Nếu trong đời sống ấy có thứ gì
trồi lên thành chữ nghĩa thì viết. Nếu không thì để nó trôi qua. Không lưu luyến
khoe khoang hù doạ. À, thì cũng có, nhưng kiểu chọc chọc cho vui vui, cho oai
oai, kiểu không có chuyện gì chán chán hơn trên đời để làm làm. Cái đẹp nhất là
cái đẹp không cần chứng minh và tự do nhất là khi ta không cần được ai công
nhận, kể cả chính mình. Tôi nghĩ sâu hơn nữa thì chợt nhận ra rằng cả bao nhiêu
năm nay, tôi tưởng tôi là kẻ khiêm nhường nhún nhẩy nhưng thật sự lại cao ngạo
cùng cực, kiêu ngạo đến mức khinh rẻ cả thành tựu quá khứ của chính tôi, không
chấp nhận cả cái đầu xưa có tóc nay bớt tóc.
Tôi
là kẻ sáng đầu đường trưa xó chợ tối lăng nhăng vì tình yêu với cuộc đời. Tôi
chưa bao giờ mong trở thành bất cứ ai, kể cả tôi, tôi chỉ muốn là đứa được ất ơ
u oài băn khoăn trong thế giới của những câu hỏi, chứ không phải đứa tào lao xịt
bột ngạo mạn trong thế giới của những câu trả lời.
Nếu
bạn muốn sống một cuộc đời tiêu dao, bạn nên luôn luôn nhớ như vậy!
À còn nữa chứ, là bạn phải hiểu và chấp nhận là đời sống có muôn sắc màu nên bạn cần phải có nhiều mặt nạ tương xứng. Nếu bạn dũng cảm hơn thì chẳng cần màu sắc nào thì mặt nạ đó, nồi này thì vung kia, mà thích màu nào thì đeo mặt nạ đó, bất cần a la ton sur ton. Giả vờ sáng tạo cũng rất hay, giả vờ nhà văn nhà thơ triết gia nghệ sĩ bán vé số chạy xe ôm lao công đường phố lốc cốc mì gỏ cũng tốt, chỉ cần thành thật với sự giả tạo, vì nếu bạn đủ nội công thì sự giả tạo sáng tạo cũng là hình thức sáng tạo, còn giả vờ sáng tạo thì vất đi. Còn nếu nội công của bạn lên tầm cao mới, thượng thư ngự sử, võ lâm ngủ bá don quixote, sư tử sisyphus thì nhớ dẹp mấy các mặt nạ trò đời tấn kịch Balzac lúc bạn trăm phần trăm dh lawrence với chính bạn -và với những người cũng không đeo mặt nạ. Khi bạn khiêu vũ một mình với chiếc mặt nạ thì đời sống thật sự rất buồn tẻ. Nên nhẹ nhàng thơ mộng với mọi thứ trong cuộc đời, ngay cả phê bình chỉ trích ói mửa chửi mắng đâm thuê chém mướn cũng phải nhẹ nhàng vì ngày mai chưa chắc sẽ thơ mộng với bạn.
TTG
(trích Chương Bốn, tác phẩm “MỞ” của TTG)
Đọc “Mở” tại đây: https://www.gio-o.com/TTG/Chương Mở
Đọc “Chương Một” tại đây: https://www.gio-o.com/TTG/Chương Một