Phan Thanh Tâm

Phạm Quỳnh &

Nam Phong Tạp Chí

 

                                                                                                                                     Tôn trọng Sự Thật  

                                                                             Thực thi Công Bằng, Công Lư mới tạo được Đoàn kết.*

 

bị Cọng sản Việt Nam (CSVN) giết bằng cuốc xẻng; thây bị vùi dập dưới mương tại một nơi hẻo lánh bên bờ sông Bồ của miền Trung vào một đêm trăng lưỡi liềm đầu thu năm 1945, nhưng danh tiếng Phạm Quỳnh vẫn không hề tuyệt tích. Nam Phong Tạp Chí, một kho tàng văn học, nghệ thuật mà ông là linh hồn, đă vượt không gian thời gian, chiếm môt vị trí đáng kể trong văn học sử, được Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) cho giảng dạy bậc Trung Học từ thập niên 60; gần đây c̣n được đưa vào thế giới ảo điện toán. Viện Việt Học California đă giới thiệu công tŕnh chuyển 210 số báo gồm 35,000 trang chữ từ 1917 đến 1934 vào bộ DVD-Rom, tại các địa điểm có đông người Việt cư ngụ. Và có vẻ không c̣n ngăn được gió lành phương Nam thổi về, sau nhiều thập niên bị kết tội là bồi bút, đại Việt gian phản quốc, một số tác phẩm của nhân vật này đă thấy Hà nội cho lưu hành ở Việt Nam.

Để hoàn thành dự án DVD-ROM Nam Phong Tạp Chí (NPTC), hơn 50 thiện nguyện viên phần lớn thuộc giới trẻ đă phải mất sáu năm cùng nhau làm việc. Cái khó đầu tiên, ngoài chuyện tiền đâu c̣n phải t́m cho ra 3,500 trang thiếu hụt, hoặc phai mờ v́ thời gian hay mục nát v́ mối ăn. Gia đ́nh Phạm Quỳnh đă biếu tặng Viện Việt Học trọn “gia tài” nhưng v́ trải qua bao bể dâu chỉ c̣n giữ có 186 số. Các thư viện đại học như UCLA, UC-Berkeley, Washington (Seattle), Cornell.cũng không có đủ. Ngoài ra, c̣n phải kể công tác chuyển các trang vào DVD để thực hiện E-BOOK. Mỗi trang E-BOOK mất 45 phút.Tổng số 35,000 trang cần 26,250 giờ. Giáo sư Đàm Trung Pháp, một diễn giả trong buổi giới thiệu ở Houston hồi tháng 11/09 cho biết số thời gian này tương đương với lao tác của ba chuyên viên giỏi làm việc 8 giờ mỗi ngày liên tục trong 3 năm rưỡi. Trong DVD ghi gia đ́nh Phạm Tuân-Hỹ Nguyên góp 12,000; Cô Nguyễn thị Kim Ngân 8,500; cô Nguyễn thị Mai Khôi 300 và bác sĩ Hà Nguyên Huỳnh 200 mỹ kim...

Ban thực hiện dự án gồm Nguyễn Minh Lân, Nguyễn Tuấn Khanh, Nguyễn Chí Thông, Châu Hữu Hiền; các chuyên viên điện toán; các vị trong ban t́m tài liệu, ban tŕnh bầy. Với bộ DVD-ROM tốn khoản 40,000 mỹ kim, học-thuật VN hải-ngoại đă có một đóng góp đáng kể. Nhạc-sĩ Phạm Tuân, con út nhà văn hóa, tại buổi giới thiệu ở Washington DC tháng 10/09 nói rằng, một giấc mơ của họ Phạm đă thành. Nay không c̣n cần phải bênh vực cho thân phụ ông nữa, v́ Nam Phong là Phạm Quỳnh và Phạm Quỳnh là Nam Phong. Trước đây, Phạm Tuân trong bài ghi lại Cái Chết Đầy Oan Khiên, Bi Thảm Của Cha Tôi, đă khẳng định rằng, Phạm Quỳnh là người đầu tiên chính thức công bố Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Tân Quốc Gia Việt Nam chấm dứt 80 năm nô lệ Pháp; c̣n bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện năm tháng sau đó.

Bài viết của Phạm Tuân c̣n cho biết, Phạm Quỳnh thường tâm sự, thố lộ với người anh lớn về nỗi băn khoăn duy nhất trước hiện t́nh đất nước: Hồ Chí Minh là ai? (Họ Hồ lấy tên này từ 13/8/1942). Nếu như ông ta không phải là Nguyễn Ái Quốc th́ hay quá, th́ là đại phúc cho dân tộc ta. Năm 1922 tại thủ đô Paris, thầy tôi đă gặp và biết Nguyễn Ái Quốc tường tận lắm. Hai người đă họp mặt với nhau hai, ba lần cùng với các ông Phan văn Trường, Nguyễn thế Truyền tại căn nhà số 6 Villa des Gobelins.Thầy tôi nhận biết rơ ông này là đảng viên của Đảng Cọng Sản Pháp lúc bấy giờ. Thắc mắc ấy là một lo âu canh cánh trong ḷng thầy tôi.Theo Phạm Tuân, trong thời gian Nhà Vua Bảo Đại thoái vị, Mặt trận Việt Minh lên năm chính quyền, thầy tôi đă lui về điền viên dưới mái ấm gia đ́nh, từ nay mới thực sự được sống những ngày tương đối thảnh thơi, nhàn nhă giữa vợ con cháu chắt thân thương.

 

Dấu giếm tội ác

Vẫn theo Phạm Tuân, đứng trước thực tế lịch sử, cho ta thấy,”Bác và Đảng” hoàn toàn vắng mặt, khởi thủy không có một chút công lao nào trong công cuộc giành lại độc lập cho Việt Nam trực tiếp từ chế độ thực dân Pháp cả!! Tất cả mọi sự việc diễn ra sau đấy là một cuộc xung đột, thanh toán, sát hại đầy mưu mô lường gạt thâm độc giữa nội bộ chính t́nh Việt Nam không hơn không kém. Phạm Tuân cũng đă ghi lại cuộc t́m hài cốt thân phụ ở miền Trung tháng hai năm 1956, và buổi trưa hè oi nồng lúc Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế ngày 23/8/1945 cùng lời của các chứng nhân nói về cái đêm trăng non nạn nhân bị đánh vào đầu bằng xẻn cuốc, bị bắn bồi thêm trước khi xô xuống mương lấp chôn chung với Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Huân ngày 2/9/4, dưới sự chỉ huy của Hoàng Anh, Chủ Tịch Uy Ban Cách Mạng Thừa Thiên. Phạm Tuân kể lại, ông Hồ sau khi nghe Phạm Quỳnh bị cách mạng xử lư đă nói: dạo ấy tôi chưa về và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội, có thể có nhiều sai sót đáng tiếc.

Bộ DVD-ROM bảo tồn các tà́ liệu văn hóa nên có thêm bài viết của người con út để các thế hệ sau biết đời của nhân vật chủ chốt trong Nam Phong Tạp Chí đă kết thúc như thế nào, qua chính lời con ḿnh kể. Đề nghị Viện Việt Học in và đính kèm khi phổ biến bộ này. Phải giữ lại chứng liệu lịch sử, v́ như nhà văn Nguyễn Quốc Trụ viết, Những người Cộng sản rất khôn khéo trong việc giấu diếm những tội ác của họ. Và càng giỏi hơn, khi chối tội, khi không dám nhận ai là tác giả những tội ác đó. Khi chiến tranh chấm dứt, họ dễ dàng có được những "Viện Bảo Tàng, Nhà Trưng Bầy Tội Ác Mỹ Ngụy", phần lớn h́nh ảnh, tài liệu là do báo chí, giới truyền thông Tây Phương cung cấp. Nhưng thật khó mà kiếm ra, và chắc là vô phương có được những h́nh ảnh về cảnh giết người hàng loạt, trong biến cố Mậu Thân tại Huế chẳng hạn, khi người Cộng Sản phải bỏ chạy

Nhắc tới Phạm Tuyên, tác giả bải “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng”, Phạm Tuân nói, anh đường anh, tôi đường tôi, t́nh nghĩa anh em vẫn tốt thôi. Đúng là bi kịch Việt Nam. V́ đâu nên nỗi? Em góp công, của vào việc dựng lại sự nghiệp ông cha; anh ca ngợi họ Hồ. Bao nhiêu gia đ́nh lâm cảnh oái ăm này? Phạm Tuyên sống theo lời dặn của Hồ Chí Minh: Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng. Hai người chị Phạm thị Giá, Phạm thị Thức nói với Phạm Tuyên như vậy sau khi hai bà gặp họ Hồ để hỏi về vụ chủ bút Nam Phong bị sát hại. Trong lời phát biểu nhân dịp Trung Tâm Văn Hóa–Ngôn Ngữ Đông Tây và nhà xuất bản Tri Thức giới thiệu bản dịch “Tiểu luận Phạm Quỳnh” bằng tiếng Pháp từ 1922 – 1932, tháng 11/07 ở Hà nội, nhạc sĩ Tuyên cho hay từ những năm cuối của thế kỷ trước đă có nhiều bài viết và sách của học giả được phổ biến. Nhưng ông nói, tôi chỉ được biết sau khi sách được phát hành, thậm chí c̣n được nhận cả nhuận bút. 

Ngoài ra, người biên tập và giới thiệu tập tiểu luận, nhà văn Phạm Toàn, đă công nhận rằng, đọc Phạm Quỳnh cả bằng tiếng Việt cả bằng tiếng Pháp, cái ấn tượng đầu tiên sau đó c̣n tiếp tục đeo đuổi ta, ấy không phải khâm phục chiều sâu bác học và tầm cao ái quốc của tác giả. Ấn tượng lớn hơn nữa, c̣n đáng yêu hơn nhiều, c̣n quyến rũ ta vô cùng, ấy là ḷng yêu cái đẹp của bậc chí sĩ đó. Phạm Toàn c̣n nhận xét, cả một đời Phạm Quỳnh, là một đời không ngừng hoạt động thực tiễn và lư thuyết để thức tỉnh và nâng cao dân trí. Những hoạt động trong phạm vi hội Khai Trí tiên đức, trong các trang báo Nam Phong, đều muốn lấy đó làm một làn gió mới của phương Nam nâng cao dân trí và đạo đức của dân tộc này. Cũng theo người biên tập bản dịch tập tiểu luận, Phạm Quỳnh là người ư thức rơ, dân nước Nam có đời sống giản dị nhưng tâm linh th́ mang đầy những giá trị văn hóa. Nhà văn này c̣n cho rằng những lời của họ Phạm viết vẫn thấy nó đương đại với chúng ta hôm nay 

 

Trí tuệ uyên thâm

Phụ trách dịch “Việt Nam - Ở Giữa Giao Điểm Của Các Nền Văn Minh”, khi trả lời phỏng vấn của Nguyễn Hoàng Diệu Thủy trong báo Người Hà nội ngày 21/12/07 nhà văn Nguyễn Ngọc nói, tiểu luận tiếng Pháp của Phạm Quỳnh là một thứ văn cực kỳ sang trọng, sáng sủa. Các tiểu luận này, cùng với những trước tác bằng tiếng Việt đă đặt ra những vấn đề bao quát về dân tộc, văn hóa, về sự va chạm giữa hiện đại và quá khứ, giữa phương Đông và phương Tây.Từ đó ông t́m con đường cho sự phát triển Việt Nam. Những vấn đề ông đặt ra đến nay vẫn rất thời sự.Theo Nguyễn Ngọc, Phạm Quỳnh thuộc lớp người khổng lồ, trí tuệ uyên thâm; hiểu sâu sắc văn hóa phương Đông; tự học mà chiếm lĩnh văn hóa phương Tây rất cơ bản. Nguyễn Ngọc c̣n cho rằng, tôi thấy rơ ràng Phạm Quỳnh là một nhân cách văn hóa lớn, một người hết sức tha thiết yêu dân tộc, ưu tư cho sự phát triển của dân tộc. Và cuốn sách phát hành hàm chứa trả lại sự công bằng.

Trong bài “Đọc Phạm Quỳnh tiểu luận”, tác giả Tâm Hiếu đă viết, sau khi đọc nó, việc cần làm gấp là mua cho con cháu ḿnh, để qua cuốn này mà hiểu được hồn văn hóa Việt. Càng đọc ông, càng thấy gương ông sáng ra, ḷng kính trọng ông mỗi ngày một tăng, khiến nhiều người ngỡ ngàng. Tâm Hiếu cho rằng, Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp không phải để phổ biến cho tầng lớp b́nh dân của xă hội Việt Nam mà để truyền, để dạy văn hóa của chúng ta cho những người Pháp đang tự coi, tự phong là mẫu quốc, là bề trên.Tác giả bài báo, đăng trong “ Khoa Học & Tổ Quốc “ tháng 1/08 c̣n viết, trong những người trí thức t́m đường đi cho dân tộc, có những người không mấy thành công, song đóng góp của họ cho dân tộc cho đất nước là những đóng góp đáng kể. Hơn năm trăm trang sách, với năm mươi bài tiểu luận viết cách đây đă hơn ba phần tư thế kỷ, vậy mà phần lớn những quan điểm đó vẫn c̣n giá trị cho ngày hôm nay.

Báo Nam Phong ngày nay quí hơn vàng. Học giả Vương Hồng Sển, trong  “ Nửa Đời C̣n Lại “ viết, khoảng tháng 11/1992 ở Sài g̣n gửi ra, xuất bản ở hải ngoại, đă đánh giá như vậy. Cụ tự mắng ḿnh là kẻ ngu hạng nhứt, không biết giữ sách quí, v́ khi xính vính hụt tiền, cụ đă bán toàn bộ Nam Phong với giá ba chục lượng vàng. Nhà khảo cổ họ Vương, thọ 94 tuổi, c̣n kể lại rằng, ông đă dẫy nẫy từ chối v́ sợ đụng chạm đến một người mà đảng không ưa, khi có bạn nhỏ đến nhà mời viết đề tài “Nam Phong và ông Phạm Quỳnh, đối với đồng bào trong Nam”. Tuy nhiên v́, trâu già hết sợ dao phay, nên ông nói huỵch tẹt, mặc cho sấm sét búa ŕu. Khi mới phát hành năm 1917, chỉ có mấy tỉnh Mỹ tho, Vĩnh Long, Sa Đéc dân Kinh ở nhiều, biết giữ lại tờ Nam Phong. Riêng Hà Tiên, tờ báo được sùng bái nhiều v́ nơi đó có trường luyện quốc văn của Đông Hồ, Mộng Tuyết.

Qua đời năm 1996, nhà văn họ Vương, trong cuốn sách nói trên c̣n tiết lộ rằng, cụ biết giá trị Nam Phong nhờ một buổi tṛ chuyện với Phan Văn Hùm, người thuộc nhóm Đệ tứ Cọng sản, về sau đă bị nhóm Đệ tam Cọng sản giết khoảng năm 1945. Cụ cho biết lúc đó mới 16,17 tuổi, học lớp nh́, khi muốn nói một trường tư có học tṛ, vừa dạy, vừa cho chỗ ngủ, cho cơm ăn cụ dùng chữ trường ăn cơm trong. Phan văn Hùm cười và nhỏ nhẹ sửa lại thưa anh, kư túc xá, Tây gọi pensionnat, internat. Cụ rón rén hỏi học ở đâu mà có những tiếng hay quá? Phan văn Hùm trả lời t́m mua tạp chí Nam Phong. Đây là tạp chí ra hàng tháng, khổ lớn dày 100 trang. Nội dung, ngoài bài luận thuyết thời cuộc và bài tóm tắt thờ́ sự, c̣n có hai phần: phần biên khảo, học thuật (tây hoặc hán học) và phần thi văn, tiểu thuyết. Nếu ông không bị giết chết sớm, theo cụ Sển có lẽ ḿnh đây ắt học thêm nhiều.

 

Ngày Phạm Quỳnh tại Cali

Cụ Sển đă ví báo này như cây mía bị ép gần ráo chất ngọt v́ bài vở trong tạp chí đều được trích dịch hay tuyển ra in thành sách; nào là Thượng Chi Văn Tập, Nam Phong Truyện Ngắn, Chủ Đích Nam Phong. Trong cuốn “Nửa Đời C̣n Lại”, nhà khảo cổ Vương Hồng Sển c̣n cho biết nhân năm 1967 ra miền Trung giảng dạy tại Đại Học Văn Khoa Huế, đi viếng chùa Vạn Phước, bỗng sững sờ thấy trước mắt một ngôi mộ bằng lô dước, kiến trúc lối ṿng đai chung quanh và miếu nhỏ thờ thổ thần, trời đă nhá nhem sắp tối, ngoài xa xa giăng giăng hàng núi Ngự xanh xanh và chớp chớp nước sông Hương sang sáng, tôi đứng run lập cập,nửa v́ lạnh, nửa v́ không mặc áo ngự hàn, ngậm ngùi thức cảnh sinh t́nh, ráng đọc mấy chữ bằng chữ hán “Nam Phong chủ bút Phạm Quỳnh Thượng Chi di thể”. Nhờ mấy chữ này, học giả họ Vương hỏi thêm mới hay nơi này là ngôi mộ nhà văn hóa Phạm Quỳnh.

Theo” Việt Nam Văn Học sử Giản Ước Tân Biên” của Phạm Thế Ngũ, NPTC do chính người Pháp lập ra với mục đích phục vụ cho việc chiến thắng trong trận giặc với Đức. Phạm Quỳnh nhận lời làm tờ báo là v́ muốn lợi dụng làm một cơ quan bồi bổ quốc văn cho thêm nhiều tiếng, cho đủ tài liệu để phiên dịch và truyền bá các tư tưởng Âu Tây. Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Nhà Văn Hiện Đại” đă nhận xét rằng quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu có giọng hoa mỹ, dồi dào và chú trọng về tư tưởng là công của hai tờ tạp chí ở Bắc Hà: Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí. Vũ Ngọc Phan c̣n viết, Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về vấn đề gtừ thơ văn cho đến triết lư, đạo giáo cho đền chính trị, xă hội, không một vấn đề nào là ông không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy.

Nhà văn hóa Phạm Quỳnh sinh năm 1892 tại Hải Dương, thuộc một gia đ́nh nho học, có hiệu là Thượng Chi, mồ côi mẹ lúc chín tháng, mồ côi cha lúc chín tuổi. Ông được bà nội nuôi nấng cho ăn học tại Hà nội trường Bảo Hộ. Năm 16 tuổi đậu thủ khoa bằng Cao Đẳng tiểu học. Linh mục Thanh Lăng trong “Phê b́nh văn học thế hệ 1932” cho biết, muốn hiểu văn học Việt Nam thời 1913 tới 1932 không ǵ tốt hơn cho bằng nh́n vào Nam Phong. Nam Phong là linh hồn. Nam Phong là tất cả văn hóa của thế hệ đó.  Phạm Quỳnh du thuyết nước Pháp năm 1922. Ông có 13 người con. Cũng như nhiều gia đ́nh VN khác, sau cuộc chiến họ sống rải rác ở Mỹ, Pháp và Việt Nam. Ông được Bảo Đại bổ nhiệm ThượngThư kiêm Ngự tiền văn pḥng, rồi sau đó Thượng Thư bộ Quốc gia Giáo Dục. Năm 1945 sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9/3, lúc bấy giờ ông là Thượng Thư Bộ Lại (xem như Thủ Tướng), đă nhân danh chánh phủ Hoàng Gia, kư bản “Tuyên Bố Độc Lập” cho Việt Nam.

Để tưởng niệm và đánh giá lại sự nghiệp vị học gỉa này, bốn tờ báo ở Mỹ: Người Việt, Thế kỷ 21, Xây Dựng và Ngày Nay đă tổ chức “Ngày Phạm Quỳnh” tại ṭa báo Người Việt vào 8/5/1999. Các người con và cháu của chủ bút Nam Phong cũng đă về thủ đô người tị nạn, mang theo nhiều h́nh ảnh và tài liệu quí giá để làm một cuộc triển lăm. H́nh trường Thông ngôn, h́nh chụp chung với Phạm Duy Tốn, bố Phạm Duy; h́nh chụp lúc Phạm Quỳnh viếng Nam Kỳ năm 1918 với các ông Diệp văn Kỳ, Trần Năng Thân, Lê Đức ; h́nh sinh hoạt ở triều đ́nh Huế, những phiên họp nội các do vua Bảo Đại chủ tọa, lễ tế Nam Giao. Đặc biệt là các thủ bút của cố học giả ghi lại trong thời gian ở Pháp năm 1922 như: Jeudi 13 Juillet 1922 – ăn cơm với Phan văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường; Dimanche 16 Juillet 1922 - Ở nhà, Trường, Ái Quốc, Chuyền đến chơi; cùng những trang viết c̣n dang dở trước khi bị bắt đi.

 

Nhà báo Phạm Quỳnh - Một chiến sĩ ái quốc

Trong phần hội thảo, giáo sư Nguyễn Phúc Bửu Tập đă tŕnh bày tư tưởng của Phạm Quỳnh về quân chủ lập hiến và gíáo dục trong t́nh h́nh thế giới lúc bấy giờ. Diễn giả xác quyết, ngoài việc là một học giả, họ Phạm c̣n là một chí sĩ, xứng đáng được sắp ngang hàng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Diễn gỉả nói, một người đă chiến đấu và đă hy sinh đời sống cho một lư tưởng, th́ người ta gọi là chiến sĩ, chiến sĩ ái quốc Phạm Quỳnh. Nguyễn Phúc Bửu Tập đă dẫn chứng một tài liệu tối mật tại văn pḥng Pháp Quốc Hải Ngoại Paris của Khâm xứ Trung Kỳ Haclewyn ngày 8/1/1945 gửi Toàn Quyền Đông Dương Jean Decoux và Tư lệnh Đại Tướng Mordant, bề ngoài Phạm Quỳnh tuy nhă nhặn, ḥa hoăn nhưng ông ta là một phần tử bất khả phân trong chủ trương giành độc lập cho Việt Nam và chúng ta đừng mong ǵ làm vơi đi ḷng ái quốc chí thành, bất di dịch nơi ông ta dù qua việc chúng ta đă dành cho ông ta một chức vị tối danh dự đă có.

Phát biểu trong dịp này, nhà văn Vơ Phiến nói, Phạm Quỳnh thấy dân tộc ta kém khả năng biện luận, ông bắt tay vào việc chữa cái nhược điểm của tiếng Việt. Ông hô hào “đào luyện quốc văn”, “bồi bổ quốc văn”. Bồi bổ vào cho nó thật nhiều tiếng trừu tượng, biến nó thành một phương tiện tốt, đắc lực, thích hợp hơn cho loại văn luận thuyết. Trong ṿng 10 năm đầu của Nam Phong, ông Phạm tính ra đă  phát hành kể có hàng ngàn tiếng mới, ông đă dùng chúng vào việc biên tập, dịch thuật, việc truyền bá Đông Tây học thuật. Cũng trong phần hội thảo, nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường, đưa ra ư kiến cho rằng, sau khi ra trường Bảo hộ, nếu làm việc ở phủ Khâm xứ hay Toàn Quyền , Phạm Quỳnh có thể chỉ đă trở thành thầy thông, thầy kư. Nhờ làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ, môi trường ở đây đă hướng họ Phạm đi sâu vào những lănh vực triết học,văn học, mỹ học, và văn chương kim cổ.

Người ta bảo Phạm Quỳnh là môt nhà văn, tôi thiết nghĩ ông chủ yếu là một nhà báo. Bài tham luận của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đă khẳng định như vậy.Tại sao? Theo Gíáo sư Bích, Phạm Quỳnh từ khi c̣n là thanh niên đă hy sinh cái văn hoa, bay bướm trong lời văn để đánh đổi lấy sự khả tín, sự chính xác, một đặc tính căn bản bất khả khuyết của người làm báo, cái mà Vũ Ngọc Phan gọi là làm cho người đọc có ḷng tin cậy. Giáo sư Bích c̣n cho biết, Phạm Quỳnh đă gây được một phong trào báo chí sôi nổi và có được sự cọng tác của nhiều người mà tên tuổi đă đi vào văn học sử như Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Đông Hồ, Tương Phố, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Tiến Lăng. Thuyết tŕnh viên nói, họ Phạm đă cưỡng lại cái khuynh hướng viết truyện, để chỉ làm một nhà báo, một nhà báo có lập trường, có chương tŕnh, có viễn kiến.

Trong thiên du kư” Một Tháng Ở Nam Kỳ”, chủ bút Nam Phong viết, những người làm báo là những người theo đuổi cái nghề khua chuông gỏ mỏ trong quốc dân, đem những lời hay lẽ phải mà bàn bạc với đồng bào, mong gây lấy môt mối tư tưởng cảm t́nh chung, mưu cho nước nhà, giống nhà sau này được cường mạnh vẽ vang.Theo ông, nếu cổ động được điều hay, truyền bá được lẽ phải, có ích cho nước nhà có lợi cho xă hội, đó là phần thưởng vô h́nh của người làm báo.Cái thưởng đó cũng đủ cao quí, đủ đền cho công phu tâm huyết của ḿnh, những khi đêm khuya thanh vắng, một bóng, một đèn, ngồi kỳ khu cặm cụi trước tờ giấy trắng, ống mực đen mà đào gan, nạo óc đem những lời thiết thực cảnh tỉnh cho bạn đồng bào. Khi nói chuyện với kư giả Rene Rays của tờ Impartial, Phạm Quỳnh thố lộ, làm báo thực là một nghề hứng thú; ai đă làm qua, vẫn giữ như vết in trong tâm năo không bao giờ phai được.

 

Đă lỡ mất rồi

Cũng trong tập du kư, viết cuối năm 1918, tác gỉả cho hay, khi đến Long Xuyên viếng thăm “Đại Việt Tạp Chí “, ông và ban chủ biên báo địa phương, sau khi hàn huyên hiểu rơ tôn chỉ kẻ Nam người Bắc, đă có bàn chuyện họp Nam Phong với Đại Việt làm một tạp chí chung cho cả nước.Theo nhận xét của Phạm Quỳnh, báo giới trong Nam thạnh lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện nay có đến mười tờ báo bằng Quốc Ngữ. Ông viết, cứ lấy lượng mà xét th́ đủ khiến Bắc kỳ, Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ, rằng về đường ngôn luận c̣n chậm kém xa quá. Ngoài ra, nghề làm sách ở trong Nam cũng thịnh lắm có phần thịnh hơn nghề làm báo nhiều.. Phạm Quỳnh c̣n cho biết, dân Nam Kỳ có tính ham đọc sách báo và không ngại bỏ tiền mua. Chữ quốc ngữ thông dụng lắm. Đàn bà con trẻ thường biết đọc biết viết cả. Chẳng bù với Bắc kỳ, Trung kỳ số người đọc thông quốc ngữ ít hơn.

Nam Phong có sáng kiến ra số Tết Mậu Ngọ (1918).Từ đó báo Việt mới hay có cái lệ là có cái quà năm mới báo Tết đón Xuân. Tết là ǵ? Theo Ông Tổ báo Tết: Tết là tiếng gọi mênh mông của tất cả những người con của nước Nam, trong dịp đổi mới toàn bộ của đất trời và muôn vật, gào lên niềm tin vào cuộc sống cùng niềm khát khao hạnh phúc và an vui của ḿnh. Bởi Tết không chỉ là ngày lễ của người sống, nó c̣n là, chủ yếu là ngày lễ của những người chết. Chính trong ba ngày Tết, những người đă chết thực sự tham dự v ào cuộc sống của gia đ́nh và con cháu ḿnh. Như vậy không coi người chết như đă chết rồi, có nghĩa là không chăm nom ǵ đến họ nữa, quên bẵng luôn đi, cũng không nên coi họ như c̣n sống, tin họ c̣n sống thật. Đúng ra, họ sống bằng kư ức chúng ta, bằng sự sống động, tính nồng nhiệt của cái t́nh cảm mà chúng ta gọi là đức hiếu để, biết tôn kính những người đă cho ta sự sống và ư thức, khiến cho họ tồn tại măi.

Phạm Quỳnh, Hồ Chí Minh và vài người khác năm 1922 đă cùng ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta, thật là vui vẻ, thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười, nói nói. Chủ bút NPTC đă kể lại như vậy trong “Pháp Du Hành Tŕnh Nhật Kư”. Huy Cận cho Phạm Tuyên hay là Hồ Chủ Tịch nói, chuyện họ Phạm bị thảm sát đă lỡ mất rồi. Tuy nhiên, sau đó CSVN vẫn quy chụp Phạm Quỳnh là Đại Việt gian. Văn phẩm ông bị cấm lưu hành, liệt ông vào diện tác gỉa có vấn đề. Hồi kư Trần Huy Liệu, thuộc phái đoàn trung ương Hà nội ra miền Trung dự lễ thoái vị của Bảo Đại ngày 30/8/45 viết, Phạm Quỳnh bị xử lư thích đáng. Địa phương bắt nhà văn hóa ngày 23/8/45; không giết liền mà thủ tiêu ngày 6/9/45, sau khi phái đoàn đến Huế. Di hài họ Phạm tới năm 1956 mới t́m thấy ở khu rừng Hắc Thú tỉnh Quảng Trị, được cải táng nằm trong chùa Vạn Phước, thật đơn sơ với tên Phạm Quỳnh, bút danh Thượng Chi. Nhưng NPTC th́ như ngọn gió mát lành được khắp nơi hân hoan đón nhận.

 

Việc xử tử h́nh vị học gia không phải là một chuyện đă lỡ mất rồi như Hồ Chủ Tịch nói mà là một việc làm có tính toán, nhằm triệt hạ một đối thủ trong lúc t́nh h́nh chưa ngă ngủ.Tội chính của nạn nhân là v́ uyên bác hơn và lúc bấy giờ, đối với các nước Tây phương, họ Phạm uy tín hơn họ Hồ nhiều. Để biện minh cho hành động ngu xuẫn, cuồng tín sát hại này - chữ của nhà văn Duyên Anh trong bài nói chuyện tưởng niệm Phạm Quỳnh ở Paris năm 1985 – CSVN cáo buộc ông là Việt gian.Tuy bị  giết, chôn giấu, hạ nhục, nhưng tên tuổi ông không chết. Tại sao? Độc thư cứu quốc. Phạm Quỳnh đă lợi dụng một cơ quan do Pháp dựng lên để bồi bổ quốc văn và gầy dựng một tinh thần quốc gia, dựa trên cơ sở văn hóa. Theo ông, nhà văn muốn thờ nước, không có các phương tiện nào hay bằng giúp cho nước nhà có một nền quốc văn xứng đáng. Báo Nam Phong như ngọn gió Nam thổi mát ḷng dân tộc, xoa dịu buồn dân gian và sẽ khiến quốc dân phú cường.

 

 

Đừng kêu qua là Vit gian

 

Ngoài ra, vụ giết “tên Việt gian phá hoại “ Tạ Thu Thâu, một nhà tranh đấu nổi tiếng của miền Nam, ở Quảng Ngải năm 1945, cho thấy thêm một trường hợp khác, y như vụ Phạm Quỳnh. Do đó, “đừng nghe Hồ Chí Minh nói mà hăy nh́n những ǵ CSVN làm”. Trong “Phan văn Hùm thân thế & sự nghiệp”, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu kể lại, khi trả lời nhà văn Daniel Gue’rin ở Paris năm 1946, họ Hồ nói, Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc tầm cỡ, chúng tôi khóc cái chết của ông. Sau 1975 Sàig̣n đ ổi  thành Hồ Chí Minh th́ tên đường Tạ Thu Thâu biến mất. Trần văn Giàu, học tṛ Tạ thu Thâu, năm 1930 bị trục xuất về nước trên cùng một chiếc tàu với thầy; nhân qua Pháp năm 1989 gặp lại một số người quen cũ biết sự liên hệ sâu đậm này, đă hứa là, sẽ “rữa tiếng” cho bậc đàn anh; đến nay chẳng thấy động tịnh ǵ. Giết cứ giết nhưng đừng kêu qua là Việt gian. Ông Hồ văn Ngà cũng  bị đuổi về Việt Nam từ bến Marseille ngày 24/6/30 với ông Giàu và ông Thâu, đă nói với những người giết ông như vậy.

Theo Bác sĩ Phiêu, nhà giáo nhân dân Trần văn Giàu, Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam bộ năm 1945, đă nhẫn tâm sát hại hầu hết những nhà ái quốc, cách mạng Nam bộ; ngoài hai người nói trên bị giết c̣n có: Dương văn Giáo, Bùi Quang Chiêu, Phan văn Hùm, Huỳnh văn Phương, Phan văn Chánh, Lê văn Vững, Diệp văn Kỳ, Hồ Vĩnh Kư, Nguyễn thị Sương.. và đặc biệt ở vùng Hậu giang có nhiều hầm chôn tín đồ Ḥa Hảo, Cao Đài.Trong “Gọng Ḱm Lịch Sử”, tác gỉả Bù́ Diễm cho hay, thời gian hội nghị Fontainebleau diễn ra, cả trong Nam ngoài Bắc, đă có hàng ngàn người quốc gia gục ngă âm thầm, trong đó có những người như Trương tử Anh, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ.. Hố Chí Minh nhờ được huấn luyện ở Nga và CSVN, một tổ chức có kinh nghiệm hơn các đảng phái quốc gia, nên phe cọng đă loại hết các đối thủ và làm chủ t́nh thế. Tác gỉả Bùi Diễm viết, việc khủng bố các phần tử quốc gia quả thực là một thủ đoạn tàn bạo và toàn diện. Lúc bấy giờ khắp nơi, ai nấy cũng đều nơm nớp sợ nạn Việt gian.

 

Hai chữ Việt gian có từ lúc nào? Cuốn “Lớn Lên Với Đất Nước” của Vy Khanh có chú thích của Nguyễn Long Thành Nam, một giới chức Ḥa Hảo, nói rằng, chữ “Việt gian” phát sinh do CSVN học theo kinh nghiệm dưới trào Staline dùng chính sách khủng bố đẫm máu để tiêu diệt đối lập.Thành Nam viết, ai bị gán tội Việt gian th́ khó thoát khỏi chết. Phần nhiều là chặt đầu, mỗ bụng để tiết kiệm đạn. Đối với dân chúng, đó là áp lực để mọi người phải tuân lệnh, trung thành với Việt Minh. Đối với lănh tụ và cán bộ đối lập, đó là phương cách diệt trừ hậu hoạn. Sách của Vy Khanh c̣n ghi nguồn gốc hai chữ này của nhà báo Bùi Tín: một kiểu cách học theo ảng Cọng sản Trung Quốc; coi những kẻ hợp tác với phát xít Nhật là Hán gian; coi chính phủ Uông Tinh Vệ là Hán gian, tay sai Nhật. Về sau hai chữ Hán gian được dùng rộng răi, cứ ai không đồng ư, phê phán đường lối của đảng đều là Hán gian cả. Từ hai chữ Hán gian mà sinh ra hai chữ Việt gian. 

 

Dạo về Việt Nam  cuối năm 2007 tôi biết nhiều hơn về cái chết của bác tôi Phan Thanh Cần hồi tháng 4/1946, v́ tội Việt gian, trong khi hai người con Phan Thanh Dơng, Phan Thanh Thắng đi bộ đội. Gia đ́nh nghe tin cả hai tử trận năm 1947 ở Tuy Ḥa. Sau 1975 đồng đội hai anh về minh oan, phục hồi danh dự cho bác tôi. Ông Phan Thanh Cần làm việc ở Phan Thiết ngang với chức phó quận cho Nam triều măi tới thời Nhật, rất được ḷng dân điạ phương; có một người con nuôi Phan Thanh Cáp, lúc bấy giờ là Tỉnh Uỷ. Can thiệp cho cha nuôi không được, năm 1948 anh Cáp bỏ đảng trốn đi tu ở Cam bốt, mất năm 1959. Bác tôi có một cháu nội Phan Thanh Minh, sĩ quan VNCH thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh, mất tích ở Qui nhơn trong một trận đánh tháng 4/1975. Cha bị gán là Việt gian, hai con bộ đội, cháu thuộc quân lực VNCH đều bị chết, nhưng không biết rơ ngày tháng và nơi chốn. Hồ Chí M đem chủ nghĩa ngoại lai Mác Lê vào Việt Nam đă gây bao tang thương cho dất nước và dân tộc. Bác tôi chẳc chẳng cần sự phục hồi của kẻ thống trị; với bàn tay vấy máu, CSVN không có tư cách để làm chuyện này.

Việc chuyển toàn bộ các số NPTC vào DVD-ROM làm nhớ vụ sát hại Phạm Quỳnh, không để đi vào quên lăng và c̣n nhắc mọi người, hăy nh́n lại lịch sử để thẩm định những sai lẩm đă lỡ mất rồi của CSVN. Chỉ có tôn trọng Sự Thật; thực thi Công Bằng, Công Lư mới tạo được Đoàn Kết. Quy chụp Việt gian, học tập cải tạo, cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, kinh tế mới, đánh tư sản mại bản, bao cấp cơ chế, độc tài đảng trị, Hoàng sa Trường sa, phân biệt đối xử trong  giáo dục - công ăn việc làm, độc quyền thông tin…và nhất là khi cướp được miền Nam, gọi là giải phóng đă - như học giả Nguyễn Hiến Lê viết trong “Hồi kư” - tạo cái không khí giữa thực dân và dân bị trị; coi dân miền Nam này, coi đồng bào của họ như bọn da trắng coi dân da đen, là những lỗi lầm to lớn, nếu không nói là tội ác mà CSVN phải thành thật sám hối, đền bù và xin lỗi như Thủ tướng Tây Đức Willy Brandt ngày 7 tháng 12 năm 1970, nhân khi thăm Ba lan đă đến quỳ trước tượng đài Warsaw Ghetto Uprising, tưởng niệm các nạn nhân bị Đức Quốc xă giết hại hồi đệ nhị thế chiến./.

 

ảnh của bao Der Spiegel

 

Phan Thanh Tâm

1/10  Saint Paul

 

**Phần chữ nghiêng là những câu trích dẫn từ nhiều tác giả

**Cám ơn Hoàng Hỹ Nguyên tức bà Phạm Tuân đă gửỉ cho bài dưới đây, của người con út chủ bút Nam Phong Tạp Chí:

 

Cái chết của Cụ Phạm Quỳnh.

Đôi nét tổng-quát về cuộc đời cùng cái chết đầy oan-khiên, bi-thảm của người mà giới văn-học nước nhà thường biết đến: " Phạm-Quỳnh", nguyên chủ-nhiệm báo Nam-Phong .Mới thoáng đây, sống ở Mỹ, xa quê-hương đă 30 năm rồi , 1975-2005. Thời-gian qua mau quá !! Cũng bằng thời-gian này, nơi quê nhà trước kia ( 1945-1975 ) đă xày ra biết bao biến-cố thê-lương, trọng-đại. Nào là Cách-mạng, nào là chiến-tranh, loan-lạc, nào là tản-cư, di-cư rồi di-tản...

       Tôi nay đă gần 70 . Đời tôi chẳng có ǵ đáng dám đem nói ra , nếu không phải là 2 kỷ-niệm đau buồn thê-thiết luôn khắc sâu, ám-ảnh trong đáy hồn tôi .Nay được hỏi tới, tôi xin chân-thành, mạo-muội thuật lại đôi nét tổng-quát về cuộc đời cùng cái chết đầy oan-khiên, bi-thảm của cha tôi người mà giới văn-học nước nhà thường biết đến: Phạm-Quỳnh, nguyên chủ-nhiệm báo Nam-Phong xuất-bản tại đất Bắc-Hà, Hà-Nội trên 7 thập-niên về trước, thuộc thế-kỷ 20 vừa tàn.

       Ngày 9/3/1945, sau khi quân-đội Nhật-Bản lật đổ chế-độ bảo-hộ Pháp trên giải đất Việt-Nam, th́ ở địa-vị Thượng-Thư Bộ-Lại triều-đ́nh Huế Thầy tôi (1) (Ô. Phạm-Quỳnh) chính-thức công-bố bản " Tuyên-ngôn Độc-Lập" của tân Quốc-gia Việt-Nam, chấm dứt 80 năm bị nô-lệ Pháp. Liền kế đó, ư-thức rơ về việc chuyển-biến thời-thế, và để mở đầu cho một kỷ-nguyên chính-trị hoàn-toàn mới-mẻ, trong sáng cho nước nhà, Thầy tôi đệ-tŕnh lên nhà Vua Bảo-Đại một kế-sách thích-hợp nhất, theo với chiều-hướng lịch-sử  (như ở thập-niên 20-30, dưới thời cực-thịnh cuả chính-quyền Bảo-hộ Pháp, trên mặt báo Nam-Phong, Thầy tôi đă kiên-quyết mà uyển-chuyển đề-nghị một giải-pháp "Quân-chủ Lập-Hiến" cho Việt-Nam ! ) rồi Người xin rút lui khỏi chính-trường, dành quyền quyết-định tối-cao của Nhà Vua Bảo-Đại trong việc chọn-lựa nhà Sử-gia Trần-Trọng-Kim làm thủ-tướng thành-lập tân Chính-Phủ.

       Tuy-nhiên, để được ghi lại một bằng-chứng trung-thực trong giai-đoạn lịch-sử tranh tối, tranh sáng, đầy sóng gió 1945, khi chế-độ thuộc-địa Pháp cáo-chung, tôi xin nhấn mạnh đến điểm này: Bản Tuyên-Ngôn Độc-Lập của Thượng-Thư Bộ Lại Phạm-Quỳnh đă xuất-hiện trước Tuyên-Ngôn Độc-Lập cuả Ông Hồ-Chí-Minh  (lănh-tụ Mặt Trận Việt-Minh, tức đảng Cộng-Sản VN) đọc tại Công-Trường Ba-Đ́nh Hà-nội 5 tháng sau đó , Mùa Thu 1945 !!! Điều này, đứng trước thực-tế Lịch-sử, cho ta thấy rằng "Bác và Đảng" hoàn-toàn vắng mặt, khởi-thuỷ không có một chút công-lao nào trong công-cuộc giành lại nền độc-lập cho Việt-Nam trực-tiếp từ chế-độ thực-dân Pháp cả !! ( Tất cả mọi sự việc diễn ra sau đấy, đưa-đẩy Ông Hồ-Chí-Minh và Đảng Cộng-Sản cướp chính-quyền chỉ có nghĩa là một cuộc xung-đột, thanh-toán, sát-hại, đầy mưu-mô lường gạt thâm-độc giữa nội-bộ chính-t́nh Việt-Nam không hơn, không kém. "Nội-bộ" ở đây, xin hiểu là giữa Mặt-Trận Việt-Minh CS với các đảng-phái "Quốc-gia" hồi ấy !!

       Trong thời-gian Nhà Vua Bảo-Đại thoái-vị, Mặt Trận Việt-Minh lên nắm chính-quyền th́ Thầy tôi đă lui về điền-viên dưới mái ấm gia-đ́nh, từ nay mới thực sự được sống những ngày tương-đối thảnh-thơi, nhàn-nhă giữa vợ con cháu chắt thân-thương.       Theo lời các anh chị lớn của tôi trong nhà kể lại, hằng ngày Thầy tôi khăn áo chỉnh-tề, khoan-thai uống trà, ngâm thơ và bắt tay viết những trang hồi-kư về cuộc chính-biến ngày 3 tháng 9 năm 1945, Nhật hạ Pháp ở Việt-Nam và trên toàn cơi Đông-Dương. Người có cái vui hồn-nhiên là thấy được bóng Độc-Lập đă hiện về trên Giang-sơn đất Việt. Giấc mộng ấy ấp-ủ từ thuở c̣n trong tuổi thanh-niên đến khi bước vào đời, dốc tất cả tâm-trí, tâm hồn t́m một giải-pháp, một con đường cứu nguy cho dân-tộc sao cho thích-ứng nhất.tránh được tối-đa sự đàn-áp, tàn-sát người đồng-chủng VN đến từ bàn tay thực-dân Pháp trong thời cực-thịnh ở đầu thế-kỷ 20.

       Thầy tôi cô-đơn, cô-độc, gánh chịu biết bao miệng tiếng người đời, một ḿnh lầm-lũi trên đoạn đường chính-trị bạc-bẽo dài vô-tận ấy, đến độ có lúc phải âm-thầm thốt lên với chính ḷng ḿnh :"Tôi đă chọn con đường của tôi ,Tôi là một con người của buổi giao-thời , và tôi sẽ không bao giờ được cảm-thông...".

       Trong những ngày nhàn-hạ ngắn-ngủi kể trên, Thầy tôi thường tâm-sự, thổ-lộ với một hai người anh lớn của tôi về nỗi băn-khoăn duy-nhất trước hiện-t́nh đất nước, là Thầy tôi vẫn chưa biết ông Hồ-Chí-Minh đích-thực là ai ?, "nếu như ông ta không phải là Nguyễn Ái-Quốc th́ hay quá, th́ thật là đại-phúc cho dân-tộc !" (v́ từ năm 1922, tại thủ-đô Paris, Thầy tôi đă gặp và biết Nguyễn-Ái-Quốc tường-tận lắm. Hai người đă họp mặt với nhau 2, 3 lần cùng với các ông Phan-văn-Trường, Nguyễn-thế-Truyền tại căn nhà số 6 Villa des Gobelins. Thầy tôi nhận biết rơ ông này là đảng-viên của Đảng Cộng-Sản Pháp lúc bấy giờ...Thắc-mắc ấy là một lo-âu canh-cánh trong ḷng Thầy tôi .

       Mùa hè năm ấy nóng và oi-bức lắm. Lâu lâu mới có một luồng gió nồm thổi. ... Tôi (9 tuổi) và em tôi cùng hai cháu con chị Lăng đang chơi ở ngoài sân, dưới gốc cây soài th́ vào khoảng 1 hoặc 2 giờ trưa, một chiếc xe hơi màu đen, loại du-lịch, 4 cửa, có bửng phiá 2 bên, hiệu Celtaquatre Renault , chở 6 người có súng, tông cửa sắt đột-nhập vào nhà, chúng tôi hoảng sợ, đứa th́ khóc, đứa th́ chạy kêu la ầm-ỹ, phá tan sự im lặng ngột-ngạt của buổi trưa hè nóng bức....

       Khi đă vào trong, toán người vơ-trang ào ra bao vây, chặn mọi ngơ ra, vào, họ kiếm và hỏi đích-danh Thầy tôi và anh Bích ....Chúng tôi sợ và rất ngạc-nhiên v́ chưa bao giờ nghe thấy ai gọi Thầy tôi bằng tên thật một cách hỗn-sược như vậy! Họ chỉ t́m thấy Thầy tôi thôi....Anh Bích không ở chung với Thầy Me tôi (anh được Vua Bảo-Đại cho anh và vợ con vào ở trong thành-nội ..) Họ "mời" và Thầy tôi sẵn-sàng đi ngay!.Thầy điềm-đạm, thong-thả theo toán người vơ-trang ra xe , Thầy không quay lại nh́n những người thân-thương và cũng không nhắn-nhủ một lời nào ... Me tôi không ra tiễn đưa Thầy, (sau này tôi mới biết rằng Me tôi đă ngất xỉu khi thấy toán người lạ có súng ống đến lôi kéo, bắt Thầy tôi đi). Trước diễn-biến quá đột-ngột này, chúng tôi chứng-kiến, bất-lực...Chị Hoàn chạy theo níu áo, đưa thuốc ( trị đau bao-tử ) cho Thầy tôi v́ biết Thầy luôn luôn cần thuốc mỗi khi lên cơn đau dạ dầy.. Thầy tôi chỉ vắn-tắt có câu : "Chiều nay Thầy về..."

       Anh Lăng ( tức Nguyễn-tiến-Lăng, anh rể tôi ) thấy vậy ra hỏi sự việc th́ bị bắt luôn... Sau khi bắt Thầy tôi đi, tất cả các pḥng-ốc đều bị niêm-phong, cả đại gia-đ́nh chúng tôi bị dồn vào 3 pḥng nhỏ...mọi di-chuyển ra, vào dều bị lục xét, tra hỏi. Mấy người anh khác của tôi, sau khi tham-dự biểu-t́nh về, bị lục-soát, gạn hỏi...Anh Khuê uất-ức quá, chạy thẳng vào nhà đập cửa kính (cửa đă bị niêm-phong) t́m mấy khẩu súng đi săn của anh Bích...chính mắt tôi thấy cánh tay phải của anh bị mảnh kiếng cứa cắt, máu chảy ṛng-ṛng. Sau này có dịp hỏi lại anh,  anh bảo, “nếu t́m được súng th́ không chắc ǵ anh em chúng ḿnh c̣n gặp nhau được đến ngày hôm nay.”

       Thời-gian trôi qua, tôi không nhớ là bao lâu, 1 tháng, 2 tháng? gia-đ́nh chúng tôi sống trong cảnh bị giam lỏng như vậy...mọi sự ra vào đều có người theo rơi, canh chừng, nhất là mấy chị tôi, mỗi lần xin ra ngoài đi chợ đều bị lục-soát, trêu ghẹo với đủ mọi cử-chỉ, ngôn-từ hạ-cấp. Riêng đối với lũ trẻ chúng tôi th́ họ dễ-dăi hơn..chúng tôi được chạy chơi ngoài sân như thường lệ...tôi c̣n được mấy anh (hướng-đạo, bạn của các anh tôi) có nhiệm-vụ canh gác, đùa rỡn và dạy hát những bài hùng-ca...tôi c̣n nhớ một câu của một bài hát mà tôi không biết tên.. .bài hát nói về các chiến-sĩ anh-hùng vào Nam kháng-chiến : "Một ra đi là không trở về !..", lũ trẻ chúng tôi nghêu-ngao hát suốt ngày.. nhưng cứ mỗi lần các chị nghe thấy đều mắng và cấm không cho hát v́ là một câu hát "ơgở", đem điềm xấu cho người đi xa ..(!)

       Đêm nào chúng tôi cũng tụng kinh niệm Phật cầu cho Thầy tôi sớm được b́nh-an trở về..những đêm trăng sao, nh́n lên trời, Me tôi bảo hễ thấy sao đổi ngôi th́ phải khấn cầu xin chóng được gặp Thầy.. .chúng tôi tin như vậy. Thời-gian lặng-lẽ trôi qua, vẫn không có tin-tức ǵ về Thầy.. nghe nói Thầy bị giải ra Hà-nội.....cả gia-đ́nh chúng tôi xin được phép rời nhà, ra Bắc..Ở Hà-nội được ít lâu, một hôm chúng tôi nghe trẻ bán báo rao tin có 3 đại việt-gian "đă bị Cách-mạng xử-lư".

       Bán tín bán nghi, 2 chị B́nh, chị Hỷ cậy nhờ ông Vũ-đ́nh Huỳnh (lúc bấy giờ là cận-vệ của ông Hồ) giới-thiệu đến diện-kiến và tŕnh việc Thầy tôi với ông Hồ. Ông Hồ bảo: "Dạo ấy tôi chưa về (!), và trong thời-kỳ khởi-nghĩa quá vội, có thể có nhiều sai-sót đáng tiếc !!" Thầy tôi đă vĩnh-viễn ra đi !!!, mối hận ám-ảnh tôi, suốt đời tôi không sao quên được .. Thầy tôi  (học-giả Phạm-Quỳnh)  cùng Cụ Ngô-Đ́nh-Khôi (bào-huynh cùa Tổng-Thống Ngô-đ́nh-Diệm) và người con trai là Ngô-Đ́nh-Huân bị Việt-Minh thảm-sát cùng ngày, cùng giờ và bị chôn vùi cùng một huyệt vào mùa Thu năm 1945.

       Năm 1948, anh Bích tôi, lúc bấy giờ làm bí-thư cho Quốc-Trưởng Bảo-Đại đă ḍ hỏi được nơi Thầy tôi bị giết và bị chôn nhưng không thực-hiện được việc t́m kiếm, phần v́ địa-điểm là một nơi xa-xôi, hẻo-lánh, hiểm-trở, lại là một vùng xôi đậu thiếu an-ninh, phần v́ nghe lời khuyên can của những người am-hiểu t́nh-h́nh không nên mạo-hiểm v́ rất có thể đây là một cái bẫy do Việt-minh Cộng-sản giăng ra để bắt và tiêu-diệt những người có liên-hệ với các nạn-nhân do họ sát-hại, một h́nh-thức "nhổ cỏ phải nhổ cho sạch rễ" vậy.

       Thời-gian tàn-nhẫn lạnh-lùng trôi.. . cho măi đến năm 1956, dưới chế-độ VNCH, Miền Nam Việt-Nam trong tay Tổng-Thống Ngô-đ́nh-Diệm, bỗng một hôm gia-đ́nh chúng tôi được thông-báo hăy chuẩn-bị sẵn-sàng để đi nhận lănh hài-cốt Thầy tôi ! Một nỗi vui mừng khôn tả, đồng-thời một nỗi xúc-động vô-biên tràn ngập trong ḷng anh chị em chúng tôi. Lập-tức, chúng tôi đi t́m những tin-tức chính-xác hơn.

       Được sự giới-thiệu của ông Hoàng-Hùng ( Bộ-trưởng Bộ Kiến-Thiết ) và ông Vơ-Văn-Hải ( Chánh Văn-pḥng Phủ Tổng-thống), chúng tôi t́m đến gặp ông Vơ-Như-Nguyện. Được biết Ông Vơ-Như-Nguyện (Nguyên Tỉnh-Trưởng B́nh-Định) cùng ông Hoàng-Ngọc-Trợ  (Quận-Trưởng quận Phong-Điền, Thừa-Thiên ) là những người được Tổng-Thống Diệm trao cho việc t́m kiếm. Việc t́m kiếm hài-cốt không đơn-giản mà là một công-tác lớn-lao, đ̣i hỏi thời-gian, nhân-lực, phương-tiện và an-ninh tuyệt-đối. Ngày 5 tháng 2 năm 1956 ( cận Tết), tôi và chị Hảo tôi đi Huế để cùng vớI một phái-đoàn của Chính-phủ t́m và nhận hài-cốt các nạn-nhân.

       Chi-tiết cho biết Thầy tôi, Cụ Ngô-Đ́nh-Khôi và ông Huân bị giam, nhốt trong một ḷ ép và nấu dầu tràm (một loại dầu khuynh-diệp) của bác-sĩ Viên-Đệ ở Cổ-Bi, địa-điểm cách làng Văn-Xá 5 cây số về phía Tây. Làng Văn-Xá lại cách thành phố Huế 15 cây số về phiá Bắc, trên đường Huế đi Quảng-Trị.. ..

       Dân làng được lệnh mỗi ngày phải bới cơm nước cho các nạn-nhân ăn, nhưng sau 3,4 ngày th́ được lệnh ngưng..  họ to nhỏ bàn-tán rằng các người bị giam đă bị đem đi giết vào một đêm trăng Lưỡ i liềm. Lời khai của người có phận-sự canh gác tại nhà ép dầu nói rằng đêm hôm ấy (đầu tháng tám ta, trăng lưỡi liềm), vào khoảng 11 giờ có người đến gơ cửa, đương-sự hỏi "Ai  đấy ? Th́ có tiếng trả lời " Tôi, Hoàng-Anh, chủ-tịch Uỷ-ban Cách-mạng Thừa-Thiên, mở cửa ngay ! Hoàng-Anh vào, ra lệnh đưa 3 người bị giam ra, bảo cho ăn cơm...(cơm nguội và ít mắm cá khô) .... 3 người không nuốt được, xin ít nước mưa để chan làm canh..

       Nói chuyện dăm ba câu thi Hoàng-Anh quát, bắt phải im, sau đó ra lệnh trói tay 3 người lại rồi đưa xuống đ̣.   Nhân-chứng, người chèo đ̣ kể thêm: đ̣ đi quanh đi quất trên con sông Bồ, đến gần 1 giờ sáng th́ được lệnh táp vào bờ... Hoàng-Anh ra lệnh lên bờ, đến gần 2 bụi tre, cùng với toán du-kích ra tay hạ-sát 3 nạn-nhân.. Nhân-chứng, người chèo đ̣, không được lên bờ nên không mục-kích vụ thảm-sát, chỉ nghe được tiếng thét giọng Bắc: "Quân sát-nhân!" và sau đó nghe mấy phát súng chát-chúa trong đêm khuya.

       Một nhân-chứng khác, khai rằng v́ nấp trong bụi cây gần đấy nên thấy được thảm-cảnh: Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó c̣n bị bắn bồi thêm 3 phát đạn.. Cụ Khôi cũng bị bắn 3 phát.. .ông Huân hoảng sợ, vùng chạy th́ bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu .. Cả 3 thi-hài bị xô xuống mương rồi vội-vàng lấp đất. Chi-tiết cho biết thi-thể của Thầy tôi ở dưới cùng, đầu hướng về phía núi, Cụ Khôi và ông Huân nằm đè lên, đầu hướng về phiá sông. Thật "nghịch đời", lúc sinh-thời, Thầy tôi và Cụ Khôi v́ khác chính-kiến nên đă trở thành thù-nghịch, thề "không đội trời chung", thế mà khi thác lại nằm chung một hố !!! Chúng tôi ( tôi và chị Hảo ) phải ở lại Huế lâu hơn dự-định, v́, như đă tả ở phần trên, địa-điểm là một nơi xa-xôi, khó đi lại nên cơ-quan chính-phủ phải huy-động công-binh khai-quang, ủi đất, làm đường, bắc cầu cho xe hơi đi...(trên 15 cây số!), ngoài ra c̣n phải điều-động binh-sĩ đến giữ an-ninh quanh vùng... nói tóm lại là cả một công-tŕnh nan-giải mà chỉ có một chính-quyền mới thực-hiện được mà thôi..

       Chúng tôi rất cảm-kích và biết ơn Tổng-Thống Diệm. Không có lệnh cuả Tổng-thống th́ tất cả gia-tộc huyết-thống chúng tôi sẽ chẳng bao giờ t́m được hài-cốt của người Cha kính quư để đem về mai-táng, làm tṛn bổn-phận thiêng-liêng của những kẻ làm con.Nhưng đôi lúc tôi tự hỏi, giả-sử như Thầy tôi không bị chôn-vùi cùng huyệt với Cụ Khôi và ông Huân, những người thân-thuộc của Tổng thống th́ chúng tôi có được sự giúp đỡ này không ? Suốt ngày 8 tháng 2 năm 1956, đào, xới đất, kết-quả chỉ bới lên được một bộ hài-cốt mà bộ hài-cốt này lại không thuộc về một trong 3 người..  mọi người đều thất-vọng, lại lo rằng sau 11 năm, trải qua bao mùa băo lụt, các di-hài có thể bị nước lũ cuốn trôi đi chăng ?

       Măi đến chiều hôm sau (9-2-56), cận Tết, dưới trời mưa lâm-râm, bỗng xuất-hiện một cụ già đi ngang qua, cụ hỏi toán ḍ t́m:" Đă t́m thấy các Cụ chưa ?, đào mương nào, mương cũ hay mương mới ?. Th́ ra có 2 mương.. .Cụ già nói tiếp:" Cách đây 11 năm, tại đây tôi có đào một cái mương để dẫn nước từ sông lên ruộng.., ngày hôm sau ra tát nước th́ thấy mương bị lấp, du-kích trong làng cấm không cho tới gần... vài năm sau có người đến thầu mấy thửa ruộng của tôi ,cũng đào mương th́ bị khuyến-cáo không được đào thẳng mà phải đào chếch sang một bên.

       Đây là mương "mới", chỗ t́m ra hài-cốt độc-nhất nói trên...  Toán công-binh tiếp-tục đào sâu hơn, với chu-vi rộng lớn hơn th́ quả-nhiên t́m được 3 hài-cốt ở vị-thế đúng như những chi-tiết thâu lượm được .Điểm đặc-biệt là gần đến hài-cốt, màu đất trở nên xậm hơn, do có thể v́ thịt xương rữa nát ra (?), để tránh không đụng đến xương, đám người có phận-sự ngưng sử-dụng cuốc, xẻng mà chỉ dùng đũa cả ( đũa bằng tre ,lớn và dài) khơi đất ra từng mảng và sau cùng lộ ra rơ-rệt 3 bộ hài-cốt nằm chồng-chất lên nhau.

       Hài-cốt cuả Thầy tôi rất dễ nhận v́ dài và ngay cạnh tôi nhận ra được đôi mắt kính cận.. Hài-cốt của Cụ Khôi và ông Huân th́ ngắn và nhỏ bé, thân-nhân bên họ Ngô nhận ra được 2 chiếc răng vàng và chiếc thắt lưng to bản (quân-phục Nhật) của ông Huân. Ban tổ-chức rất chu-đáo, họ đă chuẩn-bị sẵn 3 cái tĩnh (quan-tài nhỏ bằng sành), vải liệm trắng, đỏ, 3 chậu tráng men lớn chứa đầy alcool 90o để rửa xương.Việc thử-nghiệm, rửa hài-cốt và tẩm-liệm kéo dài đến khi trời tối.

Tại làng Văn-Xá, quan-tài Cụ Khôi va ông Huân được quàn dưới một chiếc lều vải lớn, có thể chứa cả trăm người, có đèn điện thắp sáng choang, ṿng hoa phúng-điếu bày la-liệt, lính mặc lễ-phục túc-trực hai bên, các bộ-trưởng, thứ-trưởng âu-phục trắng cravate đen, các đại-biểu, cán-bộ đủ  mọi cấp ra, vào tấp-nập... tiếng cầu kinh của giáo-chúng thập-phương vang rền suốt đêm.. được biết ngày hôm sau 2 quan-tài sẽ được di-chuyển về Hiền-Sĩ, tại đây một nhà thờ lớn đă được dựng lên để cử-hành tang-lễ trọng-thể theo nghi-thức quốc-táng, có đông người tham-dự và sau mồng ba Tết mới đưa về Phú-Cam chôn cất .

       Trong khi đó, trên một ngọn đồi thấp, cách đấy không xa, trong một chiếc lều nhà binh nhỏ bé , dưới ánh sáng mờ-ảo của mấy ngọn nến, hai chị em chúng tôi cùng cụ bà Ưng-Tŕnh (thông-gia với gia-đ́nh họ Phạm chúng tôi) thay phiên thắp nhang bên linh-cữu Thầy tôi. Chúng tôi có mời một thượng-tọa trụ-tŕ tại một ngôi chùa nhỏ trong làng đến làm lễ cầu siêu, bên chính-quyền có cử một đại-diện đến phúng-điếu và phân-ưu, sau đó cắt-cử 2 quân-nhân mặc lễ-phục nghiêm-chỉnh đến túc-trực bên quan-tài. Như đă nói trên, ban tổ-chức có cung-cấp 3 tĩnh bằng sành để đựng hài-cốt.. .cả 3 có nắp in h́nh thánh-giá cuả Công-giáo nên chị tôi đă tế-nhị từ-chối để chỉ dùng cái tĩnh đă mua sẵn, dành riêng cho đệ-tử nhà Phật với chữ "vạn"  in trên nắp.

       Quá tủi thân trước sự khác biệt, ḷng ngậm-ngùi thê-thiết, chị em chúng tôi quyết-định thuê đ̣ chở quan-tài Thầy tôi về Huế ngay đêm hôm ấy .. .8 giờ sáng hôm sau th́ đến chùa Vạn-Phước, Thượng-Tọa Trụ-tŕ đă chờ sẵn .Sau nghi-thức đơn-giản, đúng 9 giờ th́ hạ huyệt. Một số đông bạn học cũ của các anh chị tôi tại hai trường Khải-Định và Đồng-Khánh đến tiễn đưa và chia buồn.

       Thời-gian dài kế tiếp sau đấy người dân Saigon được thấy một con đường lớn, rộng từ phi-cảng Tân-Sơn-Nhất vào trung-tâm thủ-đô mang tên đại-lộ Ngô-đ́nh-Khôi.. rồi đến măi thời Đệ-Nhị Cộng-Hoà của Tổng-Thống Thiệu "ơnghe nói" tên Thầy tôi đă được đặt cho một con đường nhỏ, gần đường Triệu-Đà trong Chợ-Lớn.. .Chị tôi và tôi lân-la đi t́m nhưng chẳng thấy tăm hơi!! Tất cả chỉ là một " dự-tính", một lời đồn mà thôi .. .

       Ôi ! thế-thái nhân-t́nh !!

  *Chú-thích : Anh chị em chúng tôi gọi cha bằng "Thầy", gọi mẹ bằng "Me", Thầy Me thương quí các con, thường gọi nựng các con khi c̣n nhỏ là "Em", lâu ngày thành nếp xưng-hô độc-đáo của riêng gia-đ́nh...

PHẠM-TUÂN – 2005

 

http://www.gio-o.com/PhanThanhTam.html

 

© gio-o.com 2010